Năng lượng tái tạo thay vì Điện hạt nhân

Vietsciences-Nguyễn Khắc Nhẫn             27/05/2010

 

Những bài cùng tác giả

“Điện hật nhân không kinh tế mà còn nguy hiểm cho đất nước”, như tôi đã có dịp giải thích trên Thời báo kinh tế Saigon số ra ngày 27-5-04. Nay tôi xin trình bày tiếp những lý do tại sao nước ta nên phát triển mạnh Năng lượng tái tạo (NLTT).

Vài khái niệm cần biết

Năng lượng có 4 nguồn gốc chính: mặt trời (quan trọng nhất), hạt nhân, địa nhiệt và thuỷ triều.

Sau hàng trăm triệu năm, nhờ mặt trời, năng lượng đã tập trung ở nhiều mỏ : than, dầu và khí. Các nguồn năng lượng hoá thạch này được tích trữ (stock), sẽ dần dần khô cạn, với tốc độ ngày càng nhanh, vì nhiều nước giàu mạnh đã sử dụng một cách phung phí và vô trách nhiệm. Dầu thương mãi còn khoảng 40-50 năm, khí 60-70 năm, than trên một hai thế kỷ. Thời gian ấy có thể dài hơn, nếu có tiền khai thác các loại nhiên liệu hiện nay chưa kinh tế, như cát chứa asphan hay đá dầu, với tiềm năng rất lớn.

Nếu ta vẽ những đường biểu diễn các dạng năng lượng, kế tiếp nhau từ thế kỉ 16 đến nay, mỗi thứ nhiên liệu có một “ thời kỳ oanh liệt “, kéo dài hàng chục năm : củi , than, thủy điện, dầu, khí rồi hạt nhân. Nhà nghiên cứu C.Marchetti của Viện IIASA (International Institute for Applied System Analysis, Vienne (Áo), hình như đã có ý muốn tìm xem ĐHN có biến chuyển như chu trình kinh tế dài hạn Kondratiev, lên xuống theo từng đợt 40-50 năm không? Theo tôi ,“thời kỳ oai hùng “ của ĐHN, từ 1954 (Nautilus) đến 1986 (Tchernobyl), đã qua rồi và khó trở lại được nữa !

N LTT (mặt trời, thuỷ điện, gió, sinh khối ...) cũng do mặt trời, là nguồn thông lượng ( flow ) Từ thời thượng cổ, tổ tiên chúng ta đã khai thác các dạng năng lượng này một cách thông minh với nhiều sáng kiến đáng kính phục. Dùng danh từ “năng lượng mới” là không đúng, có mới chăng là các phương pháp mà thôi. NLTT hiện nay chưa kinh tế và tùy nguồn, cũng có vấn đề môi trường, nhưng tương đối, ít nguy hiểm như các nguồn năng lượng hóa thạch hay ĐHN. Công suất mặt trời vô cùng to lớn, tương đương với 173 tỷ MW, tức là bằng 20 triệu lần công suất thiết kế của những nhà máy điện nước ta năm 2004. Năng lượng của mặt trời đủ cung cấp ít nhất 7000 lần nhu cầu năng lượng thế giới hiện nay. Trung bình, mỗi mét vuông của mặt đất đuợc mặt trời chiếu sáng như có một bóng đèn 180 W chiếu thường trực.

NLTT bị ĐHN và Dầu mỏ lấn ép !

Nhiên liệu, tạo hóa đã “cho không” mà nhân loại “ không lấy”, chẳng biết lợi dụng, triệt để khai thác. Ngành công nghiệp năng lượng của nhiều nước giàu mạnh tiếp tục ru ngủ, khôn khéo dựa vào khoa học kĩ thuật, che giấu dư luận khi cần, để lấn ép NLTT. Từ nửa thế kỉ nay, hầu hết kinh phí dành cho việc nghiên cứu ở các cường quốc là để bành trướng ĐHN, thay vì dồn cho ngành NLTT, động lực quí báu nhất của việc phát triển lâu bền kinh tế và xã hội toàn cầu. Điều đáng mừng là nhiều chuyên gia, tại Hội nghị Năng lượng thế giới vừa bế mạc ở Sydney, đã khuyến khích các nước nên đặc biệt đầu tư trong lĩnh vực nghiên cứu NLTT.

Nhân loại phải lợi dụng giai đoạn chuyển tiếp từ đây đến 2030, trước khi các lò thế hệ IV ra đời, và cũng là thời điểm mà giá khí, dầu, có thể tăng cao tột đỉnh (nay đã lên 54 USD/1 thùng -159 lit-, hơn gấp đôi giá thị trường mong đợi, 20USD/1 thùng ), vì nạn khan hiếm bắt đầu rõ rệt, đồng thanh khuếch trương mạnh các nguồn NLTT. Cao điểm sản xuất dầu mỏ trên thế giới (Peak oil – của nhà địa chất học Mỹ Hubbert ) có thể phát hiện từ 2020 đến 2030, hoặc sớm hơn (2005-2010). Theo nhà địa chất học Mỹ Matthews Simmons, nước Arabie Saoudite đã đạt cao đỉnh!

Vài con số sau đây cho ta thấy chiến tranh nặng mùi dầu mỏ sẽ có thể tái diễn một cách bất ngờ: từ 2001 đến 2025, tỉ lệ nhập cảng dầu mỏ của Mỹ sẽ tăng từ 55,7% đến 71%, Châu Âu từ 50,1% lên 68,6% và Trung Quốc từ 31,5% đến 73,2% ! Mức tăng trưởng dầu mỏ cần thiết cho toàn cầu là 1,9% mỗi năm, từ 80 triệu thùng dầu / ngày hiện nay đến 120 triệu thùng / ngày năm 2020 ! Trong tương lai, trong tầm địa lý chính trị thế giới có thể là vùng biển Caspienne, giàu dầu và khí, và tên những nước Azerbaidjan, Kazakhstan (thứ ba về trữ lượng dầu mỏ) và Turkmenistan (thứ năm về trữ lượng khí) khó đọc, dần dần sẽ quen thuộc như Iran, Irak.

Vai trò của NLTT và chiến lược dài hạn

Tất cả những ngồn năng lượng đều cần thiết, nhưng phải nhìn nhận rằng chỉ có NLTT mới đủ điều kiện giúp nhân loại giải quyết lâu bền những vấn đề trọng yếu sau đây :

• Chống hiệu ứng nhà kính (thay đổi khí hậu).

• Phát triển bền vững kinh tế và xã hội (đem lại nhiều công ăn việc làm)

• Dành dụm các nguồn hóa thạch.

• Tránh những tai biến quan trọng, những cơn khủng hoảng địa lí về dầu, khí, hạt nhân có thể gây ra chiến tranh.

• Hạ mức sản xuất chất thải phóng xạ và sự lan rộng vũ khí nguyên tử.

• Làm giảm sự mất thăng bằng Nam Bắc. Vì năng lượng cũng như môi trường, đòi hỏi rất nhiều tiền và thời gian, là một vấn đề mênh mông, ảnh hưởng cả vũ trụ, chứ không riêng gì cho một vài vùng hay khu vực; chiến lược dài hạn của mỗi nước cần có hướng nhìn sâu rộng, sao cho phù hợp với quyền lợi chung và di sản của nhân loại. Có 3 nguyên tắc chính phải được phổ biến rộng rãi và áp dụng chặt chẽ :

• Tiêu thụ chừng mực: ưu tiên dành cho nhu cầu thiết thực. Đặc biệt quan tâm đến những mô hình cầu thay vì cung.

• Gia tăng hiệu suất và tiết kiệm năng lượng: chọn lọc máy móc và phương pháp có hiệu suất cao (dùng đèn huỳnh quang tiêu thụ 5 lần ít hơn đèn thường )

• Bảo vệ môi trường và các thế hệ sau.

Nên tránh sự tập trung các nguồn NLTT

Các nguồn NLTT tràn ngập trên vũ trụ và được rải khắp nơi cho mọi người. Đó là một đặc tính thiên nhiên hết sức quan trọng mà ta thường không để ý. Ta nên bỏ thành kiến sai lầm, và nên tránh việc một hai phải mất thì giờ và tiền bạc, tập trung lại những nguồn vốn nằm rải rác, để thiết lập nhưng nhà máy đồ sộ, rồi sản xuất, truyền tải, phân phối, cung cấp điện cho mỗi gia đình, qua nhiều tầng biến thế, với nhiều tổn thất trên hệ thống dây. Đúng ra, tuỳ trường hợp, phải tìm mọi cách sản xuất và tiêu thụ ngay tại chỗ, ở từng thành phố, từng làng xã, từng căn nhà. Ngày nay, nên chủ trương chính sách năng lượng phân cấp với nhưng hệ thống độc lập, nhưng có thể tiếp cứu nhau.

Luôn bị năng lượng hoá thach và hạt nhân lấn ép, NLTT mang tiếng là không kinh tế và không đủ số lượng cho nhu cầu lớn. Sự thật không đúng hẳn như thế. Nhiều nhà máy thuỷ điện, địa nhiệt hay thuỷ triều (La Rance – 240 MW ở Pháp) cũng có công suất lớn, trên vài chục, vài trăm hay vài ngàn MW.

NLTT sẽ kinh tế và không có vấn đề kỹ thuật quan trọng

Về giá thành kWh, bài toán phân tích kinh tế để so sánh các nguồn, thường không chính xác, vì người ta vô tình hay hữu ý, không chịu tinh phần phí tổn gây ra, do ô nhiễm môi trường (CO2 chẳng hạn), ảnh hưởng đến xã hội (vấn đề sức khoẻ).

NLTT sạch hơn cả, cần được khuyến khích, bằng tiền thưởng trong bài toán mới công bằng. Nhiều chuyên gia đã tuyên bố rằng, nếu kể phí tổn gây ra vì môi trường bị ô nhiễm, thì NLTT sẽ xáo trộn bảng sắp hạng kinh tế của các nguồn. Nhiều nước Châu Âu đã áp dụng nguyên tắc này, không ngoài mục đích giúp cho ngành NLTT cất cánh nhanh. Đan Mạch là một trong nhưng nước đánh thuế CO2 đầu tiên. Ở Thuỵ Sĩ, Nouvelle Zélande, tiểu bang Colorado Mỹ, đa số dân chúng chấp nhận cho tăng hoá đơn điện một vài phần trăm, hoặc tự nguyện ủng hộ vào quỹ đặc biệt, để khuyên khích các dự án NLTT.

Đứng về phương diện kỹ thuật, công nghệ NLTT tương đối thô sơ, không phức tạp lắm và dễ khai thác. Nhiều nước đang phát triển (qua sự chuyển giao công nghệ) đã chế tạo, sản xuất và xuất khẩu máy móc dụng cụ, tránh nhập cảng và lệ thuộc các nước giàu mạnh. Đó là điều mà các cường quốc không vỗ tay ủng hộ!

Tại sao NLTT chậm cất cánh

Bây giờ chúng ta thử xét một cách khách quan vài con số, để hiểu biết hiện trạng và để có một ý niệm rõ ràng hơn về tương lai của ngành NLTT.

Hiện nay NLTT chiếm khoảng 13,6% của tổng nhu cầu năng lương sơ cấp toàn cầu (trong đó 6,6% là do thuỷ điện – bằng điện hạt nhân – 6,4% là nhiên liệu cổ truyền; tương đương với 25% năng lượng của các nước đang phát triển, gồm có : củi, than củi, rác...). Các dạng năng lượng khác như mặt trời, gió, địa nhiệt, sinh khối, chiếm một tỉ lệ không đáng kể 0,6% (đến 1% là tối đa !) Trên thực tế, những con số này không đúng lắm vì một phần NLTT và nhất là nhiên liệu cổ truyền thường không nằm trong thống kê thương mại của thị trường.

Vì ngành công nghiệp than, dầu, khí, ĐHN, quá giàu mà lại còn được sự giúp đỡ về tài chánh của ngân quỹ các quốc gia để nghiên cứu và phát triển, nên NLTT chưa có phương tiện cất cánh mạnh, trừ những năm gần đây.Từ ngày Hội nghị Năng lượng thế giới New-Delhi (1983), lần đầu tiên đề cao vai trò của NLTT, đến nay đã trên 20 năm trời, mà tỷ lệ nhỏ bé trên vẫn còn bị các cường quốc tiếp tục đè bẹp!

Với NLTT, các nước nghèo không tốn nhiên liệu, không lệ thuộc khoa học kĩ thuật tối tân, không gặp các cơn khủng hoảng, thì làm sao các công ty quốc tế lớn có cơ hội thu lợi nhuận ? Một trong những nguyên nhân chính của sự chậm trễ ngành NLTT là vì các công ty này không muốn có sự cạnh tranh!

Ta nên đặt câu hỏi tại sao ở Wall Street, giá cổ phần dầu mỏ, từ một năm nay đã tăng nhanh hơn 4 lần chỉ số Dow Jones (32% thay vì 8%). Thị trường chứng khoán Paris cũng thấy giá cổ phần dầu mỏ tăng gấp đôi chỉ số CAC 40. Từ cuối 1973 đến nay, giá thùng dầu xem như làm chủ thị trường quốc tế, lên xuống tùy tình hình địa chính trị và mức tiêu thụ của các cường quốc. Mỗi cơn khủng hoàng làm lung lay nền kinh tế mỏng manh của những nước nghèo. Cho nên chỉ có NLTT, nếu phát triển mạnh trên tòan cầu , mới có thể chặn đứng tình thế bất ổn định này, và sự thống trị dầu mỏ và hạt nhân dần dần sẽ giảm bớt.

NLTT sẽ có nhiều triển vọng

Năng lượng gió, theo tôi, sẽ có nhiều triển vọng nhất. Đến 2050, tổng sản lượng điện gió toàn cầu có khả năng tương đương với thuỷ điện. Đầu năm 2002, bốn nước Đức, Tây Ba Nha, Mỹ, Đan mạch chiếm gần 90% tỷ lệ điện gió thế giới. Đức hiện nay đứng hàng đầu với 15.000 MW. Đan Mạch là nước xuất cảng mạnh nhất tua bin gió (46% thị trường). Đến 2030, tỉ lệ điện gió và sinh khối của nước này sẽ lên đến 50% ! Ở Châu Ấ, Ấn Độ là nước có nhiều kinh nghiệm quí báu hơn cả trong lĩnh vực này.

Cộng đồng Châu Âu đã quyết định nâng cao tỉ lệ NLTT từ 13,9% (1997) lên 22% năm 2010. Chương trình biểu diễn HIP HIP (House Integrated Photovoltaic High Tech In Public) đã bảo trợ trên một trăm dự án đem lại kết quả khả quan. Theo Hermann Scheer, đại biểu quốc hội Bundestag, chủ tich Eurostar và World Council for Renewable Energy, ở Đức, mỗi năm tăng thêm 3000 MW tái tạo và đến nửa thế kỉ này, tỷ lệ NLTT có thể đạt con số 50%. Nước nóng sạch gia dụng sẽ do 40% năng lượng mặt trời. Phải tìm hiểu kĩ nguyên do, tại sao một cường quốc như nước Đức, với 19 lò đang vận hành (30% ĐHN) mà đã can đảm tuyên bố sẽ hy sinh hàng trăm tỷ USD, rút ra khỏi lĩnh vực hạt nhân ?

Nước Anh có tiềm năng năng lượng gió lớn nhất Châu Âu và Pháp đứng thứ hai với 60 ti kWh/năm (tương đương với thuỷ điện) ở trên đất, 100 tỷ kWh ở ngoài biển gần. Theo nhà chuyên gia về NLTT Bernard Chabot, ADEME- Sophia Antipolis, giá thành kWh điện gió ở Pháp sẽ mang tính kinh tế vào năm 2030 (4,8 cUSD/kWh trên đất liền với tốc độ gió 6-6,4 m/s, chạy 2200 giờ một năm, và đắt hơn 50% nếu ở ngoài biển).

Tổ chức Lương nông Liên hiệp quốc (FAO) đã có chương trình phổ biến, ở 10 nước tại Châu Phi, kỹ thuật đưa nước vào ruộng bằng năng lượng mặt trời (dùng bơm quang điện). Israel, tiểu bang Californie và một số nước miền nam Châu Âu cũng đã có kinh nghiệm về phương pháp này.

Từ lâu, Trung Quốc là nước đã phát triển mạnh nhất chương trình thuỷ điện nhỏ. Cách dây 10 năm đã thiết lập gần 50.000 nhà máy này mà 85% là do các làng trực tiếp quản ly. Trên 90 triệu dân có điện cũng nhờ năng lượng này. Năm 1993, Trung Quốc đã chiếm 50% tỷ lệ thuỷ điện nhỏ thế giới (80 tỉ kWh/năm)

Về năng lương địa nhiệt, cần phân biệt hai loại :

• Với nhiệt độ thấp, (50 – 100°C) đặc biệt để sưởi nhà. Năm 1995 công suất toàn cầu là 4000 MW, trong đó phần Pháp là 270 MW, dùng để sưởi 200.000 căn nhà

• Với nhiệt độ cao, (170-200°C) có thể làm nhà máy sản suất điện như ở Larderello (Ý) hay ở Californie.

Những nước và vùng sau đây cũng đã có nhiều kinh nghiệm về năng lượng địa nhiệt: Irlande, tiểu bang Californie, Nouvelle Zélande (30%) đồng phát hơi và điện, Ý, Philippines, Indonesie. Ở các nước Pháp, Thuỵ sĩ, Đúc, chương trình sử dụng địa nhiệt dưới vườn nhà tư nhân để làm nước nóng sạch và sưởi ấm đang được khuyến khích. Có nhiều dự án làm giảm được 75% chi phí năng lượng.

Hiện nay, nhiều nươc khác cũng đang phát triển NLTT, nhưng với một tốc độ còn yếu, không phù hợp với mục tiêu. Những cường quốc đều có chương trình NLTT. Vì có điều kiện khoa hoc, kĩ thuật và tài chính, họ cũng đã đầu tư vào các công trình nghiên cứu về nhiên liêu sinh khối, pin hydro, cô lập carbon (chưa kể năng lượng nhiệt hạch hạt nhân còn xa vời !). Tuy nhiên, tỷ lệ NLTT toàn cầu đến 2050 sẽ rất quan trọng.

Một nguồn năng lượng mới : Tiết kiệm năng lượng

Tiết kiệm năng lượng cần được xem như là một nguồn năng lượng vô cùng quan trọng và quí báu. Một bài tính đơn giản đã cho biết rằng nguồn năng lượng này, nếu có sự quyết tâm chống lãng phí của tất cả các nước, có khả năng tương đương với 50% mức tiêu thụ hiện nay của toàn cầu ! Điều ấy cũng dễ hiểu thôi; vì chỉ riêng Mỹ, với 5% dân số, họ đã tiêu thụ 25% năng lượng thế giới! Nhiều chuyên gia nước này cũng nhìn nhận có thể tiết kiệm được 43% năng lượng tiêu thụ, trong đó 50- 94% là do tổn thất gia dụng. Mỗi năm một người Mỹ, trung bình sử dung 8,8 tấn dầu, tức 20 lần mức tiêu thụ của môt người dân Việt Nam.

Nếu mỗi nước có ngay một chương trình NLTT dài hạn và tiết kiệm năng lương, biết triệt để áp dụng những phương pháp tiêu thụ năng lượng một cách có hiệu quả, thì quý cho nhân lọai biết bao. Ví dụ kế hoạch năng lượng Đan Mạch, chủ trương giảm 65% khí thải CO2 vào năm 2030, với tổng kinh phí khoảng 1 tỉ USD, tức 0,5% PIB. Kế hoạch này dựa vào những cố gắng trong chính sách tiết kiệm năng lượng ở mọi ngành : đốt sưởi -40%, máy điện gia dụng -70%, vận tải -65%, thay đổi thái độ cá nhân từ -10% đến -20%. Mặc dù PIB của nước này tăng được 48%, từ 1970 đến 1989, năng lượng tiêu thụ tòan quốc mỗi ngày một giảm.

Trường hợp Việt Nam

Đừng quên rằng hệ số đàn hồi của nước ta (ΔE/E) / (ΔPIB/PIB) vẫn còn quá cao, trên 1,5 ; cần hạ gấp xuống dưới 1, càng thấp càng quý cho công nghiệp và kinh tế.

Việt Nam tương đối dồi dào về năng lượng thiên nhiên hoá thach cũng như tái tạo. Chúng ta cần nghiên cứu kĩ lại tiềm năng NLTT trên tòan lãnh thổ.

Thay vì đi vào con đường ĐHN không kinh tế và hết sức nguy hiểm cho đất nước và những thế hệ sau, tốn rất nhiều tiền và thì giờ một cách vô ích, không thấy lợi đâu cả mà chỉ thấy hại trước mắt, chúng ta cần có một cuộc cải tổ sâu rộng trong lĩnh vực năng lượng ! Với một ý chí chính trị rõ ràng, các cơ quan có trách nhiệm nên quyết tâm huy động mọi tầng lớp dân chúng, mọi cơ sở, mọi xí nghiệp, để phát triển mạnh một chương trình dài hạn NLTT và tiết kiệm năng lương. Muốn đạt kết quả tốt, cũng cần đặc biết chú ý đến triết lý và chính sách Giáo dục và Đào tạo, như nhà văn Nguyên Ngọc và giáo sư Bùi Trọng Liễu, Đại học Paris, đã có dịp trình bày nhiêu lần trên báo chí: ở nhiều nước, ngay ở truờng tiểu học, học sinh cũng đã có những khái niệm về năng lượng và môi trường. Thay đổi thái độ phải bắt đầu từ lúc tuổi thơ.

Tiềm năng tiết kiệm của ta cũng rất lớn, so với nhu cầu thiết thực. Đến 2020, nó có thể đạt con số 2000 MW, có nghĩa là ta khỏi cần xây cất hai lò ĐHN như đã dự trù. Tôi xin nhấn mạnh một lần nữa là Việt Nam sẽ cần 200 tỷ kWh sau 2030 chứ không thể nào sớm hơn (xem bài của giáo sư Phạm Duy Hiển, đăng trên Thời bao Kinh tế Sài Gòn ra ngày 8-7-04: Năm 2020 Việt Nam chỉ cần 100 tỷ kWh !)

Chúng ta đừng coi thường hiện tượng lũy thừa, kinh tế Trung Quốc mất cân bằng (quá nóng) cũng vì thế. Với nghị lực, trí thông minh và sáng kiến của dân tộc, ta sẽ đi nhanh. Nước nhà có thể độc lập trong ngành năng lượng, không lệ thuộc cường quốc nào cả (công nghệ lò hay Uranium giàu). Trong lĩnh vực NLTT, chúng ta sẽ có đủ khả năng sản xuất và xuất khẩu sớm máy móc, dụng cụ cho thị trường, trước khi có sự canh tranh mạnh. Chính trong lĩnh vực còn chỗ đứng này của ngành NLTT, những công trình nghiên cứu của ta sẽ có tiếng vang mà không làm khô cạn ngân sách quốc gia, trái với Câu lạc bộ ĐHN eo hẹp của 33 nước, không còn chỗ ngồi tương ứng với khả năng khoa học và kĩ thuật nước ta hiện nay.

Theo tôi, nếu có một nước trên thế giới cần tránh làm ĐHN, nước ấy là Việt Nam. Vì hậu quả chiến tranh liên tiếp còn để lại biết bao đau thương, bao chất độc, như dioxine, còn rải rác trên lãnh thổ, tai hại cho đồng bào trong 50-60 năm nữa là ít ! Nga và Ukraine có 3 triệu nạn nhân vì Tchernobyl, chúng ta cũng có khoảng 3 triệu nạn nhân vì chất độc da cam ! Tại sao phải đón nhận thêm món quà chất thải phóng xạ cho ruộng đất mà chúng ta “mượn tạm của con cháu, chứ không phải thừa hưởng của tổ tiên”?

Thay đổi khí hậu

Công nghiệp hạt nhân, với nhiều nhóm quốc tế có thể lực, lợi dụng hiện tượng thay đổi khí hậu, đã đề cao quá trớn vai trò ĐHN trong việc chống hiệu ứng nhà kính. Gần đây, James Lovelock, một nhân vật có uy tín trong các nhóm bảo vệ môi trường, cũng hoà tiếng nói của mình với luận điệu này, làm các đảng xanh hết sức phẫn uất.

Tất cả nhưng nhà máy điện trên thế giới chạy bằng than, dầu, khí, chỉ chịu tránh nhiệm khoảng một phần tư số lượng CO2 thải lên trời (24 tỷ tấn năm 2002). Hai lĩnh vực công nghiệp và vận tải ô nhiễm môi trường nhiều hơn.. Đổi chất thải hạt nhân với CO2, thì chẳng khác nào như đổi dịch tả với dịch hạch, hay để thích hợp với thời đại hơn, đổi Sida với SARS (Severe Acute Respiratory Syndrome). Nếu tất cả các nước giàu nghèo trên thế giới đều phải xây cất nhà máy ĐHN để chống hiệu ứng nhà kính thì cũng không giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi truờng mà trái lại, sẽ làm tăng trưởng chất độc Pu (vì phải dùng lò nơ-tron nhanh). Trữ lượng các mỏ Uranium cũng có giới hạn, 15 triệu tấn, vừa đủ để cung cấp cho 5 lần số lò đang vận hành trên thế giới trong 40 năm thôi.

Quả đất chúng ta bị xâm phạm và hư hỏng khá trầm trọng, nhưng trong lịch sử, đã trải qua được nhiều thử thách. Đừng quên rằng, cách đây 100 triệu năm, nhiệt độ trung bình đã có 10°C cao hơn nhiệt độ ngày nay. Và sự tập trung CO2 lúc bấy giờ 10 lần lớn hơn. Mỗi khi có những cơn khủng hoảng quan trọng như thế, nhiều chủng loại bị tuyệt diệt. Loài người mỏng manh, cũng có thể bị đe doạ. Trong vòng hai thế kỷ tới, ai có thể tiên đoán rằng loài người sẽ tồn tại, trừ những loại côn trùng và vi khuẩn? Theo Hubert Reeves, nhà thiên vật lý có tiếng, chúng ta có hạn chế mạnh được việc thải CO2 lên trời đi nữa thì tình trạng khí hậu vẫn tiếp tục căng thẳng vì nguyên lý quan tính. GS Edouard Bard ở College de France, chuyên gia về khí hậu, tuy nhìn nhận tính cách nguy hiểm của sự thay đổi khí hậu, cũng tỏ ý dè dặt về những dự báo dài hạn vì còn một số nghi ngờ về phương diện khoa học và kỹ thuật. GS đề nghị nên hết sức thân trọng vì khí hậu có thể đảo ngược chỉ trong vài thế kỹ. Theo Viện Worldwatch, để cứu vãn tình thế, giải pháp duy nhất là phải xây dựng một nền kinh tế dựa trên mặt trời và hydrogène.

NLTT là lời giải thích đáng nhất.

Tuy không đồng ý với tất cả những lập luận nêu trong cuốn sách nối tiếng “L’écologiste sceptique”, của Bjorn Lomborg, GS Đại học Aarhus và Giám đốc Viện đo lường môi trường Đan Mạch, tôi lại hoan nghênh một số để nghị thiết thực của tác giả . Nhiều chuyên gia, như Stephen Schneider (khí hậu), John P.Holgren (năng lượng), John Bongaarts (dân số), Thomas Lovejoy (sinh vật lý), đã lên tiếng phản đối mạnh Lomborg, cho ràng tác giả không đặt đúng các câu hỏi, không đếm xỉa đến sự bùng nổ dân số thế giới (9 tỷ người năm 2050 !), không phân tích một cách khoa học. Như tôi hy vong, tác giả cũng nhìn nhận rằng NLTT và đặc biệt năng lượng mặt trời, sẽ kinh tế và rẻ hơn năng lương hoá thạch giữa thế kỷ tới. Bjorn Lombord đã chỉ trích một số công trình của Club de Rome (Halte à la Croissance – hiện tượng lũy thừa!), Greenpeace, Worldwatch, Fonds mondial pour la Nature (WWF) và đặc biệt là Cơ quan cố vấn Liên Hiệp Quốc về khí hậu IPCC (The Intergovernmental Panel on Climat).

Theo tác giả, áp dụng nghị định thư Kyoto 1977 (Kyoto Protocol to the United Nations Framework Convention on Climate Change), sẽ tốn mỗi năm, ít nhất 150 tỷ USD (mà ảnh hưởng về khí hậu chỉ có 0,15°C năm 2100) và tổng kinh phí cần thiết để giải quyết sự thay đổi khí hậu là 5000 tỷ USD. Bjorn Lomborg, dựa vào một bài toán phân tích kinh tế về những phí tổn và lợi hại của việc làm giảm ngay số lượng CO2, đã can đảm đề nghị nên chú trong đến việc giúp đỡ các nước nghèo và nghiên cứu năng lượng tái tạo còn hơn là mất thì giờ và tiền bạc lo cho việc thay đổi khí hậu. Lẽ cố nhiên, tôi ủng hộ lập trường này. Điều đáng lo ngại là có nước giàu mạnh, thiếu tinh thần trách nhiệm, không chịu ký nghị định thư Kyoto, lợi dụng cuốn sách của Lomborg để tự bào chữa, nhưng lại dành tiền đầu tư vào năng lượng phá hoại của bom đạn thay vì NLTT cho hòa bình.

Grenoble, 26/ 09/ 2004

 

 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org   Nguyễn Khắc Nhẫn