Mấy năm nay
trong xã hôi ta thường nghe nói đến các lỗi hệ thống. Và trong năm
2011 cụm từ tái cấu trúc được nhắc đi nhắc lại với tần số kỷ lục
trong các giải pháp vượt qua khó khăn kinh tế gay gắt hiện nay. Không hẹn mà
gặp, các từ này đã trở thành những từ khoá trong phần lớn các nghiên
cứu về quản lý kinh tế xã hội trong cả năm 2011. Cho nên có lẽ cũng là tự
nhiên nếu câu chuyện đầu năm xoay quanh tái cấu trúc và lỗi hệ thống.
Một hệ thống
phức tạp được đặc trưng bởi mục tiêu, thành phần, cơ chế hoạt động và cấu
trúc các mối quan hệ giữa các thành phần của nó với nhau và với môi trường
bên ngoài.
Trong quá
trình hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của nó, một hê thống phức tạp, dù là
một doanh nghiệp, một ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hay những hệ thống lớn
hơn, đều không tránh khỏi lúc này lúc khác có trục trặc. Nếu chỉ là trục
trặc trong vận hành bình thường thì có thể dựa theo cơ chế phản hồi để phát
hiện và điều chỉnh. Nhưng nếu trục trặc lớn, kéo dài thời gian lâu, thì
thường có thể do mục tiêu sai, hoặc cấu trúc của hệ thống có vấn đề, có
khuyết tật cơ bản, hoặc cả mục tiêu lẫn cấu trúc đều có chuyện. Khi đó, nếu
chỉ xử lý cục bộ, chắp vá, vụn vặt, theo phương thức sai đâu sửa đó, thì
không những không giảm bớt được truc trặc, mà có khi còn làm phát sinh thêm
những rối ren, phức tạp mới, làm bất ổn gia tăng, đến mức có thể vượt khỏi
tầm kiểm soát. Giải pháp đúng đắn trong tình huống đó chỉ có thể là dựa trên
phân tích hệ thống, xét lại toàn bộ tổ chức, từ mục tiêu đến cơ chế hoạt
động và các mối quan hệ trong nội bộ hệ thống với nhau và với môi trường, để
thấy rõ và tìm cách sửa chữa những khuyết tật cơ bản của hệ thống, tức là
các lỗi hệ thống, theo cách nói quen thuộc gần đây.
Đó là ý
nghĩa các phạm trù “lỗi hệ thống” và “tái cấu trúc” mà gần đây đã được sử
dụng khá phổ biến trong các câu chuyện chính trị và kinh tế, xã hội.
Thực tế xây
dựng đất nước hơn ba mươi năm qua đã dạy chúng ta một bài học đắt giá: chỉ
trong vòng mười năm sau ngày thống nhất Tổ quốc, đất nước đã đứng trên bờ
vực sụp đổ, buộc chúng ta phải tỉnh giấc, nhìn thẳng vào những thất bại gây
nên do những lỗi lầm hệ thống tich luỹ trong quản lý kinh tế xã hội, từ đó
mới có công cuộc đổi mới mà nhờ đó đất nước đã vượt qua khủng hoảng để hồi
sinh kỳ diệu trong thập kỷ 90.
Ngày nay, éo
le lịch sử lại đặt thế hệ chúng ta đứng trước tình huống tương tự như 25 năm
trước. Bên cạnh những thành tựu bắt nguồn từ đổi mới, trong thời gian 5-7
năm gần đây đã xuất hiện nhiều sai lầm, thất bại đưa đất nước đến những khó
khăn hết sức nghiêm trọng. Những gì tich cực mà đổi mới có thể đem lại đều
đã đạt tới giới hạn. Nhiều lỗi hệ thống ở tầng sâu trước đây còn khuất nay
bắt đầu lộ diện, khiến chúng ta đứng trước sự lựa chọn mới: hoặc tiếp tục
làm ngơ với các lỗi hệ thống đó, chấp nhận đối mặt với nguy cơ trì trệ, thậm
chí lụn bại và chuốc lấy nguyền rủa của đời sau, hoặc chịu đau giải phẫu và
cắt bỏ những mầm bệnh mà thật ra đã ủ sẵn trong cơ thể từ nhiều thế hệ
trước, và dũng cảm thay đổi tư duy một lần nữa, mở ra một thời kỳ khai sáng
mới, xứng đáng với truyền thống cách mạng của các thế hệ tiền bối và không
thẹn với những hy sinh mất mác to lớn của cả dân tộc qua mấy chục năm chiến
tranh tàn khốc.
Trước hết,
về đời sống chính trị. Có thể nói hầu hết những gì khó khăn, bê bối, trì
trệ, suy thoái, hư hỏng, kéo dài trong mấy chục năm qua, suy cho cùng, có
nguồn gốc liên quan tới những khuyết tật hệ thống của thể chế chính trị, cho
nên sẽ khó có hy vọng khắc phục triệt để nếu không loại bỏ những lỗi hệ
thống đó.
Điều nguy
hiểm đáng lo, như Tổng Bí Thư đã nhận định trong Hội nghị TƯ vừa qua, là suy
thoái biến chất đã diễn ra ở một bộ phận không nhỏ đảng viên giữ vị trí cao
trong bộ máy quyền lực, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của dân. Nói như
dân gian: nhà dột từ nóc. Sở dĩ như vậy là do quyền lực tập trung quá đáng
mà không có cơ chế kiểm soát hữu hiệu, tiếng là thể chế dân chủ nhưng nặng
về dân chủ hình thức, luật pháp không nghiêm minh, khiến tham nhũng, tội
phạm có điều kiện hoành hành cả ở những nơi lẽ ra phải gương mẫu và trong
sạch nhất. Bộ máy hành chính qua nhiều lần “cải cách” ngày càng đồ sộ mà vẫn
quan liêu, xa dân, hành dân là chính. Nhiều quan lớn trong bộ máy không ngớt
rao giảng đạo đức mà thật ra lối sống đồi truỵ, chỉ chăm chăm lợi dụng chức
quyền mưu lợi vinh thân phì gia. Với một nền quốc trị như thế, trách sao văn
hoá, đạo đức xã hội không ngày một suy đồi, các bản tin hàng ngày dày đặc
những vụ lừa đảo, trộm cắp, chém giết nhau mất hết tính người.
Thật đau
xót khi nghĩ tới một xã hội cách đây chưa lâu từng được ca ngợi nghèo nhưng
vẫn giữ được phẩm cách, nay đầy rẫy những cảnh xa xỉ lố lăng, gian dối, xảo
trá, không chút tự trọng. Cho nên sửa đổi hiến pháp đi đôi với chỉnh đốn
Đảng, chỉnh đốn bộ máy chính quyền, tái cấu trúc ở tầng sâu chính trị nhằm
sửa sai hệ thống là yêu cầu khẩn thiết hiện nay cần thực hiện bằng được mới
mong có thể lấy lại niềm tin đang mất dần của dân.
Thứ hai, về
đời sống kinh tế. Trong mấy thập kỷ mải mê phát triển kinh tế dựa vào tài
nguyên thiên nhiên và lao đông giá rẻ, lấy doanh nghiệp Nhà nước làm chủ
đạo, xây dựng các tập đoàn chủ chốt dựa trên độc quyền và sự ưu ái của Nhà
nước chứ không dựa trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, trong khi đó lơ là văn
hoá, giáo dục, khoa học khiến các lĩnh vực này sa sút nghiêm trọng – nay đã
rõ mô hình đó không thể tiếp tục. Tai hại là đường lối phát triển kinh tế
thiển cận đó được thực thi trên nền một thể chế lỏng lẻo bị thao túng bởi
các nhóm lợi ích, khiến tham nhũng, lộng quyền, thiếu dân chủ đã trở thành
những căn bệnh đặc trưng của xã hội Viêt Nam hiện nay. Nếu không đủ quyết
tâm trừ diệt tận gốc mà cứ để những căn bệnh này ăn sâu vào xương tuỷ xã hội
thì không mong gì những kế hoạch tái cấu trúc kinh tế có thể thực hiện có
hiệu quả.
Sau cùng,
nhưng xét về lâu dài lại là căn bản nhất, là đời sống văn hoá, giáo dục, xã
hội. Không phải không có cơ sở mà ngay trong chế độ thực dân hà khắc, Phan
Chu Trinh đã khởi xướng cứu nước bằng đường lối “khai dân trí, chấn dân khí,
hậu dân sinh”. Sự xuống cấp ở đây thấm thía từng ngày, chưa bao giờ người
dân bình thường cảm thấy cuộc sống bất an như lúc này. Đường sá, phương tiện
giao thông thiếu an toàn (gần đây càng trầm trọng do các vụ cháy xe liên
tiếp vì xăng kém phẩm chất), bệnh viện quá tải thê thảm, thực phẩm độc hại
tràn lan, trường học cũng không yên tĩnh, đành rằng tất cả đều có phần hệ
quả trực tiếp của những sai lầm hệ thống nói trên về chính trị, kinh tế.
Tuy nhiên, ở đây cũng cần nhận rõ những sai lầm hệ thống ngay trong văn hoá,
khoa học, giáo dục, y tế, xã hội nữa.
Về giáo dục,
những yếu kém, bất cập, hư hỏng lưu niên đến nay chưa dứt chứng tỏ đường lối
đổi mới cục bộ, chắp vá, vụn vặt, lăng nhăng, từng thực thi qua ba đời bộ
trưởng đã hoàn toàn phá sản. Từ lâu, cải cách giáo dục toàn diện, triêt để,
đã được cuộc sống cảm nhận bức thiết và TƯ Đảng, Chính Phủ cũng đã có những
nghị quyết trịnh trọng khởi xướng từ 6-7 năm nay. Sai lầm hệ thống lớn nhất
trong lĩnh vực giáo dục là đã đi lạc ra ngoài con đường chung của thế giới,
kìm hãm thế hệ trẻ trong nền cử nghiệp hư học mà ngay từ thời phong kiến,
vua Minh Mạng triều Nguyễn đã từng nghiêm khắc lên án nó là nguyên nhân
khiến “nhân tài trong nước ngày một kém đi” (“Viêt Nam sử lược” của Trần
Trọng Kim, trang 463). Trong đó cái chính sách lương không ra lương, ban đầu
còn có lý do bào chữa là do khó khăn kinh tế, kỳ thật là một chính sách
thiển cận tai hại, đương nhiên chủ yếu do chịu vòng cương toả của chính sách
chung về lương công chức của Nhà nước, nhưng trong đó cũng có một phần không
nhỏ là trách nhiệm của bản thân ngành giáo dục. Vì cái chính sách lương kỳ
quặc này, không giống bất cứ ai trên thế giới, nên mới có tình trạng cũng
không giống ai trên thế giới là thầy giáo không tập trung vào công việc mình
được trả lương mà phải đầu tắt mặt tối kiếm thêm thu nhập từ những công việc
khác. Nghịch lý lạ lùng là không đâu người thầy bị rẻ rúng, coi thường như ở
xứ này, nơi mà từ xa xưa đã có truyền thống tôn kính thầy và nay vẫn luôn
nhắc tới bốn chữ tôn sư trọng đạo. Vì vậy, tuy lúc này mới bắt tay cải cách
giáo dục cũng đã quá muộn, nhưng lại có thể có thuận lợi cơ bản nếu được làm
đồng bộ với cải cách chính trị và cải cách kinh tế như trên đã bàn.
Còn nhớ khi
mới bắt đầu đổi mới, vào cuối thập kỷ 80, đã có lúc, do nghe theo đề xuất
của một số cán bộ nghiên cứu thiếu hiểu biết, khái niệm hộp đen trong
khoa học hệ thống đã được vận dụng khá bừa bãi trong quản lý kinh tế. Kỳ
quặc đến nỗi danh từ hộp đen dùng để chỉ các xí nghiệp đã trở thành thời
thượng trong các phát biểu của lãnh đạo, trên các báo lớn nhất ở trung ương,
và cả một thời gian dài cái áo khoa học sang trọng khoác lên danh từ đó từng
là yếu tố kích thích, tạo hứng cho hoạt động của các câu lạc bộ giám đốc xí
nghiệp. Thậm chí nhiều người, cả ở cấp lãnh đạo cao, cũng tin tưởng ngây thơ
chỉ việc “quay” các hộp đen cho giỏi thì sản xuất sẽ phát triển. Còn “quay”
như thế nào thì tuỳ nghi, ai muốn hiểu cách nào cũng được, tha hồ cho trí
tưởng tượng mặc sức vẽ vời. Đó là thời kỳ ấu trĩ, tuy cũng là một cách giải
toả bớt tâm lý bế tắc chung vào lúc nhìn đâu cũng thấy khó khăn, nhưng cái
hại lớn là tạo ra thói quen say sưa bàn thảo những chuyện vu vơ, chẳng ăn
nhập gì với cuộc sống đang nước sôi lửa bỏng hàng ngày. Mong rằng lần này
chúng ta không lặp lại sai lầm đó, dù ở trình độ cao hơn.
Tái cơ cấu
là để sửa các lỗi hệ thống, cho nên trước hết phải nhận định đúng các lỗi hệ
thống, mới biết nên tái cơ cấu như thế nào và sau đó phải có đủ quyết tâm
mới thực hiện được đến nơi đến chốn. Toàn bộ công việc đụng chạm đến các
nhóm lợi ích mà một số nhóm này gắn chặt với các lỗi hệ thống, cho nên sẽ
rất gay go, gian khổ. Từ hai mươi năm nay đây là thử thách lớn nhất, cầu
mong hồn thiêng sông núi giúp đất nước vượt qua được thử thách này.