Những bài cùng tác
giả
Những bài cùng đề tài
Xe
Điện cao tốc Shinkansen Tại một số nước ở Á Phi trong dó có Việt Nam, do
mong muốn có thành tích biểu dương phát triển xã hội
kinh tế một cách nhanh chóng, nhà nước thường có
khuynh hướng muốn thực hiện các
dự án cao
cấp một cách khẩn thiết, nhất là ở lãnh vực hạ tầng
cơ sở xã hội chẳng hạn như hệ thống đường xá cao
tốc, hệ thống xe điện ngầm, xe điện cao tốc, xử lý
nước và chất thải bằng công nghệ cao, nhà máy điện
nguyên tử vv…bất chấp vốn đầu tư cao ngất và các
nguy cơ khó khăn trong vận hành, quản lý hay quá
trình hoạt động kinh doanh tồi tệ có thể xảy ra sau
đó.
Đây cũng là điều dễ hiểu về việc các lãnh đạo nhà
nước mong muốn có được các
công trình
như vậy; bởi vì, như ai cũng biết, tình trạng tân
tiến và chất lượng hay tốc độ phục vụ ở hạ tầng cơ
sở xã hội, như được thấy tại các nước tiên tiến,
thường được xem như là biểu tượng hay trình độ phát
triển xã hội kinh tế cao độ của các nước này. Các
lãnh đạo, vì vậy, nghĩ rằng
việc thực hiện được các
dự án như
vậy thì sẽ tạo thành tích phát triển xã hội kinh tế
cao độ cho nhà nước và có thể phục vụ cho người dân.
Biết được ý muốn của giới lãnh đạo ở các nước Á Phi
như vậy, một số nước tiền tiến đã có kinh nghiệm
thực hiện các công trình
sử dụng kỹ thuật công nghệ cao đã có chính sách cho
giới công kỹ nghệ của nước họ triển khai hoạt động
kinh doanh nhằm cung ứng việc xây dựng các
dự án loại
này cho các nước Á Phi với phương sách giúp vốn đầu
tư ban đầu qua nguồn vay ưu đãi của các chương trình
viện trợ cho các nước này.
Như vậy là các nước Á Phi sẽ không phải lo giải
quyết bài toán nan giải về vốn đầu tư ban đầu,
thường là phải trên hàng tỷ Mỹ kim mà nhà nước không
thể nào huy động cho có được dễ dàng,. Ngoài ra với
chương trình hoàn trả còn có 5-10 năm ân huệ và một
thời gian hoàn trả kéo dài 20-30 năm với một lãi
suất hàng năm xem như quá thấp chỉ trên dưới 2 phần
trăm. Đó là những điều kiện quá hấp dẫn để thúc đẩy
cho việc thực hiện này.
Chính vì vậy mà trong những năm gần đây, người ta
nhận thấy các cơ quan của nhà nước đã bổng dưng đua
nhau khẩn thiết lập kế hoạch để thực hiện các
dự án loại
này, dù rằng trước đây vào thập niên 90, thời kỳ đầu
triển khai các chương trình viện trợ song phương,
người ta còn thấy nhà nước Việt Nam tỏ ra rất dè dặt
và thận trọng việc vay vốn ưu đãi của các chương
trình viện trợ để phát triển hạ thầng cơ sở xã hội,
vì còn lo lắng việc hoàn trà quá nặng nề phải để lại
cho các thế hệ về sau gánh vác.
Sự biến đổi này có thể là do ở việc thực hiện một
dự án có đầu
tư vốn vay chương trình viện trên vài trăm triệu Mỹ
kim, to lớn như vậy, thường có thời gian xây dựng
kéo dài ít nhất 5-10 năm, với thời gian này có thể
bảo trợ công ăn việc làm cho nhân viên công chức các
bộ ngành và hàng ngàn nhân công trong nước, giúp
giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo an sinh xã
hội, những vấn đề xã hội căn bản cần phải cấp bách
giải quyết.
Một mặt khác, ngoài việc có thể đóng góp cho cơ
quan, qua việc lựa chọn nhà thầu và cơ sở cung cắp
nguyên vật liệu, các
dự án viện
trợ có nguồn vốn vay to lớn như vậy có thể đã tạo ra
những quyền lợi bổng lộc to tác cho các cấp cán bộ
chỉ huy cũng như các giới thân thuộc được thừa
hưởng. Đó cũng có thể xem là động cơ thúc đẩy mạnh
mẽ cho các cơ quan liên hệ.
Thật ra, trên nguyên tắc, các
dự án đầu tư
quốc gia đều phải tuân thủ các thủ tục và qui chế
của dây chuyền thẫm định khắt khe trước khi được
quyết định có nên cho thực hiện hay không. Tuy
nhiên, do tình trạng cơ chế tập trung quyền hành vào
cấp lãnh đạo và việc có thể phân chia quyền lợi bổng
lộc cho nhau, nên việc thẫm định đã trở nên một qui
trình hình thức, dù rằng đã được qui định phải qua
nhiều công đoạn cứu xét cần đến một thời gian dài để
có kết quả thẫm định sau cùng.
Điều này đã làm nảy sinh việc tiếp cận riêng các bộ
phận và quan chức thẫm định hay có trách nhiệm về
thủ tục để thúc đẩy cho được thực hiện nhanh chóng.
Hơn nữa, cũng cần phải nói đến tình trạng giới hạn
hiểu biết về chuyên môn kỹ thuật của các chuyên viên
thẫm định của các bộ ngành nhà nước. Vì lý do đó,
các dự án có
sử dụng các loại kỹ thuật công nghệ cao, đã không
được thẫm định một cách kỹ càng đúng mức. Giới
chuyên gia trong nước, vì nhiều lý do, cũng đã không
dóng góp sâu rộng cho việc thẫm định này.
Điều này có thể sẽ đưa đến một tình trạng nguy hiểm
là sau khi một số
dự án cao cấp đã được xây dựng thì mới biết
là không thể nào vận hành, quản lý kỹ thuật hay hoạt
động kinh doanh sinh lợi nhuận được như đã lên kế
hoạch ban đầu.
Điều này đã được thường nhận thấy ở một số nước Phi
Châu và Châu Đại Dương từ vài mươi năm trước đây.
Sau khi thu nhận các công trình và được huấn luyện
vận hành và quản lý, cơ quan nhà nước sở tại cũng
vẫn không duy trì được việc vận hành, bảo trì và
hoạt động kinh doanh nhiều được. Các công trình
y,
vì vậy, sau đó đã bị bỏ phế dù đã phải hao tốn biết
bao phí tổn tiền của để xây dựng ra được.
Tại sao lại có tình trạng như vậy xảy ra. Như chúng
ta được biết, trên căn bản, một
dự án được
xem như tạo thành bởi hai phần, “phần cứng” ( phần
cơ sở công trình và thiết bị ) và “phần mềm” ( phần
tồ chức, vận hành, bảo trì và kinh doanh ).
Ở mỗi địa bàn xây dựng, tuỳ theo từng loại mà tính
chất của hai thành phần này có thể được tạo lập vững
vàng và cùng nhau phối hợp được hoạt động chặt chẽ
hay không. Chỉ một bên thành phần có vấn đề là không
thễ hoạt động như đã dự tính được. Như vậy, không có
nghĩa là một dự án xây dựng và hoạt dộng suông sẻ ở
một nước khác cũng có thể xây dựng và hoạt động
suông sẻ ở Việt Nam, nhất là khi có yếu tố sử dụng
kỹ thuật công nghệ cao.
Vì vậy, trước nhất là cần chú trọng ở yếu tố địa
bàn. Một dự án
cao cấp cần phải được xem xét việc thực hiện có được
suông sẻ ở địa bàn một nước phát triển hay không. Ở
đây “phần cứng của địa bàn” là vị trí, địa
thế, địa tầng cùng các điều kiện thiên nhiên và các
phối hợp hạ tầng xã hội để kiện toàn và phối hợp cho
xây dựng và hoạt động. Trong khi về “phần mềm của
địa bàn” thì phải xem xét đến văn hóa, tập tục,
truyền thống sinh hoạt của địa phương có trái ngược
với tính cách hoạt động hay không.
Điều đáng nói là, do vô tình xao lãng hay vì các áp
lực quyền lực, việc thẫm định yếu tố địa bán đã
thường không được cưu xét một cách xâu xa và kỹ
càng. Do đó, mà một số
dự án cao
cấp, sau khi đã được quyết định cho phép thực hiện
hay đã cho tiến hành xây dựng, một vài năm sau thì
mới nhân thấy ra là địa bán không phù hợp, hoặc là ở
phần cứng hoặc là ở phần mềm, và bộ ngành trách
nhiệm không biết phải nên giải quyết thế nào.
Tiếp đến, điều đáng phải chú trọng là ở yếu tố
chức năng cơ chế và khả năng vận hành (
functioning ). Đây là phần mềm cốt lõi. Đối với
một việsử dụng kỹ thuật công nghệ cao, yếu tố này rất quan
trọng và phức tạp vì liên hệ đến nhiều mặt của các
vấn đề nội bộ, nhất là mặt nhân sự và mặt kinh
doanh. Bởi vì, không phải đơn thuần là sau huấn
luyện kỹ thuãt và tổ chức nhân sự là tạo ra được
chức năng cơ chế và khả năng vận hành sử dụng kỹ
thuật công nghệ cao. Người ta đã nhận thấy là một số
tai nạn chết ngưới tại các nhà máy điện nguyên tử
xảy ra từ trước đến nay là do nhân viên kỹ thuật
phạm các lỗi vô cùng sơ đẳng. Ở các nước Á Phi, dĩ
nhiên sự phạm lỗi sơ đẳng sẽ có nhiều hơn.
Do dó, cần phải ý thức là các loại
công sự
cao cấp đang hoạt động ở các nước tiền tiến chưa
chắc sẽ có thể thực hiện để hoạt động ngay một cách
an toàn ở một nước đang phát triển như Việt Nam.
Điều nguy hiễm là người ta thường nhận thấy một khi
các cấp lãnh đạo nhà nước phán quyết “ họ đã làm
được ở nước họ thì họ cũng làm được ở nước ta “ thì
thường phải được cho tiến hành ”vì đã có lệnh trên”
dù không biết chắc chắn có hoạt động được theo như
kế hoạch hay không.
Đặc biệt, đối với sự thẫm định về yếu tố vốn đầu
tư, có lẽ do là nguồn vốn vay ưu đãi viện trợ
với các khoản chiêu đãi công du cho các cơ quan liên
hệ, nên việc cứu xét có phần nới lõng đến các chi
tiết số liệu tài chính, nhất là ở phần chi xuất để
kinh doanh hoạt động có lợi nhuận và chương trình
hoàn trả tốt đẹp sau đó. Điều này có thể sẽ gây ra
hậu quả tai hại ở sự tồn đọng chồng chắt nợ công đáo
hạn phải hoàn trả sau đó.
Đẳc biệt, nngười ta thường thấy việc đánh giá thấp
phí tổn bảo trì và vận hành ( maintenance and
operation cost ) cho các cơ sở
liên
hệ
hàng năm. Thông thường chi phí này phải là trên dưới
15 phần trăm của toàn bộ vốn đầu tư cơ sở ban đầu.
Điều này có thề gây ra hậu quả là
dự án sẽ
không được bảo trì đúng mức hàng năm và, vì vậy, sớm
xuống cấp hay tạo những phí tổn phụ thuộc ngoài dự
toán ban đầu để sửa chửa các hư hại và gây xáp trộn
thiệt hại ở chương trình dòng tiền ra vô ( project
cashflow ) để duy trì tình trạng kiện toàn trong
suốt thời gian hoạt
động kinh doanh.
Cũng trong mục tiêu bảo đảm sự kiện toàn về mặt tài
chính , những trường hợp rũi ro có thể xảy ra thường
phải được đưa ra để cứu xét trong phần thẫm định rũi
ro ( Risk/ Sensitivity Analysis ) để đánh gía đứng
đắn đúng mức và tìm phương cách để đối phó những
trường hợp xảy ra như vậy.
Tuy nhiên, không hiểu vì lý do gì, hình như có sự lơ
là căn bản cho việc làm quan trọng này. Hậu quả đang
cho thấy một hậu họa như việc vốn vay viện trợ đồng
Yen của Nhật bản vào những năm mà tỷ giá 1 Mỹ kim
tương đương 130 Yen nay nay đang phải chịu hoàn trả
với tỷ giá 1 Mỹ kim chỉ tương đuơng 75 Yen, hay cũng
có nghĩa là nhà nước ( hay cuối cùng là người dân)
đang phải chịu hoàn trả với một lãi suất gần như 100
phần trăm cho các vốn vay này (ít nhất là vài trăm
triệu Mỹ kim cho mỗi
vốn
vay
).
Chung qui, không phải là vì lý do vốn đầu tư quá cao
hay việc vận hành quản lý khó khăn mà không nên thực
hiện các loại
phục vụ
cao cấp này, Thực hiện
hay không
là nhằm đem phục vụ lợi ích cho người dân này khi có
nhu cấu này. Nhưng trước hết, ngoài yếu tố an toàn
hoạt động, cần phải thận trọng và bằng mọi cách phải
thẫm định các yếu tố quan trọng căn bản kể trên một
cách đứng đắn đúng mức để bảo dảm chắc chắn thành
công về mọi mặt sau khi xây dựng xong và hoạt động
kinh doanh sẽ vừa sinh lợi nhuận vừa đem lợi ích đến
cho người dân và đất nước.
VNP
|