Những bài cùng tác
giả
Đóng
góp, xây dựng500 nghị sĩ do 90 triệu
dân đề cử bao giờ cũng sáng suốt hơn một vạn tiến sĩ
chuyên gia kỹ thuật và việc phủ quyết dự án đường
sắt siêu tốc Bắc Nam năm ngoái có thể coi là quyết
định sáng suốt nhất của Quốc hội khóa XII1 .
Vì thế mà, ngay khi nhậm chức Bộ trưởng Bộ trưởng Bộ
Giao thông – Vận tải Đinh La Thăng đã tuyên bố "Chưa
đủ điều kiện làm đường sắt cao tốc"2.
Ở các nước dân chủ, công bộc của dân đều tuân theo
đại biểu dân như vậy. Nhưng bãi bỏ dự án tầu siêu
tốc không có nghĩa là bỏ rơi tất cả ngành đường sắt.
Trong bài này chúng tôi xin trình
bầy những vấn đề kỹ thuật mà ngành đường sắt Việt
Nam phải giải quyết để đạt khả năng vận tải đa
phương tiện (intermodal freight transport) và khả
năng liên thông với các nước láng giềng
(interoperability).
Phần I – Vận tải đa
phương tiện
I–1. Sự cần thiết của tất cả những phương tiện
GT–VT
Ngành đường sắt có ba đặc điểm kỹ
thuật : (a) bánh xe bằng thép quay trên một nền cũng
bằng thép, (b) toa xe chạy trên một đường hướng dẫn
và (c) nhiều toa xe chạy nối liền với nhau. Nhờ ba
đặc điểm đó, so với các phương tiện giao thông–vận
tải (GT–VT) khác thì sức cản di chuyển thấp, tiết
kiệm năng lượng vận chuyển, xe chạy an toàn ở bên
hông và tiềm năng công suất vận chuyển cao. Quy ra
một hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét thì đường
biển và đường sông là những phương tiện GT–VT rẻ
nhất, tiêu thụ năng lượng ít nhất và ô nhiễm môi
trường ít nhất. Sau đó là đường sắt, tiếp theo sau
rất xa là đường ô–tô và cuối cùng là đường hàng
không. Ở một nước đông dân có nền kinh tế đáng kể
(mặc dù vẫn còn nghèo) như nước ta thì giá thành một
hành khách–kilômét hay một tấn–kilômét cũng theo thứ
tự gia tăng đó.
Ở những nước chậm tiến có chính
thể chuyên chế người ta thường đặt ưu tiên vào việc
xây những xa lộ hoành tráng nhưng vô dụng để cho dân
bị ấn tượng và suy tôn nhà độc tài tại chức và/hay
để thỏa mãn tiện nghi riêng của giai cấp thống trị3.
Ở những nước Âu Châu, vận tải bằng ô–tô thống lĩnh
thị trường GT–VT. Người ta đã khai triển phương tiện
này vì lúc đầu cần phải hỗ trợ ngành công nghiệp
ô–tô. Sau đó phải xây xa lộ cho ô–tô chạy. Rồi lại
phải hỗ trợ thêm ngành công nghiệp ô–tô để có xe
chạy trên xa lộ. Sau khủng hoảng dầu mỏ năm 1973,
những nước đó khám phá ra sai lầm của họ và đang
chuyển sang dùng thêm những phương tiện GT–VT khác.
Nhưng một hệ thống GT–VT của một nước cần đến cả
chục năm, thậm chí cả nửa thế kỷ, mới xây dựng xong.
Nếu sai lầm hay kết cấu kinh tế thế giới thay đổi
thì cũng cần cùng thời gian đó để thay đổi4.
Vì những lý do kinh tế và tôn
trọng môi trường nêu ở trên, khi một chính phủ quy
hoạch mạng GT–VT hay khi một xí nghiệp quy hoạch hệ
thống hậu cần thì phải theo thứ tự ưu tiên đường
biển, đường sông, đường sắt, đường ô–tô rồi đường
hàng không. Chúng tôi nói về thứ tự ưu tiên chứ
không nói rằng phải bỏ không khai triển các ngành
ô–tô và hàng không. Hai phương tiện GT–VT này cũng
có công dụng của chúng ở một phạm vi nào đó mà những
phương tiện khác không thể thay thế được. Xe vận tải
có khả năng đến tận điểm trao hàng và đến tận điểm
nhận hàng dù là ở những nơi hẻo lánh. Tầu bay cần
thiết khi phải chở gấp một kiện hàng đi xa. Về
chuyên chở hành khách thì ô–tô có thể là một xe bốn
chỗ cũng như một xe ca bốn chục chỗ và một tầu bay
thích ứng nếu cần phải đi xa hơn 500 km.
Vận tải đa phương tiện và liên
thông là hai điều kiện cốt yếu trong xu hướng toàn
cầu hóa hiện nay. Vì lý do đó mà UNESCAP (United
Nations Economic and Social Commission for Asia and
the Pacific, Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Kinh tế Xã hội
Châu Á – Thái Bình Dương) khởi xướng dự án TAR
(Trans Asian Railway, Đường sắt Xuyên Á) và dự án
TAH (Trans Asian Highway, Đường Cái Xuyên Á). Hai dự
án này đã được 24 quốc gia thông qua, trong đó có
Việt Nam.
Một kiện hàng gửi từ một nhà máy
may mặc ở Phnom Penh đến một cửa tiệm ở Houston
(Texas, Hoa Kỳ) sẽ được chở bằng ô–tô đến ga xe hỏa
Phnom Penh, chở bằng đường sắt tới hải cảng Kompong
Som, bằng đường biển đến San Francisco, bằng đường
sắt đến Houston rồi bằng xe vận tải đến cửa tiệm
quần áo ở trung tâm thành phố Houston. Nếu mạng
đường sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia
thì kiện hàng sẽ được chở từ ga Phnom Penh đến cảng
Vũng Tầu thay vì cảng Kompong Som, tiết kiệm ít nhất
một ngày tầu vòng qua mũi Cà Mau.
Một hãng Pháp cần gửi một
công–tê–ne thiết bị công nghiệp từ Villeurbanne,
ngoại ô TP Lyon (Pháp), đến một nhà máy ở khu công
nghiệp Sóng Thần II, tỉnh Bình Dương. Nếu mạng đường
sắt của ta liên thông với mạng của Kampuchia và Thái
Lan thì hành trình của công–tê–ne sẽ diễn biến như
sau :
(a) xe vận tải từ Villeurbanne
đến một bến trên sông Rhône,
(b) xà–lan tới Marseille,
(c) tầu biển từ Marseille đến TP
Hồ Chí Minh,
(d) xe vận tải từ TP Hồ Chí Minh
đến Sóng Thần II.
Nếu mạng đường sắt của ta liên
thông với mạng của Kampuchia thì công–tê–ne sẽ được
nhấc lên bờ ở ở Singapore, được chở bằng xe hỏa từ
Singapore đến TP Hồ Chí Minh hay ga Bình Dương và
bằng xe vận tải từ nhà ga đến nhà máy ở Sóng
Thần II, tiết kiệm được hai ngày đường.
Chở bằng đường sắt thì mau hơn là
chở bằng đường biển. Để tiết kiệm thời gian vận tải
ở Đông Á, UNESCAP đề nghị chở hàng hóa bằng đường
sắt từ Singapore đến Vladivostok xuyên qua Malaysia,
Thái Lan, Lào và Trung Quốc. Tuyến đường này sẽ giải
tỏa những địa phương ở phía Tây các tỉnh ven biển
của Trung Quốc. Nhưng tuyến đường này phải vựơt
nhiều núi cao hiểm trở và công suất quá nhỏ so với
tiềm năng phát triển kinh tế Trung Quốc.
Chúng tôi xin đề nghị khẩn cấp
xây đoạn đường Phnom Penh – TP Hồ Chí Minh để mạng
đường sắt do UNESCAP đề nghị có thêm một tuyến đường
sắt Xuyên Á thứ hai (xem chi tiết ở phần II)5.
I–2. Những vấn đề kỹ thuật
Như trình bầy ở trên, từ
Villeurbanne đến khu công nghiệp Sóng Thần II một
công–tê–ne sẽ thay đổi phương tiện vận tải ít nhất
ba lần và cần đến ít nhất ba phương tiệnGT–VT : xe
vận tải, xuồng và tầu biển. Việc chọn lựa một phương
tiện tùy ở tổng chi phí của chuyến đi, khả năng chịu
tải của phương tiện và khả năng thuyên chuyển từ
phương tiện này sang phương tiện khác.
Vấn đề chịu tải chỉ là một vấn đề
kỹ thuật xây dựng còn vấn đề thuyên chuyển từ phương
tiện GT–VT này sang phương tiện khác chưa cớ giải
đáp kỹ thuật thỏa đáng :
(a) vỏ kiện hàng phải như thế nào
để thuyên chuyển mà ít phải thay đổi vỏ chứa,
(b) chọn tiêu chuẩn quốc tế (nếu
có) nào để liên thông từ mạng vận tải này sang mạng
khác,
(c) dùng phương tiện vận chuyển
nào để chuyển hàng từ vỏ này sang vỏ khác, từ phương
tiện vận tải này sang phương tiện khác.
Chúng tôi sẽ đề cập đến khả năng
liên thông mạng đường sắt ở phần sau.
Về vỏ kiện hàng và vận chuyển thì
tùy ở loại sản phẩm và khả năng vận chuyển địa
phương. Với những hàng rời như là ngũ cốc, quặng,...
thì phương tiện vận tải có thể là vỏ chứa và phương
tiện vận chuyển là băng công–voay–ơ, vít Archimede,
ống và máy bơm,... Với những hàng lỏng như là dầu,
nước,... thì vỏ chức cũng có thể là phương tiện vận
tải nhưng cũng có thể là những bể chứa, thùng chứa,
chai lọ, hộp kín,... Suy ra, những vỏ chứa và những
phương tiện vận chuyển rất là đa dạng.
Từ thập niên 1960, người ta bắt
đầu chở hàng bằng công–tê–ne. Hầu như tất cả mọi
loại hàng đều có thể chở được bằng công–tê–ne kể cả
những hàng rời, hàng lỏng nếu đã được đóng gói trong
những vỏ thích ứng. Nếu công–tê–ne được niêm phong
kỹ thì phương pháp này giảm khả năng hàng bị hư
hỏng, đánh cắp hay tráo đổi. Nhờ đó hàng chỉ cần
được kiểm tra ở điểm đi và điểm đến dù đã được chở ở
những cự ly dài, nhờ nhiều phương tiện vận tải khác
nhau và qua nhiều nơi khác nhau. Điều này giảm chi
phí và thời gian làm thủ tục chuyên chở, đặc biệt là
các thủ tục hải quan.
Để thuyên chuyển từ một phương
tiện vận tải A sang một phương tiện B thì chỉ cần
khuân công–tê–ne từ phương tiện A sang phương tiện B
nếu phương tiện đó có sức chịu tải bằng hay mạnh hơn
là phương tiện A. Ngoài ra, một công–tê–ne đặt trên
một phương tiện vận tải phải có tổng tiết diện tương
ứng với tiết diện các công trình cầu và hầm của mạng
GT–VT.
ISO (International Organization
for Standardization, Tổ chức Quốc tế Tiêu chuẩn hóa)
đã tiêu chuẩn hóa những công–tê–ne6
để ngành đường sắt có cơ sở thiết kế các hạ tầng và
tính toán những tuyến đường. Những công–tê–ne thông
dụng là những công–tê–ne 20 feet, 40 feet và high
cube. Chúng có cùng một chiều rộng ở ngoài, 2,44 m
(8 ft), cũng như ở trong 2,33 m. Chiều cao những
công–tê–ne 20 feet và 40 feet là 2,59 m (8,5 ft) ở
ngoài và 2,30 m ở trong. Chiều cao những công–tê–ne
high cube là 2,74 m (9 ft) hay 2,90 m (9,5 ft).
Chúng đều có thể được chở trên xe vận tải, toa tầu
hỏa, tầu sông và tầu biển. Vì thế chúng rất thích
ứng với phương pháp vận tải đa phương tiện.
Người ta thường quy ra lượng
công–tê–ne 20 feet để tính công suất hay năng suất
của một cơ sở lưu kho, một phương tiện vận tải hay
một phương tiện thuyên chuyểnvà để tính lượng hàng
đã được vận chuyển hay thuyên chuyển. Đơn vị đó gọi
tắt là TEU (Twenty Feet Equivalent Unit, Đơn vị
Tương đương Hai mươi Feet). Một công–tê–ne 40 feet
tương đương với hai công–tê–ne 20 feet. Hiện nay,
trên thế giới có khoảng 70 triệu công–tê–ne đủ loại,
tương đương với 12 triệu EVP. Những công–tê–ne này
chở qua đường biển 90 phần trăm những hàng không
phải là hàng rời.
Nước ta, đất hẹp, những xe vận
tải chỉ có thể chở được những công–tê–ne 20 feet. Để
bảo đảm khả năng vận tải đa phương tiện trên tầu
biển, tầu sông, tầu hỏa cũng như trên xe vận tải,
chúng tôi xin đề nghị dùng loại công–tê–ne này làm
tiêu chuẩn cơ bản cho tất cả hệ thống hậu cần Việt
Nam.
Chúng tôi cũng xin đề nghị :
(a) thiết kế lại hệ thống GT–VT
trên bộ dựa trên đường sắt thay vì đường ô–tô như
trong kế hoạch hiện nay của chính phủ,
(b) và dành xe vận tải để chở
hàng tối đa ở 50 km xung quanh một cảng biển, cảng
sông, ga xe hỏa và khu công nghiệp và để chở hàng
đến những vùng thưa dân hay kinh tế chưa phồn thịnh.
Phần II – Khả năng liên thông
Vì là một thành phần của hệ thống
hậu cần thế giới, xe chạy trên một mạng đường sắt
phải có khả năng dễ dàng chạy trên những mạng đường
sắt khác. Khả năng đó gọi là sự liên thông.
Như thấy trên bản đồ của UNESCAP
(hình 1), mạng đường sắt của nước ta không liên
thông với các nước láng giềng Lào và Kampuchia. Với
Trung Quốc chúng ta có hai tuyến đường sắt qua cửa
khẩu Lào Cai và Lạng Sơn. Nhưng hai nước dùng hai
khoảng cách đường rầy khác nhau. Nói tóm lại mạng
đường sắt chúng ta bị tách rời khỏi mạng đường sắt
Thế giới. Trong một bài đã đăng, chúng tôi có đề
nghị một số tuyến đường sắt nhằm giải đáp tình trạng
này7.
Để có thể liên thông thì các mạng
đường sắt phải theo những tiêu chuẩn kỹ thuật chung
về : (a) khoảng cách đường rầy, (b) cỡ tiết diện xe,
(c) sức chịu tải ở trục xe, (d) chiều dài của đoàn
tầu, (e) hệ thống tín hiệu và (f) điện hóa.

Hình 1 – Dự án đường sắt Xuyên Á
(Nguồn : UNESCAP)
II–1. Khoảng cách đường rầy
Khoảng cách đường rầy ở Trung
Quốc theo tiêu chuẩn quốc tế, nghĩa là 1.435 mm
(standard gauge). Nhưng ở tất cả các quốc gia thuộc
khối MRS (Mekong River Subregion, Tiểu vùng Sông
Mekong) cũng như trên tuyến đường sắt Hà Nội – Côn
Minh thì khoảng cách là 1.000 mm (metre gauge).
Nhiều người tưởng rằng một tuyến đường sắt phải có
khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn quốc tế
1.435 mm thì đoàn tầu mới có thể chạy nhanh, chở
nặng và an toàn. Sự thật không hoàn toàn đúng như
vậy : sai biệt về khả năng kỹ thuật của hai loại
khoảng cách 1.435 mm và khoảng cách 1.000 mm không
đáng kể. Người ta chọn khoảng cách 1.000 mm để giảm
vốn đầu tư xây dựng nền đường8
và người ta chọn khoảng cách 1.435 mm để có thể liên
thông dễ dàng với mạng đường sắt quốc tế9
và tại vì những đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn
quốc tế rẻ hơn đầu tầu và toa xe theo tiêu chuẩn
khác10.
Vì thế mà :
(a) Thái Lan sẽ duy trì khoảng
cách 1.000 mm cho những tuyến sẵn có và dự định xây
mới những tuyến về hướng các nước láng giềng
Myanmar, Lào (Vientiane và Pakse) và Kampuchia theo
khoảng cách đó,
(b) Kampuchia sẽ duy trì khoảng
cách 1.000 mm,
(c) đường sắt Lào tương lai
Vientiane, Luang Prabang – Tường Vân (một huyện giữa
Đại Lý và Côn Minh, tỉnh Vân Nam) sẽ có khoảng cách
1.435 mm để có thể liên thông với mạng Trung Quốc,
(d) ở Việt Nam chỉ có tuyến Quan
Triếu – Kép – Hạ Long là có khoảng cách 1.435 mm và
tuyến Đồng Đăng – Kép – Hà Nội tạm thời là đường kép
(dual gauge) với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm.
Mạng đường sắt Việt Nam bị kẹt
giữa hai khối quốc gia có hai khoảng cách đường rầy
khác nhau, chúng tôi xin đề nghị chính sách sau
đây :
(a) canh tân và xây mới tất cả
những tuyến chở hành khách theo khoảng cách 1.000 mm
(nếu cần thì nắn lại tuyến đường sẵn có để gia tăng
an toàn và vận tốc),
(b) xây mới tất cả những tuyến
chở hàng theo khoảng cách 1.435 mm11,
(c) khi có nhu cầu của phát triển
kinh tế địa phương thì canh tân và xây mới tất cả
các tuyến thành đường đôi (double track), mỗi đường
dành cho một hướng12,
(d) xây mới tuyến Phnom Penh –
TP Hồ Chí Minh – Vũng Tầu (cảng Thị Vải) đường kép
với khoảng cách 1.435 mm và 1.000 mm13,
(e) canh tân tuyến Hà Nội – Lào
Cai thành đường kép với khoảng cách 1.435 mm và
1.000 mm14,
(f) xây mới những tuyến liên
thông với Lào, Vũng Áng – Vinh – Vientiane và Đà
Nẵng – Pakse, theo khoảng cách 1.435 mm.
II–2. Điện hóa
Một tầu chạy bằng động cơ Diesel
có thể chạy trên một tuyến đã được điện hóa. Nhưng
một tầu chạy bằng động cơ điện chỉ có thể chạy trên
những tuyến đã được điện hóa thích hợp với động cơ
và lối câu điện của tầu.
Những động cơ điện thích hợp với
việc kéo một đoàn tầu là động cơ một chiều. Nhưng,
với những tiến bộ của điện tử cường độ cao, xu hướng
là dùng điện xoay chiều một pha có tần số công
nghiệp 50 hay 60 Hz và người ta đã xác định điện áp
tối ưu kinh tế là 25.000 V. Loại điện này đã trở
thành một tiêu chuẩn quốc tế bất thành văn của ngành
đường sắt.
So với một đoàn tầu Diesel thì
một đoàn tầu điện sử dụng năng lượng hữu hiệu hơn,
chi phí vận hành ít hơn, chi phí bảo hành cũng ít
hơn. Trên phương diện kỹ thuật thì những động cơ
điện có công suất lớn và có thể biến đổi mau nên
thích hợp với những đoàn tầu nặng chạy trên những
tuyến có độ dốc cao. Điện có thể được sản xuất từ
nhiều nguồn năng lượng cơ bản khác nhau, không ô
nhiễm ở nơi tiêu thụ, thích hợp với chuyên chở hành
khách ở đô thị và những đường hầm dài. Nhưng đầu tư
cho những thiết bị sản xuất điện, biến thế và kéo
dây cáp cung cấp điện cho đoàn tầu cần đến nhiều
vốn. Điện hóa một tuyến đường chỉ có lợi khi chu kỳ
tầu đi lại trên tuyến đó đủ cao để chứng minh vốn
đầu tư15.
Trong tình trạng thiếu điện hiện
nay, chúng tôi xin đề nghị
(a) chờ ngày có đủ tài chính để
điện hóa những tuyến đường có chu kỳ đi lại cao và
tạm thời dùng động cơ Diesel để kéo tầu chở hàng và
tầu chở khách liên tỉnh,
(b) nếu điện hóa một tuyến đường
sắt thì dùng điện 25.000 V, 50 Hz, một pha.
Lẽ cốt nhiên những tầu chở khách
ở đô thị sẽ chạy bằng điện.
II–3. Những vấn đề kỹ thuật khác
UNESCAP nhận xét các đường hầm
hiện nay của ta đủ rộng để thích ứng với tiêu chuẩn
UIC–B và chúng ta không có vấn đề liên thông vì tiết
diện xe với các nước láng giềng16.
Tiêu chuẩn UIC–B là tiêu chuẩn tiết diện xe của
những đoàn tầu siêu tốc Âu Châu và những đoàn tầu
chở công–tê–ne tiêu chuẩn ISO17.
Sức chịu tải ở trục xe của một
đường sắt tùy ở vận tốc đòan tầu, diện tích những
tà–vẹt, bộ gắn tà–vẹt với thanh rầy, kết cấu của
ba–lát,... sức chịu tải của những cây cầu và khối
lượng mỗi mét của thanh rầy. Để tiện việc quản lý
cung cấp và lưu trữ những thanh rầy, ở Âu Châu người
ta mua và đặt những thanh rầy 60 kg/m. Lúc thanh rầy
còn mới, người ta đặt ở các tuyến đường của mạng
đường sắt cần đến sức chịu tải ở trục xe cao nhất.
Sau đó, nhân chương trình bảo quản thường xuyên,
người ta thay thế những thanh rầy đã bị yếu ở những
tuyến cần sức chịu tải cao nhất để lắp chúng ở những
tuyến cần sức chịu tải yếu hơn. Những thanh rầy này
đủ để chịu tải những đoàn tầu chở những công–tê–ne
ISO 20 feet với vận tốc 120 km/giờ.
Chiều dài tối đa của một đoàn tầu
tùy ở chiều dài của bến tầu dùng để chất hàng, sức
kéo của đầu tầu, sức mạnh của phanh và sức bền của
móc kéo toa tầu.
Ở những vận tốc trên
100–120 km/giờ người ta chuyển tín hiệu vào buồng
lái để bảo đảm người lái tầu có thì giờ nhận định và
phản ứng kịp thời. Nhưng mỗi nước, mỗi mạng đường
sắt có một mã truyền tin khác nhau. Một tầu muốn
liên thông phải có một hệ mềm dịch những tín hiệu
sang tiêu chuẩn hệ thông truyền tin của mình. Việc
này không khó mấy nhưng sinh ra chi phí bội đáng lý
có thể miễn được.
Chúng tôi xin đề nghị :
(a) những tuyến đường tương lai
tiếp tục thích ứng với tiêu chuẩn UIC–B cho những
đoàn tầu chạy bằng động cơ Diesel,
(b) khi nào có điều kiện điện hóa
thì chúng ta sẽ liệu đổi tuyến, nâng cao các cầu
và/hay đào cao thêm những đường hầm18,
(c) dùng những thanh rầy loại
60 kg/m khi canh tân và xây mới những tuyến đường
sắt ở nước ta,
(d) thiết kế hệ thống đường sắt,
ga tuyển lựa (classification yard hay là marshalling
yard) cũng như các khí cụ lưu động để có thể sắp xếp
những đoàn tầu dài chừng 700–750 mét,
(e) trang bị đoàn khí cụ lưu động
bằng những toa tầu có thể chịu tải 60 tấn nghĩa là
có thể chở dễ dàng hai công–tê–ne TEU19,
(f) lắp đặt trên tất cả các tuyến
đường và tất cả các đầu tầu một hệ thống chuyển tín
hiệu vào buồng lái với một mã truyền tin duy nhất.
***
So với một mạng đường ô–tô cùng
công suất, tính theo tấn–kilômét, thì mạng đường sắt
ở những vận tốc không quá 100–120 km/giờ cần đến vốn
đầu tư từ ba đến năm lần ít hơn và chi phí vận hành
sẽ kém hơn ít nhất hai lần20.
So với một mạng đường ô–tô cùng cự ly, tính theo
kilômét, thì mạng đường sắt có công suất cao hơn đến
mức không thể so sánh được. So với một tuyến đường
sắt siêu tốc (vận tốc từ 250 km/giờ trở lên) thì một
tuyến đường sắt cao tốc (vận tốc 100–120 km/giờ)
cùng cự ly rẻ hơn nhiều về vốn ban đầu cũng như về
chi phí vận hành và một tuyến đường sắt giao thông
đô thị cùng cự ly không những rẻ hơn mà lại có công
suất, tính theo hành khách–kilômét, cao hơn rất
nhiều.
Về tiềm năng cách mạng công nghệ
thì công nghệ đường sắt siêu tốc đã đạt hạn chế của
nó. Những thiết bị cung cấp điện cho tầu, truyền tin
và an toàn đã đạt mức gần hoàn hảo rồi21.
Nếu muốn xây một tuyến đường sắt siêu tốc thì chúng
ta chỉ có thể mua của nước ngoài theo dạng EPC
(Engineering Procurement Construction, gọi nôm na là
chìa khóa trao tay) hay giỏi lắm là mua thiết kế của
họ và tự xây. Trên phương diện tiến bộ công nghệ
chúng ta sẽ không hưởng được gì. Ngược lại, công
nghệ vận tải bằng đường sắt và công nghệ đường sắt
đô thị vẫn còn nhiều tiềm năng tiến bộ. Chúng ta vẫn
còn kịp tham gia đóng góp vào những tiến bộ đó để
trở nên một quốc gia công nghệ tiên tiến.
Vì những lợi ích kinh tế và những
tiềm năng tiến bộ công nghệ đó cho đất nước mà chúng
tôi ngỡ ngàng không thấy thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng
đả động gì đến ngành đường sắt trong bài "3 khâu
đột phá chiến lược của Chính phủ" của ông22.
Đặng Đình Cung
3. Ở nước ta, vì nhu cầu GT–VT chưa được
thỏa mãn rất lớn, một đường ô tô hay một cây cầu
vừa mới khánh thành xong là đã quá tải. Một nước
Phi Châu nọ không có một đường trải đá nào nhưng
có một xa lộ, rộng và đẹp như đại lộ Nguyễn Văn
Trỗi ở TP Hồ Chí Minh, dài một chục cây số bắt
đầu từ phi trường quốc tế và kết thúc ở ven
ruộng ngoài thủ đô. Hai bên đường chỉ có dinh
tổng thống và những biệt thự xây từ hồi Pháp
thuộc và đã xuống cấp. Ở Pháp, một ông vua ngoại
quốc nọ tài trợ (với tiền túi cá nhân hay tiền
ngân sách Nhà Nước, chúng tôi không biết và
không muốn biết) xây một đường ngoặc từ một xa
lộ công cộng đến lâu đài của ông.
4. Phải có thời gian lâu như vậy là do những
định luật kinh tế vi mô (microeconomy) mà bạn
đọc có thể tham khảo trong các sách giáo khoa
(tỷ dụ Robert Pindyck, Daniel Rubinfeld: "Microeconomics",
Prentice Hall, 2008).
5. Theo ước tính của chúng tôi thì tuyến
đường sắt Singapore – Malaysia – Thái Lan – Lào
(hay Myanmar) đến miền Đông Trung Quốc sẽ tốn
nhiều vốn để nâng cấp hơn là vốn để liên thông
mạng đường sắt Việt Nam với Thái Lan qua
Kampuchia và chi phí vận tải qua tuyến đó sẽ cao
hơn là qua tuyến Singapore – Malaysia – Thái
Lan – Việt Nam. Đây chỉ là quan điểm cá nhân cần
được xác định với những thông số cụ thể.
6. Tiểu ban chuyên môn của ISO chuyên về
những công–tê–ne là TC–104 và những tiêu chuẩn
chính mang mã số ISO 668 (1995) et
ISO 1496–1 (1990).
8. Khoảng cách đường rầy hẹp cho phép tuyến
đường có thể quay vòng với một bán kính nhỏ. Với
khoảng cách 1.000 mm thì bán kính đường vòng có
thể là 45 mét nếu tầu chạy rất chậm. Với khoảng
cách quôc tế 1.435 mm thì bán kính phải lên tới
ít nhất 60 m, thường thì cũng phải 100 m nếu tầu
chạy rất chậm. Các tấu siêu tốc thì cần đến bán
kính 7.000 m nếu muốn chạy 350 km/giờ. Ở những
vùng núi non hiểm trở, so với những tuyến có bán
kính đường vòng lớn thì những tuyến có bán kính
nhỏ sẽ theo uẩn khúc sườn núi dễ hơn làm cho
phải xây ít cầu và đào ít hầm hơn. Ngoài ra, với
khoảng cách hẹp thì nền đường cũng hẹp hơn.
9. Chuyển xe hay chuyển tầu là một việc tốn
của, tốn công và tốn thì giờ. Nếu các nước đều
có cùng một khoảng cách đường rầy thì tầu sẽ có
thể chạy trên tất cả mạng đường sắt của tất cả
các nước đó mà không cần phải chuyển hàng từ xe
này sang xe khác.
10. Áp dụng tiêu chuẩn quốc tế mới nhất thì
sẽ hưởng thụ công nghệ hiện đại nhất, cho phép
tham khảo nhiều nhà thầu và bên đấu thầu đã có
nhiều kinh nghiệm nên có thể đề nghị những sản
phẩm hay dịch vụ có chất lượng cao với giá tối
thiểu.
11. Ở bên Nhật có 24.000 km đường sắt. Ngoại
trừ 4.000 km đường siêu tốc Shinkansen (Tân Cán
Tuyến) với khoảng cách đường rầy theo tiêu chuẩn
quốc tế 1.435 mm, những tuyến đường khác đều có
khoảng cách 1.067 mm, nghĩa là chỉ hơn có 67 mm
khoảng cách hiện nay ở các nước MRS. Thế mà
ngành đường sắt Nhật Bản vẫn nổi tiếng là có
công suất, vận tốc trung bình và độ an toàn cao.
12. Nói chung thì việc chuyên môn hóa những
đường, về khoảng cách đường rầy cũng như về
hướng đi, sẽ bảo đảm an toàn và tính đều đặn của
lịch trình các chuyến tầu.
13. Để tầu Kampuchia và tầu Việt Nam đều có
thể chạy trên tuyến đó.
14. Tuyến Hà Khẩu (đối diện với Lào Cai) –
Côn minh sẽ là tuyến duy nhất của Trung Quốc còn
giữ khoảng cách 1.000 mm. Nhưng cũng có tin
Trung Quốc đang nghiên cứu nâng cấp tuyến Hà
Khẩu – Côn minh lên khoảng cách 1.435 mm.
15. Người ta ước chừng phải ít nhất mười
chuyến mỗi ngày thì mới bõ điện hóa. Tuy nhiên,
con số đó cần được xác định rõ hơn cho mỗi dự án
cụ thể.
17. Tiết diện xe của tiêu chuẩn UIC–B là
rộng 3,15 m và cao 4,32 m.
18. Một tuyến điện hóa có dây cáp điện treo
ở trên đường rầy. Chiều cao của tiết diện công
trình phải cộng thêm cỡ của đường dây cáp đó.
19. Theo tiêu chuẩn ISO thì trọng lượng tối
đa một công–tê–ne 20 feet là 24 tấn và trọng
lượng tối đa một công–tê–ne 40 feet là 30 tấn.
20. Những số liệu này cần được xác định cho
mỗi dự án cụ thể.
21. Vận tốc một tầu hỏa có thể vô tận.
Nhưng, lực ma sát tăng theo lũy thừa ba của vận
tốc, vận tốc thương mại sẽ không bao giờ vượt
500 km/giờ. Nói rằng sẽ xây một tuyến đường với
vận tốc 650 km/giờ là huênh hoang.
|