Những bài cùng tác giả

Những nguồn năng lượng hóa thạch (dầu, khí tự nhiên, than) hiện đang
thịnh hành. Nhưng những loại năng lượng đó sinh ra khí có hiệu ứng nhà
kính làm biến đổi khí hậu và, trong tương lai, sẽ cạn kiệt. Những loại
năng lượng tái tạo là giải pháp cho cả hai vấn đề đó. Với trình độ
công nghệ hiện nay thì năng lượng gió (hay phong năng) có tiềm năng là
nguồn năng lượng tái tạo lớn. Phát triển của phong năng
Phong năng có lẽ là nguồn lực đã được nhân loại khai thác sớm nhất. Gió đã được dùng để đẩy thuyền buồm từ thời tiền sử. Từ khi chúng ta
lập quốc, ngư phủ Việt Nam đã dùng tàu buồm để ra khơi đánh cá quanh
những hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cũng từ thời buổi đó, tàu buồm
của người Philippines, Indonesia và Malaysia đã cập bến miền Trung
giao thương với ta. Nhà khảo cổ học Louis Malleret cho biết khi khảo
sát di tích Oe Eo (An Giang hiện nay) vào năm 1920, ông đã tìm thấy
những đồng tiền thời Hoàng đế Marc Aurèle, chứng tỏ đã có những tàu
buồm từ La Mã đến trao đổi hàng hoá với Phù Nam. Trước cách mạng công nghiệp, người ta đã biết dùng sức gió cho nhiều
hoạt động kinh tế trên đất liền. Người Tây Âu dùng sức gió để xay lúa
và bơm nước. Người Hà Lan dùng quạt gió làm cạn châu thổ sông Rhin để
lấn biển mở rộng lãnh thổ của họ. Vùng đồng bằng Bắc Mỹ đã được khai
hoang nhờ những máy bơm chạy bằng sức gió mang nước cho con người, gia
súc và đồng ruộng. Những máy bơm loại đó cũng đã giúp người Anh định
cư thương trực ở Australia. Sau cách mạng công nghiệp, với sự phát triển của điện lực, người ta đã
thử dùng những quạt gió để sản xuất điện. Nhiều kiểu quạt phong điện
đã được sáng chế từ quạt với trục đứng cũng như quạt với trục nằm.
Nhưng chỉ từ những khủng hoảng năng lượng vào thập niên 1970 thì công
nghệ phong điện mới có những quạt lớn từ một megawatt trở lên. Những
vùng ven biển, nơi mà 70 phần trăm nhân loại sinh sống, và những vùng
đồi núi là những nơi rất thuận tiện để khai thác sức gió. Vì gió thổi không đều và với tầm biến động lớn nên những quạt gió
không thể chạy liên tục với công suất đều đặn. Điều này không quan
trọng mấy khi dùng sức gió để bơm nước nhưng đặt ra nhiều vấn đề kỹ
thuật và kinh tế trong việc sản xuất điện. Nếu công suất những quạt
gió trong tổng công suất mạng phân phối điện quốc gia quá cao (ước
chừng 10 phần trăm) thì mạng sẽ không có thể cân bằng được. Nếu quạt
gió không liên kết với mạng phân phối điện quốc gia thì phải có biện
pháp tich trữ điện hay phụ trợ bằng những phương tiện phát điện khác.
Những biện pháp này làm tăng nhu cầu vốn đầu tư cho một hệ thống phong
điện. Cho tới nay, năng lượng gió mới chỉ đóng góp có 1,5 % nhu cầu điện của
nhân loại. Nhưng tỷ số đó tăng mạnh và, hiện nay, đã có tám chục quốc
gia trên thế giới có cơ sở sản xuất điện gió : 19 % sản lượng điện của
Đan Mạch, 13 % của Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha, 7 % của Đức và Ái Nhĩ
Lan,... Theo AWEA (American Wind Energy Association, Hội Phong năng
Hoa Kỳ) thì, năm 2009, Hoa Kỳ đã lắp đặt 9.922 MW công suất phong
điện, tăng 39 % so với 2008 và nâng tổng công suất phong điện lắp đặt
ở Hoa Kỳ lên hơn 35.000 MW (công suất tương đương với công suất của 35
lò phản ứng hạt nhân cỡ trung bình). Khả năng khai thác phong năng ở Việt Nam
Nước ta có trên 3.000 km chiều dài bờ biển và 90 % lãnh thổ của ta là
đồi núi. Nói rằng tổng công suất phong năng của ta ước đạt 513.360 MW,
bằng hơn 200 lần công suất của Thủy điện Sơn La thì quá đáng . Nhưng
chắc chắn địa thế của ta rất thuận lợi để khai thác phong năng. Nguồn tài nguyên có sẵn. Nhu cầu thì cũng lớn. Nông nghiệp, hơn nửa tổng số lao động của cả nước, dùng sức con người
và súc vật là chính. Vài nơi dùng động cơ máy nổ và máy điện. Đây là
một thị trường lớn cho những máy bơm nước chạy bằng sức gió. Chúng ta có một số đảo lớn như đảo Bạch Long Vĩ, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú
Quý, Thổ Chu, Trường Sa Lớn,... có nhiều người sống thường trực nhưng
quá xa bờ để có thể cung cấp điện bằng một dây cáp dưới biển và số
nhân khẩu không đủ để chứng minh một nhà máy điện cổ điện lớn. Những
đảo này cần được trang bị bởi một hai quạt phong điện kết nối với một
máy phát điện hỗ trợ cùng công suất. Mục đích là giảm lượng nhiên liệu
phải tải đến những đảo. Không những giá thành của điện sẽ giảm mà rủi
ro ô nhiễm môi trường khi thuyên chuyển nhiên liệu cũng giảm theo. Những hải đảo nhỏ hơn có vài người luân phiên nhau cư trú thì chỉ cần
đến một hay hai quạt gió liên kết với những bình ắcquy điện tích đủ để
bảo đảm điện cho những phương tiện truyền thông và giữ lạnh thực phẩm
và thuốc men. Những đá ngầm thì dùng quạt gió hay pin mặt trời để cung cấp điện cho
những cọc tiêu. Chất lượng những thiết bị đó bây giờ đủ tốt để không
còn vấn đề bảo hành trong cả chục năm. Trên đất liền thì chúng ta có thể xây dựng những quạt phong điện công
suất lớn nhất. Những nước khác làm gì thì làm tùy hoàn cảnh riêng của
họ. Chúng ta không bắt buộc phải theo họ vì nước ta có nhiều núi thuận
tiện xây hồ tích năng. Những quạt gió, dù là những quạt phát điện cũng
nên chỉ dùng để bơm nước vào những hồ tích năng và để những nhà máy
thủy điện sản xuất điện theo nhu cầu. Ở nước ta, khi thì quá ít gió,
khi thì bão nên tỷ lệ sẵn dùng được của những quạt phong điện sẽ rất
thấp. Gió thổi với biến động lớn về cường độ. Nếu chúng ta liên kết
những quạt phong điện trực tiếp với mạng phân phối điện quốc gia thì
ổn định mạng sẽ là một vấn đề nan giải. Đề nghị một chiến lược công nghệ năng lượng gió cho Việt Nam
Về chiến lược công nghệ, người ta phân biệt ba giai đoạn khai triển :
thế hệ một khi tiềm năng công nghệ mới được nghiên cứu trong các phòng
thí nghiệm, thế hệ hai khi có những nguyên mẫu được chế tạo hay xây
dựng để thử nghiệm và xác định những thông số kỹ thuật và kinh tế, và
thế hệ ba khi đã có một thị trường toàn cầu với những kiểu mẫu được
tiêu chuẩn hóa và tối ưu hóa để đưa vào sản xuất hay xây dựng một cách
công nghiệp. Phong năng để bơm nước thuộc thế hệ ba vì đã có những nhà máy sản xuất
đại trà những máy bơm chạy bằng sức gió từ cuối thế kỷ XIX. Còn phong
điện thì đang chuyển từ thế hệ hai sang thế hệ ba. Vì lý do đó mà, so
với điện sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch, phong điện vẫn còn đắt.
Nhưng, với đà gia tăng của ngành phong điện mô tả ở trên, hiệu ứng tay
nghề (learning effect) sẽ làm giảm giá thành xuống dưới giá điện cổ
điển vào khoảng năm 2020 ở một số nơi trên thế giới. Còn ở nước ta thì
phong điện có lẽ sẽ phải chờ lâu hơn mới có thể cạnh tranh được với
nhiệt điện. Công nghệ những quạt gió dùng để bơm nước tương tự như công nghệ sản
xuất xe đạp. Sản xuất một cách thủ công thì cũng có thể được. Nhưng
nếu sản xuất một cách công nghiệp thì giá sẽ rẻ và chất lượng sẽ được
bảo đảm. Công nghệ những quạt gió dùng để sản xuất điện, lớn hay nhỏ,
gần với công nghệ hàng không và vũ trụ. Những tiến bộ của ngành này sẽ
hiệp đồng giúp ngành kia. Như viết ở trên, hiện nay phong điện vẫn còn đắt. Những tư nhân và xí
nghiệp sản xuất phong điện và làm ăn có lợi chỉ nhờ ưu đãi thuế của
chính phủ hay nhờ những xí nghiệp điện quốc doanh được lệnh mua lại
điện với giá ưu đãi. Chính phủ các nước công nghiệp tài trợ công nghệ
phong điện để tạo ra hiệu ứng tay nghề để có lợi thế chiến lược khi
công nghệ này sẽ chuyển vào thế hệ ba. Vậy chính phủ Việt Nam có nên làm theo họ hay không? Chúng tôi xin trả
lời là nên làm một cách khác. Máy bơm chạy bằng sức gió sẽ giúp nông dân ta đỡ vất vả khi phải tát
nước. So với những máy bơm điêzen hay máy bơm điện thì những máy bơm
chạy bằng gió sẽ rẻ hơn nhiều cả về đầu tư cũng như về vận hành. Dân
số Việt Nam sống nhờ nghề nông đủ để bảo đảm một thị trường lớn. Nếu
tính thêm những nước láng giềng trong khối ASEAN thì thị trường này
rất lớn. Chúng ta cần thành lập một xí nghiệp cơ khí chuyên về sản
xuất những máy bơm chạy bằng sức gió. Về những quạt phong điện, chúng ta tạm thời không xây dựng những trại
phong điện để ưu tiên dành vốn cho những ngành kinh tế mang lại lợi
nhuận sớm hơn. Để thoả mãn nhu cầu điện tại các hải đảo, chúng ta có
thể nhập khẩu những thiết bị chạy bằng gió hay chạy bằng ánh sáng mặt
trời. Nhưng, để có tự chủ về công nghệ phong điện khi giá thành của
năng lượng này có thể cạnh tranh được với điện hạt nhân và điện cổ
điển, chúng ta phải theo sát những phát triển kỹ thuật của ngành này. Để làm tốt việc đó chúng ta có nhiều cách : (a) kêu gọi những xí nghiệp nước ngoài đến lập những trại phong điện
trên lãnh thổ nước ta để làm trạm nghiên cứu khoa học kỹ thuật với
điều kiện những quạt phong điện của họ không được kiên kết với mạng
phân phối điện quốc gia, (b) cung cấp những nghiên cứu sinh và nghiên cứu sư làm gia công trong
những công trình nghiên cứu với họ, (c) sản xuất để xuất khẩu những thiết bị phong điện do chúng ta thiết
kế hay do nước ngoài đặt mẫu, (d) khai triển những công nghệ có hiệp đồng với công nghệ phong điện
như là cơ khí, cơ điện, điều khiển học, tự động học, vật liệu mới,
hàng không và vũ trụ,... đang hỗ trợ những ngành công nghiệp khác mà
chúng ta đang khai triển. ***** Mục đích của chúng ta là trở thành một quốc gia công nghệ. Vì thiếu
vốn và thiếu nhân lực có tay nghề chúng ta không thể thấy người khác
làm gì là nhào đi làm theo họ. Chúng ta phải có một chiến lược thích
hợp với hoàn cảnh riêng của mình : dùng vốn đầu tư một cách tối ưu và
hợp doanh với nước ngoài để tích lũy tay nghề và chia với họ lợi nhuận
sáng chế. Về phong năng thì điều quan trọng không phải là sản xuất điện bằng mọi
công nghệ với bất cứ giá nào. Điều quan trọng là phải có một mạng phân
phối điện ổn định và có đủ công suất để phát triển kinh tế một cách
hài hòa. Cho tới nay, tỷ trọng của tất cả các ứng dụng của năng lượng
gió trên thế giới chưa đáng kể so với những loại năng lượng khác. Do
đó đóng góp của loại năng lượng này chưa được là bao nhiêu trong việc
kìm hãm biến đổi khí hậu. Ít nhất trong hai thập niên tới, kinh tế
Việt nam vẫn còn có thể tiếp tục phát triển mạnh với những công nghệ
sản xuất điện cổ điển. Đặng Đình Cung "U.S. wind energy industry breaks all records, installs nearly 10,000
MW in 2009" "Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả: Việt Nam: Nguồn năng lượng
gió lớn nhất Đông Nam Á"
Đã đăng trên diendan.org
---oOo---
Ngày xưa người ta cũng đã tận dụng năng lượng gió
 
Cối xay gió Sorine tỉnh SANTENAY-
được François SORINE (1782-1855), con của một người
trồng nho tỉnh Santenay xây vào khoảng năm 1830
Được tu bổ năm 1990 và khánh thành năm 1995, cối xay này vẫn
còn xay được (Vietsciences) |