Mở bể than 210 tỷ tấn: Tiềm năng lớn, rủi ro cao

Vietsciences                  20/09/2009

 

Những bài cùng đề tài

(TuanVietNam)- Bản đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng của Tập đoàn Than - khoáng sản Việt Nam TKV đang khiến dư luận quan tâm đặc biệt bởi tính khả thi.

Theo tính toán của tập đoàn Than - khoáng sản Việt Nam (TKV), năm 2010, tổng nhu cầu than trong nước vào khoảng 25-26 triệu tấn, tổng lượng sản xuất đạt khoảng 45-47 triệu tấn thì Việt Nam vẫn có thể xuất khẩu tầm 20 triệu tấn rồi lượng sản xuất, xuất khẩu sẽ phải giảm dần để đến năm 2012, sẽ chỉ còn khoảng 5 triệu tấn. Và đó cũng chính là lý do TKV đệ trình đề án xin mở cửa bể than đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).

Tuy nhiên giới khoa học đang quan ngại về tính khả thi của đề án, đặc biệt lo ngại vấn đề môi trường nước, môi trường sống, về an ninh lương thực cũng như hiệu quả kinh tế....

Để đáp ứng thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam khởi đăng loạt bài liên quan đến dự án bể than đồng bằng sông Hồng. Mời quý vị độc giả cùng tham gia phân tích.

Sao phải tính đến việc mở bể than ĐBSH vào lúc này?

Theo tính toán của TKV, cho tới năm 2015, nhu cầu “vàng đen” trong nước đã lên tới 94 triệu tấn, riêng các nhà máy điện than ngốn hết 67 triệu tấn nhưng tổng lượng than sản xuất ra chỉ khoảng 60 triệu tấn.

Năm 2020, tổng nhu cầu đã lên đến 184 triệu tấn, các nhà máy điện than dùng hết 150 triệu tấn nhưng sản xuất chỉ có thể đạt 70 triệu tấn. Còn tới năm 2025, tổng nhu cầu than ước tính lên tới 308 triệu tấn (nhà máy điện dùng hết khoảng 268 triệu tấn). Để bù đắp số lượng thiếu hụt, từ năm 2030 Việt Nam sẽ phải nhập than.

Chính vì vậy, việc mua than phải được tính ngay, đàm phán từ bây giờ nhưng các cuộc đàm phán ban đầu chưa mấy thành công vì giá than đã được nhiều nước bán ra hét với giá mà khi xưa, nước ta còn xuất khẩu mạnh, chẳng bao giờ bán được.

Ảnh minh hoạ (cafeF)
Thế nên, TKV đặt vấn đề là phải tiếp tục đẩy mạnh khai thác nguồn than trong nước trong đó có những vùng mỏ than chưa được khai thác được lãnh đạo TKV nghĩ là có tiềm năng to lớn.  

Ví dụ, tại vùng đồng bằng sông Hồng, theo TKV, đây có thể chứa một “bể than” với trữ lượng to lớn, lớn hơn cả bể than vùng Đông Bắc sẽ giúp cân bằng cung - cầu năng lượng của đất nước sau năm 2020, nếu tổ chức thăm dò, khai thác thành công. “Bể than” này được ước tính có trữ lượng khoảng 210 tỷ tấn, có những loại than sẽ đáp ứng rất tốt cho nhu cầu của các nhà máy nhiệt điện chạy than, cho luyện kim.

Từ cuối tháng 6.2009, một đề án với tên gọi “phát triển bể than ĐBSH” đã được TKV xây dựng và Bộ Công thương đã gửi đề án này đến nhiều bộ, ngành để lấy ý kiến góp ý.

Như đã nói ở trên, sự thiếu hụt ở mức khổng lồ nguồn nhiên liệu này rõ ràng đã khiến cho yêu cầu phải đẩy mạnh, khai thác những vùng than mới như bể than ĐBSH là vô cùng cấp thiết.

 

Tiềm năng lớn, rủi ro cao

Tuy nhiên, việc tổ chức thăm dò, khai thác vùng than rất tiềm năng này đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, triển khai một cách khoa học, với sự thận trọng tối đa bởi bể than ĐBSH trải trên một vùng diện tích đất đai vô cùng rộng lớn - nơi có hàng triệu người dân sinh sống với hàng triệu ha đất nông nghiệp trù phú, gắn liền với rất nhiều công trình xây dựng, kiến trúc... Bất cứ một sự thăm dò, khai thác cẩu thả nào dù nhỏ sẽ có thể đưa đến những hậu quả to lớn về kinh tế-xã hội mà cho dù, kết quả khai thác thế nào, cũng khó bù đắp được.

Trên thực tế, TKV cũng đã bắt đầu có những hoạt động thăm dò bể than ĐBSH. Mặc dù vậy, việc thăm dò vẫn còn dừng ở mức sơ khai vì tập đoàn này cũng đã thấy trước những khó khăn rất lớn của việc thăm dò. Vùng chứa than nằm ở những nơi có độ sâu lớn, điều kiện khai thác vô vùng khó khăn trên phạm vi rất rộng (dự kiến khoảng 3500 km 2)thuộc các tỉnh: Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình.

Dự kiến tạm thời thăm dò, khảo sát một số mỏ như mỏ Bình Minh, mỏ Khoái Châu 1 và mỏ Khoái Châu 2. Chỉ tính riêng các mỏ này, độ sâu thấp nhất dự kiến đã là 400-600 m, nơi sâu nhất có thể tới 900-1200m.

Cho nên, ngay cả với giai đoạn đầu này thì chi phí cho thăm dò, khai thác đã là một vấn đề hết sức khó khăn. Theo ước tính, chỉ riêng chi phí khảo sát bể than này đã ngốn hết 6500 tỷ đồng. Tổng mức đầu tư cho các dự án lên tới 76 nghìn 360 tỷ đồng.

Do đó,  TKV đã và đang phải tìm kiếm các nhà đầu tư nước ngoài để hợp tác thăm dò, tiến tới khai thác bể than đầy tiềm năng này.

Cho đến nay, tập đoàn này đã ký các bản hợp đồng hợp tác kinh doanh với Linc Energy, Australia, và Marubeni Corp., Nhật Bản, tiến hành áp dụng thử nghiệm phương pháp khí hóa than dưới lòng đất vào 1 mỏ than ở ĐBSH.

Ảnh minh hoạ (cafeF)
Công ty năng lượng sông Hồng (thuộcTKV) cũng đã ký thoả thuận với Tổng công ty Xuất nhập khẩu XNK máy Trung Quốc CMC để triển khai dự án thăm dò bổ sung khu vực Khoái Châu - Bình Minh tiến tới thành lập công ty liên doanh khai thác mỏ Bình Minh bằng phương thức hầm lò giếng đứng truyền thống...
  

Những phản biện ban đầu


Bản đề án phát triển bể than ĐBSH gửi đi các bộ, ngành cũng đã nhận được những ý kiến ban đầu. Bộ Xây dựng đã có những quan ngại và đề nghị TKV phải xem xét kỹ hơn về các vấn đề: khu vực khai thác than phải không được phá vỡ những định hướng lớn về quy hoạch xây dựng vùng và quy hoạch đô thị; không ảnh hưởng đến diện tích đất trồng lúa, công nghệ khai tác không được ảnh hưởng đến đất nền vùng khai thác.

Bộ Xây dựng cũng cho rằng, TKV phải tính được đến yếu tố tác động của xu hướng biến đổi khí hậu toàn cầu...
 

Trong khi đó, bản phản biện của Liên hiệp các hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam cho rằng đề án khai thác than ĐBSH "sơ sài, trùng lặp, thiếu cơ sở", thiếu báo cáo đánh giá môi trường chiến lược. Đặc biệt, bản phản biện cảnh báo: Do nước trong tầng Đệ tứ và Neogen liên thông với nhau, đất đá trong tầng Neogen rất mềm bở, dẫn tới khi khai thác ở độ sâu dưới 300 mét, chẳng hạn tại mỏ Bình Minh - Khoái Châu, nước sẽ chảy vào mỏ với tốc độ lên tới trên 20.000 m3 một giờ. Muốn khai thác, phải tháo khô mỏ. Điều này có thể làm nhiễm mặn mặt đất, kết hợp với việc sụt lún lan tỏa theo bề mặt, biến đồng bằng thành hồ chứa nước mặn, ảnh hưởng đến môi trường mưu sinh của con người và động thực vật nơi đây

Dù đây mới chỉ là những góp ý đầu tiên, nhưng nó cũng cho thấy tầm quan trọng đến thế nào của đề án trên.

Với qui mô và tính chất đặc biệt quan trọng của dự án này, chắc rằng TKV sẽ phải làm lại, kỹ lưỡng hơn nhiều đề án và cần phải trình ra Quốc hội về chủ trương khai thác đầu tư, những đánh giá đầy đủ về tác động môi trường, xã hội, hiệu quả kinh tế... để dự án được xét duyệt, thẩm tra một cách đầy đủ, được sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị, trong dư luận nhân dân chứ không như các dự án khai thác bauxite trước đây.

  • Nguyễn Hà

 

           http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org