Sau dự án khai thác bauxite ở Lâm Đồng, dự án xây dựng nhà máy
điện nguyên tử hạt nhân ở Ninh Thuận cũng đang tạo nên nhiều luồng
dư luận phản biện trong xã hội và trong giới chuyên môn.
Photo courtesy Wikipedia
- Nhà máy điện nguyên tử ở Cattenom, Pháp.
Các ống khói đang nhả ra hơi nước không phóng xạ từ tháp làm
nguội.(ảnh minh họa)
Trên đài RFA chúng tôi đã có bài viết về vấn đề này, trong mục
điểm blog hôm nay chúng tôi xin tiếp tục điểm qua ý kiến trên
các diễn đàn báo chí tự do cũng như trện các trang blog cá nhân.
Nhân lực, vật lực chưa đủ
Trong bài ‘Năng lượng hạt nhân: con dao hai lưỡi” nhà văn
Phạm Viết Đào kể lại năm 2002 một đoàn nhà văn Việt Nam trong đó
có ông trên đường sang thăm Roumania có ghé qua Paris và gặp một
số trí thức Việt Kiều. Ông viết: “ Trong câu chuyện sau bữa ăn
về nhiều đề tài, tôi có nhớ câu chuyện của hai trí thức Việt
kiều, khi biết chúng tôi là nhà văn, họ khuyên nên tác động tới
các cấp chính quyền: Chớ có xây dựng nhà máy điện nguyên tử, rất
nguy hiểm.
Nhiều đại biểu quốc hội khi thảo luận về dự án điện hạt nhân
Ninh Thuận đều băn khoăn vì nhân lực, vật lực cho nhà máy điện
hạt nhân của Việt Nam mới chỉ ở trong giai đoạn chuẩn bị, liệu
10 năm nữa đã có thế hệ chuyên gia vận hành công nghệ điện hạt
nhân hay chưa?
Là nhà văn nên chúng tôi không có kiến thức về chuyện này,
hơn nữa cảm thấy chuyện này còn xa vời Việt Nam nên chúng tôi
cũng không mặn mà với câu chuyện, tìm hiểu cặn kẽ vì sao lại
không nên xây nhà máy điện nguyên tử...
Câu chuyện bằng đi một thời gian đã lâu, nhân Quốc hội đang thảo
luận về việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân, chuyện này làm tôi
sực nhớ lại những ý kiến của một số trí thức Việt kiều Pháp nói
với chúng tôi năm 2002“.
Sở dĩ xây dựng nhà máy điện nguyên tử hạt nhân ở Việt Nam tạo
nên mối quan tâm và nỗi lo ngại trong dư luận là vì nhiểu lý do.
Trước hết là về nhân lực, vật lực.
Nhiều đại biểu quốc hội khi thảo luận về dự án điện hạt nhân
Ninh Thuận đều băn khoăn vì nhân lực, vật lực cho nhà máy điện
hạt nhân của Việt Nam mới chỉ ở trong giai đoạn chuẩn bị, liệu
10 năm nữa đã có thế hệ chuyên gia vận hành công nghệ điện hạt
nhân hay chưa? Do vậy, việc ấn định thời gian 2020 đưa dự án này
vào hoạt động là hoàn toàn không có tính khả thi.
Ở Việt Nam hiện nay theo ông ‘không có mấy ai thật sự là
chuyên gia như những người tôi đã từng gặp ở các nước có điện
hạt nhân.’
Giáo sư Phạm Duy Hiển
Trong bài trả lời phỏng vấn trên bee.net.vn Giáo sư Phạm Duy
Hiển-Cục An toàn bức xạ và hạt nhân-Bộ Khoa học và công nghệ,
nhắc đến Liên Xô vào thời ông học gần như là nơi đào tạo hàng
đầu về năng lượng nguyên tử, trong khi đó ở Việt Nam hiện nay
theo ông ‘không có mấy ai thật sự là chuyên gia như những người
tôi đã từng gặp ở các nước có điện hạt nhân.’
Cũng bàn ‘Về nhân sự điện hạt nhân’ blogger Trương Nhân Tuấn
viết ‘Về vật lý cơ bản, VN rất thiếu chuyên gia. Dự án điện
nguyên tử của VN hiện nay sẽ vận hành trong vài năm tới, đòi hỏi
VN phải cung ứng song song nhân sự vận hành và bảo trì có kinh
nghiệm.
Tôi thấy nhà nước VN thường có chủ trương ăn sổi ở thì, tức là
mì ăn liền. Khuynh hướng du lịch chữa bệnh (tourisme médical)
hiện nay khá phổ biến ở các nước như Thái Lan, Ấn Độ (và các
nước Đông Âu), là khuynh hướng kinh doanh mì ăn liền. Việc sắm
bộ máy gia tốc này theo tôi là để VN nhanh chóng sánh bước cùng
các nước trên vào con đường này.
Như thế, những ưu tiên như đào tạo khoa học gia về hạt nhân, lý
ra phải cần sự quan tâm đặc biệt của nhà nước, thì nhà nước rất
lơ là, bài phỏng vấn của GS Hiển đã nói hết.
Nhà nước VN chủ trương điện hạt nhân của VN là “chia khóa trao
tay – clé en main”, tức ngoại nhân cung cấp từ a đến z, từ cái
đinh ốc cho đến chuyên gia điều hành và bảo trì. Đây là một hình
thức thuộc địa kinh tế kiểu mới, nhưng do sự tự nguyện của VN’
Nhà nước VN chủ trương điện hạt nhân của VN là “chia khóa
trao tay – clé en main”, tức ngoại nhân cung cấp từ a đến z,
từ cái đinh ốc cho đến chuyên gia điều hành và bảo trì. Đây là
một hình thức thuộc địa kinh tế kiểu mới, nhưng do sự tự
nguyện của VN’
Blogger Trương Nhân Tuấn
Vấn đề an ninh hạt nhân-mối họa tiềm tàng
Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân còn khiến nhiều người lo
ngại vì những tác hại đối với môi trường sống xung quanh do
lượng phóng xạ thoát ra ngoài, và những hậu quả nghiêm trọng nếu
có một sự cố nào đó xảy ra.
Dư luận vẫn chưa quên sự cố tan chảy do mất chất tải nhiệt đã
từng xảy ra ở các lò năng lượng, mà điển hình nhất là ở hai nhà
máy Three Mile Island (Mỹ) và Chernobyl (Liên Xô), nhất là vụ nổ
lò hạt nhân tại Chernobyl năm 1986 làm hàng chục người chết,
hàng trăm ngàn người bị nhiễm phóng xạ, nhiều triệu cây số vuông
tại Ukraine, Belarus, Nga, Ba Lan, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy bị
nhiễm xạ.
Blogger Trương Nhân Tuấn có bài viết về hai vụ tai nạn này:
‘Qua các tai nạn trong các lò phản ứng nguyên tử dân sự (Three
Miles Islands (1979), Tcher nobyl (1986) người ta nhận thấy rằng
mỗi lò phản ứng nguyên tử đều che dấu một trái bom nguyên tử và
trái bom này có thể nổ một cách bất thần bất kỳ lúc nào nếu tai
nạn xảy ra một sự trục trặc kỷ thuật không kiểm soát được. Thật
vậy, trong trung tâm của một lò phản ứng, nhiên liệu sử dụng và
nguyên tắc phát động phản ứng dây chuyền ít nhiều cũng giống như
một trái bom nguyên tử” .
Từ vấn đề an ninh lò phản ứng nguyên tử, tác giả đặt câu hỏi:
‘Tôi không biết kiểu mẫu của VN là kiểu nào ? Có lẽ nhà nước đã
chọn lựa xong. Nếu có ai biết được việc này thì thông tin cho
tôi : kỹ thuật của nước nào ? kiểu mẫu nào ? (và giá cả bao
nhiêu ? hỏi vụ này để đoán coi có vụ « lại quả » không !).
Đây là một lựa chọn có tính chiến lược. Tùy theo kiểu mẫu
mà vấn đề an ninh lò máy sẽ khác nhau và tùy theo lò phản ứng
mà người ta có thể (hay không thể) sản xuất U235 hay Pu 239 để
« phục vụ » cho quân đội (làm bom nguyên tử như Ấn Độ,
Pakistan, Bắc Hàn...)
Blogger Trương Nhân Tuấn
Đây là một lựa chọn có tính chiến lược. Tùy theo kiểu mẫu mà
vấn đề an ninh lò máy sẽ khác nhau và tùy theo lò phản ứng mà
người ta có thể (hay không thể) sản xuất U235 hay Pu 239 để «
phục vụ » cho quân đội (làm bom nguyên tử như Ấn Độ, Pakistan,
Bắc Hàn...)
Gánh nợ to lớn cho quốc gia
Tuy nhiên, theo tiến sĩ Phùng Liên Đoàn trong một bài viết
đăng trên trang bauxitevietnam thì ” Đừng sợ nhà máy điện hạt
nhân nguy hiểm, hãy lo con cháu ta mắc nợ dài dài”. Trong bài
viết này, tác già chứng minh nhà máy điện hạt nhân không bao giờ
nổ như một trái bom nguyên tử ‘khi có sự cố tệ hại nhất thì lò
phản ứng cũng chỉ vỡ ra như một pháo tịt ngòi, có thể làm
uranium bị nóng chảy như ở TMI và Chernobyl, chứ không tiếp tục
có phản ứng dây chuyền làm sự tăng trưởng năng lượng hạt nhân
tăng lên vạn lần. Sở dĩ sự cố Chernobyl ghê gớm như vậy là do
phản ứng giữa nước và than ở nhiệt độ cao, giống như khi ta lấy
một thau nước đổ vào một lò than hồng, gây một tiếng “xèo” lớn
và làm tro bụi bay tứ tung.’
Còn về việc nhiễm phóng xạ, tác giả viết : ‘Tế bào bị phóng xạ
có thể biến dạng thành một tế bào ung thư. Việc này cũng gần
giống khi ta bị nhiễm chất hóa học độc hại như hút thuốc lá, ăn
nhiều thịt mỡ… lâu ngày làm một số tế bào biến dạng thành ung
thư. Khảo cứu khoa học đã giúp ta hiểu biết khá nhiều về hậu quả
của phóng xạ.
Ta không nên sợ nhà máy ĐHN nguy hiểm, nhưng ta nên lo con
cháu ta mắc nợ dài dài
Tiến sĩ Phùng Liên Đoàn
Thường thì phải có một liều lượng lớn mới nguy hiểm có thể đo
được. Điều hành một nhà máy ĐHN hoặc ở gần một nhà máy ĐHN không
làm ta bị phóng xạ 1- 2% nhiều hơn lượng phóng xạ thiên nhiên mà
ai cũng phải nhận.” Như vậy ‘Rõ ràng là rủi ro giết nhiều người
một lúc bởi nhà máy ĐHN rất là nhỏ so với các sự cố thiên nhiên
và đời sống thường ngày’.
Nhưng điều cần phải suy nghĩ cân nhắc hơn theo tiến sĩ Phùng
Liên Đoàn đó là ‘ các nhà máy ĐHN rất đắt tiền, phải kế hoạch
cả 10, 15 năm thì mới xây xong, và khi điều hành thì có rất
nhiều rủi ro là nhà máy nằm chết không tạo điện. Khi nhà máy nằm
chết thì ta vẫn phải trả nợ tiền vay‘ Tác giả kết luận‘Ta không
nên sợ nhà máy ĐHN nguy hiểm, nhưng ta nên lo con cháu ta mắc
nợ dài dài‘
Gánh nặng nợ quốc gia-đó cũng là nỗi băn khoăn lớn trong phát
biểu của nhiều đại biểu quốc hội khi bàn về dự án điện hạt nhân.
Theo vnexpress.net,
‘Đại biểu Nguyễn Minh Thuyết nói: "12 tỷ USD đầu tư cho dự án
điện hạt nhân Ninh Thuận chiếm tới nửa ngân sách nhà nước. Đó là
ta mới tính khi lựa chọn công nghệ lò phản ứng thế hệ hai, nếu
lựa chọn thế hệ ba phải 16 tỷ USD, thế hệ ba cộng phải hơn nữa.
Ta cũng chưa tính tới yếu tố trượt giá (dự kiến lò phản ứng đầu
tiên khởi công năm 2014 và đưa vào sử dụng năm 2022".
"Dự trữ quốc gia của ta 22 tỷ USD, một phần số đó đã dành cho
các gói kích cầu. Nếu lựa chọn công nghệ lò phản ứng thế hệ hai
phải mất 12 tỷ USD, vậy tiền đâu ra?", đại biểu Bế Xuân Trường
đặt câu hỏi. Đại biểu Đàng Thị Mỹ Hương thì băn khoăn: "Nếu vay
tới 75-85% vốn đầu tư, tức là phải lệ thuộc vào tài chính của
nước ngoài thì liệu có làm chủ được mình? Điện hạt nhân trở
thành gánh nợ của con cháu".
Dự trữ quốc gia của ta 22 tỷ USD, một phần số đó đã dành
cho các gói kích cầu. Nếu lựa chọn công nghệ lò phản ứng thế
hệ hai phải mất 12 tỷ USD, vậy tiền đâu ra?
Đại biểu Bế Xuân Trường
Độ rủi ro của dự án
Sự rủi ro về bài toán kinh tế lẫn mức độ thành công của dự án
cũng lả điều mà các nhà chuyên môn đề cập đến. Giáo sư Phạm Duy
Hiển thẳng thắn: ‘Nếu anh chấp nhận rủi ro một cách có ý thức,
sẽ tìm mọi cách giảm rủi ro. Cái sai nhất hiện nay của một số cơ
quan, một số người có trách nhiệm là không nói đến chuyện rủi ro
của điện hạt nhân mà chỉ nói nó an toàn tuyệt đối, điều này có
thể làm hỏng việc, gây hậu quả xấu.‘ Ông phân tích:“ Theo kế
hoạch phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam đến năm 2030 của bộ
Công thương, sẽ có bảy nhà máy được xây dựng tại Ninh Thuận và
một số điểm của miền Trung, tổng cộng suất lên tới 15.000 –
16.000MW. Như vậy, chỉ sau 15 năm, tại hai huyện của Ninh Thuận
có tới bảy nhà máy điện hạt nhân. Làm điện hạt nhân không đơn
giản như vậy. Xây bảy nhà máy trong 15 năm, chúng ta có làm được
không? Điều kiện hiện nay đã hội đủ để xây dựng nhà máy đầu tiên
chưa?
Ở đây, nên tìm hiểu và phân tích vấn đề một cách chi tiết và
thận trọng hơn, không nên chỉ nghĩ đến việc xây cho bằng được.
Một tổ máy công suất 1.000MW đã gấp 6.000 lần lò Đà Lạt bây giờ
(cả nước có nhiều nguồn phóng xạ, nhưng phóng xạ ở lò Đà Lạt lớn
nhất). Sau một năm vận hành, chất phóng xạ đã gấp 6.000 lần chất
phóng xạ hiện có ở lò Đà Lạt. Với bảy nhà máy, chạy một năm, 10
năm chất phóng xạ thải ra sẽ là bao nhiêu?
Nếu anh chấp nhận rủi ro một cách có ý thức, sẽ tìm mọi cách
giảm rủi ro. Cái sai nhất hiện nay của một số cơ quan, một số
người có trách nhiệm là không nói đến chuyện rủi ro của điện
hạt nhân mà chỉ nói nó an toàn tuyệt đối
Giáo sư Phạm Duy Hiển
Một bài học xương máu đối với Việt Nam khi quyết định phát
triển điện hạt nhân, đó là trường hợp của Philippines. Năm 1976
họ đã bỏ ra 2,3 tỉ đôla để xây dựng nhà máy điện hạt nhân Bataan
621MW. Đến năm 1984, mặc dù nhà máy đã gần hoàn thành nhưng vẫn
phải đóng cửa vì hàng loạt lý do an toàn như nguy cơ động đất và
địa điểm xây dựng nhà máy quá gần núi lửa Pinatubo. Bên cạnh đó,
nguồn nhân lực nội địa của Philippines cũng chưa đủ nên sẽ phải
nhập chuyên gia từ quốc gia mình mua công nghệ. Đồng thời nguồn
uranium cũng đang khan hiếm, giá thành lại cao… Cộng hưởng tất
cả những lý do đó, Chính phủ Philippines quyết định thà vứt đi
hàng tỉ USD tiền đóng thuế của dân chứ nhất định không vận hành
nhà máy điện hạt nhân. Họ nghèo và thiếu điện như ta mà vẫn
quyết định như vậy đấy. Nhưng tại sao họ làm, rồi tại sao họ bỏ?
Trong số những người có trách nhiệm, ai sẽ là người giải thích
tại sao Philippines làm như vậy?”.
Dư luận nhìn chung đều cho rằng, cũng như việc khai thác
bauxite, việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân trong hoàn cảnh
hiện nay của Việt Nam là “lợi ít hại nhiều‘(chưa kể những cái
hại đó bao gồm nhiều khía cạnh và sẽ ảnh hưởng đến nhiều người,
nhiều thế hệ), rằng Việt Nam chưa đủ sức và cũng chưa thật sự
cấn thiết phải khai thác bauxite hoặc xây dựng nhà máy điện hạt
nhân bằng