Những bài cùng tác giả
A - Những lý do quốc tế :
Cuộc khủng hoảng điện
hạt nhân trên thế giới kéo dài đến 2020.
1/- Tính cách trầm trọng của cơn khủng hoảng :
Hiện nay trên thế giới có
33 nước sản xuất điện hạt nhân với 436 lò, tổng công suất đặt là 358 000 MW
(1MW=1000kW). Năm 2000, tổng sản lượng điện toàn cầu la 15 379 TWh (tỷ kWh),
trong đó phần điện hạt nhân bằng thủy điện (17% tức 2 590 TWh). Hai nước
đứng hàng đầu là Mỹ (103 lò, 100 000 MW, 769 TWh, 20,3% điện hạt nhân), Pháp
(58 lò, 63 000 MW, 401 TWh, 77,1% điện hạt nhân). Trên toàn cầu chỉ có 12
nước, phần lớn ở Châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Triều Tiên, Đài Loan ...),
đang xây cất 32 lò hạt nhân, một con số rất thấp, so với nhu cầu điện lực
của hơn 6 tỷ người. Tỷ lệ 6,5% của điện hạt nhân trong tổng kết nhu cầu năng
lượng sơ cấp thế giới không thay đổi từ 2000 đến 2020, nói lên sự trầm trọng
của cơn khủng hoảng, tiếp tục kéo dài từ 25 năm nay. Năm 2002, cơ quan quốc
tế năng lượng đã tiên đoán rằng tổng công suất điện hạt nhân thế giới
358 000 MW năm 2000 sẽ hạ xuống còn 320 000 MW năm 2020.
Mỹ đã không đặt mua một
lò hạt nhân nào cả từ 1978. Công suất đặt hạt nhân của nước này sẽ hạ 30 đến
40% từ đây đến 2020. Ở Tây âu, nhiều nước chuẩn bị rút lui có trật tự (Thụy
Điển, Bỉ, Đức ...) hoặc không hưởng ứng điện hạt nhân nữa (Anh, Ý, Thụy Sĩ,
Tây Ban Nha ...). Nên hỏi tại sao một cường quốc như Đức, chỉ có than là
nguồn năng lượng thiên nhiên (phải nhập khẩu năm 2001 : 36 triệu tấn than,
105 triệu tấn dầu thô, 43,7 triệu tấn sản phẩm dầu, 78,7 tỷ m3
khí) mà có đủ can đảm hy sinh điện hạt nhân? Một thay đổi đột ngột chiến
lược như thế, dù đảng xanh ngày mai có ra ngoài chính phủ đi nữa, cũng khó
quay ngược trở lại.
Lẽ cố nhiên, một vài nước
như Thụy Điển vì nhu cầu cấp bách, kéo dài thời gian vận hành chẳng qua là
vì vấn đề kinh tế. Chỉ có Phần Lan đang muốn đặt mua một lò EPR (European
Pressurized Reactor) của Pháp-Đức chưa xuất hiện trên thị trường. Ở Nhật,
nhiều sự cố kế tiếp đã xảy ra (lò neutron nhanh Monju, nhà máy xử lý nhiên
liệu Tokaimura, vết nứt ở các mối hàn). Năm 2003 một số lớn nhà máy được
lệnh phải tạm ngưng hoạt động, làm mất nhiều tỷ USD và sự tin cậy của chính
phủ và dân chúng.
Về phương diện kỹ thuật,
ba vấn đề chính vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa : bảo đảm an toàn, xử lý
nhiên liệu hạt nhân, lưu trữ chất thải phóng xạ. Do đó các thủ tục pháp lý
và hành chính trở nên rườm rà và phức tạp. Về phương diện tài chính và kinh
tế, những trở ngại ngày nay quan trọng hơn trước nhiều, do việc mở cửa thị
trường điện lực với sự cạnh tranh vô cùng mãnh liệt giữa các công ty tư nhân
(muốn đầu tư vào tua bin khí hỗn hợp nhanh và có lợi hơn nhiều). Trong tình
trạng bấp bênh này, ai dám đầu tư vào các lò hạt nhân đòi hỏi kinh phí quá
cao (hàng tỷ USD) với thời gian thu lại vốn quá dài (8-12 năm). Thị trường
điện hạt nhân không phải là một thị trường ngắn hạn. Ngay cả ngân hàng thế
giới cũng vô cùng dè dặt trong vấn đề này đối với các nước đang phát triển.
Về phương diện xã hội, phong trào chống đối điện hạt nhân không phải chỉ là
những luồng gió thổi thoáng qua. Nó lan rộng, thiết thực và có ý nghĩa sâu
đậm.
2/- Ảnh hưởng của việc mở của thị trường điện lực :
Sự mở cửa thị trường điện
lực đã gây khủng hoảng và sẽ tiếp tục đem lại tình trạng hết sức căng thẳng
ở nhiều nước. Nhiều nhân vật và cơ quan có thẩm quyền đã lên tiếng phản đối
sự mở cửa này. Một trong những lý do chính cần biết về đặc tính của điện
(khác với than, dầu, khí …) là không tích trữ được (non stockable). Sản xuất
ra là phải tiêu thụ ngay. Nếu không có nhà nước thì ai lo kế hoạch đầu tư
dài hạn, ai chú trọng đến vấn đề an toàn, bảo đảm sự cung cấp điện lực liên
tục cho dân chúng ?
Những công ty tư nhân
không thể chờ đợi quá lâu để thu lại vốn. Cơn khủng hoảng điện hạt nhân trên
thế giới trở nên trầm trọng cũng vì thế. Ở Pháp vào năm 2007, EDF
(Electricité de France) sẽ hoàn tất việc mở cửa thị trường với khách hàng tư
nhân. Trên lý thuyết, việc mở cửa thị trường cho sự cạnh tranh, có mục đích
làm hạ giá điện và tăng chất lượng dịch vụ. Tuy vậy ở Âu châu, đối với những
thị trường đã hoàn toàn mở cửa (Anh, Đức, Áo, Phần Lan, Thụy Điển), giá điện
không hạ thấp như dân chúng mong đợi. Nhiều công ty tư nhân vì tham lợi
nhuận, hạn chế sản xuất để tăng giá bán.
Ở Mỹ, sự kiện tai tiếng
của tập đoàn năng lượng Enron và nạn thiếu điện trầm trọng ở Californie từ
mấy năm nay là một bài học, mà nhiều nước cần lưu ý. Ở Anh chính phủ đã cấp
tốc quốc hữu hóa trở lại British Energy (20% thị trường quốc gia) không
ngoài mục đích để tránh những hậu quả không tốt có thể xảy ra. Ở trong nước,
cuối tháng 7 - 2003, Bộ Công nghiệp đã tuyên bố với báo giới rằng việc xóa
độc quyền điện lực cần phải đi từng bước. Hết sức thận trọng như thế là
phải.
Mùa hè vừa qua, nhiều sự
cố quan trọng đã xảy ra trên một số hệ thống điện lớn (Mỹ và Canada ngày
14/08, Đan Mạch ngày 23/09, Ý ngày 28/09) làm hàng chục triệu người bị cúp
điện khá lâu. Ở Pháp, giữa tháng 08 vì nạn hạn hán ác liệt (41-42°C) bất
ngờ, EDF suýt phải cúp điện. Hiện tượng này chứng minh sự mỏng manh
(fragilité) của một chương trình điện hạt nhân nhất nhì thế giới.
3/- Xử lý nhiên liệu hạt nhân và lưu giữ chất thải phóng
xạ :
Lúc đầu, xử lý nhiên liệu hạt nhân chủ yếu
là để lấy Pu (Plutonium) cho quân đội. Sau đó Pu được trích ra để dùng
trong các lò siêu phản ứng như Phénix (250 MW) và Superphénix (1250 MW) của
Pháp. Chính phủ nước này đã can đảm ra lệnh đóng cửa Superphénix năm 1998.
Vì nhà máy rất nguy hiểm, bị trục trặc liên tiếp. Làm tốn hao gần 10 tỷ USD.
Phương pháp dùng PuO2, ở nhiên liệu phóng xạ trích ra, trộn với
UO2 thành nhiên liệu MOX (Mixed Oxide Fuel) cho những lò PWR
(Pressurized Water Reactor), sự thật không có lợi gì lắm về phương diện
kinh tế cũng như môi trường (Mỗi năm một lò PWR 1000MW có thể cho 200kg
Pu)
Về việc lưu giữ chất thải phóng xạ, điểm
yếu lớn nhất của điện hạt nhân, sau nửa thế kỷ, khoa học và kỹ thuật vẫn
chưa tìm ra lối thoát. Không có nước nào dám tuyên bố sẽ thành công trong
tương lai gần hay xa (hàng chục năm hay thế kỷ). Giải pháp “tạm thời” rất
tốn kém, tóm tắt là thủy tinh hóa chất thải, rồi tạm chôn sâu vào lòng đất
có đất sét hoặc muối, với hy vọng một ngày kia khoa học sẽ giải quyết ổn
thỏa vấn đề ! Ngày nào việc xử lý nhiên liệu hạt nhân và lưu giữ chất thải
phóng xạ chưa được giải quyết hoàn bị, ngày ấy tồn tại sự nghi ngờ và
chống đối của dân chúng (vẫn còn ám ảnh bởi Hiroshima và Nagasaki).
4/- Tai
biến, vũ khí nguyên tử và an ninh :
Tai biến :
Three Mile Island và
Tchernobyl là hai nhà máy điện hạt nhân khét tiếng đã làm chấn động công
nghiệp hạt nhân dân sự. Ngày 28/03/1979 một sự cố lớn đã xẩy ra ở lò Three
Mile Island (TMI2) gần Harrisburg (Pennsylvanie-Mỹ). Tim lò (PWR
- 900 MW) bị thiệt hại, nhiệt độ lên quá 1800°C, làm phát tán phóng xạ. Sai
lầm ở công nhân vận hành nhiều hơn là ở thiết kế.
Sáng ngày 26/04/1986, ở lò Tchernobyl số 4
RBMK (Reaktor Bolchoi Mochtchnosti Kanalni -1000 MW) cạnh thành phố Pripyat
(Ukraine), cũng đã diễn ra một tai biến khủng khiếp. Tai biến này được xếp
ở cấp 7, cao nhất của thang độ (Echelle INES - International Nuclear Event
Scale). Vì nổ mạnh (nổ hơi - explosion vapeur, không như bom nguyên tử),
nóc bay và nhà máy bị cháy lớn làm phát tán phóng xạ ra ngoài, lan tràn
nhiều vùng ở Nga, các nước Bắc Âu, miền Nam nước Pháp và một số nước
khác. Lúc đầu nhiều người chết vì liều bức xạ quá cao, 800-1600 rem (đơn vị
liều tương đương). Lỗi, phần lớn do quan niệm kỹ thuật thiết kế thiếu bảo
đảm (thể tích giam hãm - volume de confinement - quá nhỏ - xem như không có
nhà bảo vệ) và một phần cũng vì công nhân vận hành không thực hiện đúng các
hướng dẫn.
Theo nhà chức trách, chỉ
có vài chục người bị tử nạn! Vì sợ dân chúng hoang mang và trách móc, nên
những con số chính xác cao hơn nhiều vẫn không được công bố. Đến nay đã có
hàng ngàn trẻ em bị mổ tuyến giáp (thyroide), mỗi năm thêm ít nhất 100 cháu.
Hậu quả tàn khốc Tchernobyl, sau 18 năm vẫn âm thầm tiếp diễn trong sự dối
trá. Người ta ước tính là tai biến Tchernobyl đã gây ra 3 triệu nạn nhân (bị
thiệt mạng, đau ốm, bị bệnh tật, ...) và tốn khoảng 360 tỷ USD riêng cho 3
nước Nga, Ukraine và Biélorussie. Số tiền này sẽ cao hơn nhiều nếu một tai
biến tương tư xảy ra ở Mỹ hay Âu Châu.
Vũ khí nguyên tử :
Trên đầu mỗi người dân
trên thế giới, đè nặng một sức phá hoại tương đương với hàng tấn chất nổ
cổ điển. Điều mâu thuẫn và đáng lo ngại nhất là 90% vũ khí buôn bán trên thị
trường quốc tế, được sản xuất ở tại 5 nước, toàn là ủy viên thường trực
trong Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc !
9 nước đã có bom nguyên
tử, 13 nước có vũ khí sinh học, 16 nước có vũ khí hóa học. Vài nước có đủ
loại NRBC (Nucléaire, Radiologique, Biologique, Chimique), hai loại BC,
tương đối kín đáo, dễ làm và rẻ tiền. Có nước đang thí nghiệm vũ khí dùng
uranium nghèo (Uranium appauvri) ít độc hơn. Từ khi bức tường Berlin sụp
đổ, việc buôn bán trong lĩnh vực hạt nhân được thực hiện trong bóng tối
theo ba hướng : chất phóng xạ, kỹ thuật và chuyên viên có kinh nghiệm. Ngày
nay chiến lược cảnh báo nguyên tử (dissuasion nucléaire) không còn hiệu lực
như trước. (Dân tộc Việt Nam đã có dịp chứng minh rằng ý chí mạnh hơn vũ
khí). Bọn khủng bố với vài trăm gam chất phóng xạ cũng đủ để làm tê liệt một
thành phố. Chúng có điều kiện để chế bom nguyên tử. Hàng chục kg chất phóng
xạ đã mất tích.
Cuối 2000, toàn cầu có
trên 1500 tấn Pu, đủ để sản xuất hàng vạn bom nguyên tử. Từ 1970 đến nay,
188 nước đã ký hiệp ước không cho tăng nhanh quá mức chất phóng xạ, dưới
sự kiểm soát của cơ quan quốc tế năng lượng nguyên tử (AIEA). Tuy nhiên, an
ninh thế giới vẫn không được bảo đảm, vì cơ quan AIEA thiếu điều kiện thanh
tra chu đáo (ví dụ : Bắc Triều Tiên, Iran, Libye). Trên thực tế, vai trò của
AIEA bị hạn chế, không như người ta tưởng lầm. Làm bom nguyên tử cần chất
phân rã (matière fissile) phải làm giàu 238U ra 95% 235U
hay Pu và một khối lượng tới hạn (masse critique) từ 5 đến 7 kg, tùy theo
trạng thái kim loại hay PuO2. Kỹ thuật làm giàu (enrichissement)
238U, hay trích Pu bằng cách xử lý nhiên liệu phóng xạ, cho quân
đội hay dân sự đều giống nhau.
Kỹ thuật làm giàu có 2
phương pháp chính. Phương pháp ly tâm siêu tốc (Ultracentrifugation) được
Nga và tập đoàn Urenco gồm Đức, Anh, Hà Lan áp dụng. Libye và Iran cũng dùng
máy ly tâm với sự giúp đỡ “thầm kín” của chuyên gia Pakistan. Phương pháp
khuyếch tán khí (diffusion gazeuse) tốn rất nhiều kinh phí và điện lực được
Pháp áp dụng ở cơ xưởng Eurodif để làm giàu 238U ra 3,5%
235U dùng trong các lò PWR.
An ninh :
Tóm tắt có ba loại tai
biến đáng lo sợ : sự cố lớn trong 1 nhà máy điện hay trong xưởng chế tạo
hoặc xử lý nhiên liệu hạt nhân, tai nạn dài hạn liên quan đến chất thải
phóng xạ, tai nạn gây ra bởi mức tăng trưởng quá nhanh vũ khí nguyên tử.
Viện năng lượng nguyên tử
VN (VNLNTVN) có vẻ lạc quan khi nêu tính an toàn kỹ thuật và chất thải phóng
xạ. Hai tai biến Three Mile Island và Tchernobyl xảy ra lúc bấy giờ toàn cầu
chỉ có vài ba trăm lò hạt nhân, mặc dù xác suất rủi ro là 10-6
(trên 1 triệu). Xây cất lò hạt nhân nếu có sự làm dối, mất trộm bê tông cốt
sắt, vật liệu thì ai dám bảo đảm an toàn cho dân chúng. Ai dám bảo đảm với
bộ quốc phòng sự ổn định, qua nhiều thế hệ, của tình hình chính trị ngoại
giao đối với các nước láng giềng có bom và vũ khí nguyên tử. Có nước nào
không sợ cảm tử quân và bọn khủng bố quốc tế ?
5/- Khoa học và kỹ thuật :
Kỹ thuật các lò thế hệ II
PWR của Mỹ, Nhật, Tây âu và các lò RBMK, VVER (Vodiano Vodianoi
Energuietitcheski Reaktor) của Nga có thể xem như đã lỗi thời (ví dụ : máy
bay Concorde trong lĩnh vực hàng không)
Lò EPR :
từ 1989, lò EPR (1600 MW) của thế hệ III đã được EDF, Framatome, Siemens
chung sức nghiên cứu. Lò chuyển tiếp này, tuy có nhiều tiến bộ, nhưng cũng
đã bị nhiều chuyên gia xem như lỗi thời vì cùng một kỹ thuật với lò PWR. Mặc
dù có sự chống đối mạnh của đảng xã hội và đảng xanh, chính phủ Pháp vừa
tuyên bố phải đầu tư 3,6 tỷ USD vào lò mẫu EPR (vì không thể đợi lò thế hệ
IV) để lần lượt thay thế, kể từ 2017, những lò PWR đến tuổi phải ngừng hoạt
động. Ta nên đặt câu hỏi tại sao EDF không tiếp tục sử dụng lò PWR tuy đã có
nhiều kinh nghiệm quý báu ?
Lò thế hệ IV :
lò thế hệ IV đang được 100 chuyên viên của 10 nước (Generation IV
International Forum - GIF) nghiên cứu từ hơn ba năm nay. Đó là các nước:
Pháp, Mỹ, Anh, Canada, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Nam Phi, Brésil,
Argentine. 6 kiểu lò tân tiến (3-(4) lò neutron nhanh, 3-(2) lò nhiệt) đã
được lựa chọn. Nếu không gì trở ngại, lò thế hệ IV (có số lượng chất thải
phóng xạ thấp và mức an toàn cao - hai điểm này khoa học không thể giải
quyết hoàn toàn được), đang trong thời kỳ phôi thai, sẽ được xuất hiện sau
năm 2035-2040. Các lò tương lai này có khuynh hướng tiến tới chu kỳ kín
(cycle fermé) nghĩa là các lò phải có khả năng đốt cháy phần lớn chất thải
(lò nhanh) để hạn chế việc xử lý nhiên liệu. Nhật nghiên cứu lò SFR (Sodium
Fast Reactor). Canada lò SCWR (Supercritical Cooled Water Reactor). Pháp lò
MSR (Molten Salt Reactor). Điểm yếu của lò MSR là bị xem như thuộc lò thế
hệ V còn xa vời.
Lò nhiệt độ cao VHTR
(Very High Temperature Reactor): công suất lò
này nhỏ (100 – 300 MW) hiệu suất cao, gần 50% vì chu trình trực tiếp (cycle
direct) (lò PWR 30%). Nhiên liệu được xử dụng tối ưu. Lò VHTR (Hélium
graphite) được nhiều nước (Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Nam Phi) chú
trọng, sẽ có nhiều triển vọng hơn lò PWR.
6/- Năng lượng nhiệt hạch hạt nhân :
Năng lượng nhiệt hạch
hạt nhân (fusion nucléaire) được nghiên cứu từ mấy chục năm nay; tuy có
nhiều tiến bộ khả quan, nhưng vẫn chưa trưởng thành. Nhiên liệu cần thiết
tiềm tàng ở biển : deutérium và tritium (từ isotope hydrogène và lithium).
Kỹ thuật (nhiệt độ 50 triệu °C) còn gặp rất nhiều trở ngại. Dùng tritium
nguy hiểm (tuy đã có kinh nghiệm về bom H - hydrogène) vì bức xạ cao. Cũng
có vấn đề an toàn và môi trường. Công suất lò sẽ rất cao. Dự án ITER
(International Thermonuclear Experimental Reactor) khởi sự năm 1992, trị giá
6 tỷ USD sẽ cần thêm 6 tỷ USD cho việc nghiên cứu trong 30 năm với sự cộng
tác của 1000 chuyên gia. Hiện nay đang có sự tranh dành căng thẳng về địa
điểm xây cất giữa Pháp (Cadarache) và Nhật (Rokkasho-Mura). Cũng như nhiều
kỹ sư và chuyên gia khác, tôi không tin tưởng lắm vào điện nhiệt hạch hạt
nhân. Công nghệ này, nếu thành công, không thể xuất hiện trước 2070.
7/- Môi trường và việc chống hiệu ứng nhà kính :
Tất cả những nhà máy điện
trên thế giới chịu trách nhiệm 1/4 số luợng CO2 được thải lên
trời (24 tỷ tấn năm 2002). Số lượng CO2 phát ra của 1 kWh dầu mỏ
là 891g, khí 427g, và than 978g. Lĩnh vực vận tải xe cộ và công nghiệp có
trách nhiệm lớn hơn.
Nhiều mô hình khí hậu dự
đoán rằng nhiệt độ trung bình thế giới có khả năng tăng lên từ 1,5 đến 6°C
từ đây đến chân trời 2100. Đến đó mực nước biển cũng có thể cao hơn từ 10
đến 90 cm. Tuy vậy, một số thăm dò ý kiến gần đây cho biết là phần đông các
nước chấp nhận hậu quả nguy cơ khí hậu hơn là tai biến hạt nhân. Vài lò hạt
nhân ở Việt Nam, không có nghĩa lý gì trong việc chống hiệu ứng nhà kính,
trước khối lượng CO2 của Trung Quốc.
Về phần nước Mỹ, có một
trách nhiệm rất lớn về CO2 phát ra, nhưng vì coi nhẹ vấn đề môi
trường, họ đã từ chối (như Nga và Trung Quốc) việc xác nhận nghị định thư
Kyoto (1997) để chống hiệu ứng nhà kính. Với chỉ 5% dân số thế giới, Mỹ tiêu
thụ một cách phung phí và vô tư 25% năng lượng của toàn cầu. Mỗi người
dân Mỹ trung bình sử dụng trên 8 tep (tấn dầu), tức là 18 lần con số 0,45
tep của một người dân Việt Nam. Mỗi người Pháp được 4,4 tep. Nhiều công
ty ở các nước có công nghiệp mạnh, vì quyền lợi riêng, muốn xuất cảng các
lò, đề cao quá mức vai trò điện hạt nhân trong việc chống hiệu ứng nhà kính.
Hậu quả chiến tranh còn
đem lại đau thương cho quê hương ta (nạn nhân chất độc màu da cam chẳng
hạn), môi trường của ta càng ngày càng bị ô nhiễm phá hoại, sinh ra bệnh
tật. Với rác thải mỗi ngày chồng chất lên nhau, ta chưa đủ điều kiện tài
chính để giải quyết, tội gì phải đón rước thêm chất thải phóng xạ vô cùng
nguy hiểm, không biết lưu giữ ở đâu. Không có một lý do gì cho phép chúng
ta tặng món quà này cho con cháu và hàng trăm thế hệ sau.
8/- Kinh tế và tài chính :
Năng lượng và môi
trường, hai lĩnh vực vô cùng quan trọng, có tầm vóc quốc tế, cần kinh phí
rất nhiều (hàng tỷ USD) và thời gian rất dài (hàng chục năm). Chiến lược
(phải nhìn xa chân trời nửa thế kỷ; ở Grenoble nhóm năng lượng chúng tôi
đang nhìn đến 2025) của mỗi nước tùy thuộc thị trường thế giới chứ không
phải trong phạm vi thu hẹp của một vùng. Hàng trăm, hàng ngàn tỷ USD đã đổ
dồn vào lĩnh vực hạt nhân này mà tương lai vẫn không sáng tỏ, sau hơn nửa
thế kỷ.
Công nghiệp hạt nhân của
Pháp đã thu hút đầu tư tổng cộng gần 200 tỷ USD. Chính quyền đã huy động
lực lượng vào tất cả các khâu của chu trình (cycle) hạt nhân. Kinh phí dành
cho các công trình nghiên cứu hạt nhân, hàng không vũ trụ, chiếm gần 80%
ngân khoản, nên không cho phép ngành năng lượng tái tạo tiến bộ mạnh suốt
30 năm nay. Giá thành kWh điện hạt nhân của EDF sự thật không rẻ như người
ta tưởng, nếu kể tất cả những thông số, những kinh phí liên hệ đến việc
nghiên cứu, thời gian vận hành, xử lý nhiên liệu, lưu giữ chất thải, tháo
gỡ (mỗi nhà máy tốn ít nhất 300 triệu USD), môi trường, an toàn, bảo hiểm
.vv... Đối với các nước đang phát triển như ta, giá thành kWh khó có thể
kinh tế được. Nếu lò hay bị trục trặc, không vận hành đủ 6000h mỗi năm, thì
năng lượng tái tạo sẽ có đủ khả năng cạnh tranh.
B - Những lý do trong nước :
1/- Đến 2030, nước ta không có vấn đề về cân bằng năng
lượng:
1.1/- Nhu cầu :
Đầu năm 2003, tổng công
suất đặt ở Việt Nam được 8740 MW. Tổng sản lượng điện là 35,7 TWh, phân
chia như sau : thủy điện 18,5 TWh (51,7%), tua bin khí 5,7 TWh (16%), nhiệt
điện than 4,9 TWh (13,6%). Đầu năm 2004 công suất đỉnh là 7366 MW (tăng
trưởng 14,7%), sản xuất 39,36 tỷ kWh, bán 34,84 tỷ kWh. Với tốc độ tăng
trưởng trung bình 11%/năm, theo kế hoạch dài hạn số 5 của Tổng công ty Điện
lực Việt Nam (TCTĐLVN), nước ta sẽ cần 200 tỷ kWh năm 2020 (1880
kWh/người.năm).
Gần đây, VNLNTVN cho hay
là nước ta sẽ có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Ninh Thuận vào năm
2017-2020 với 2 lò (2x1000 MW) trị giá khoảng 4 tỷ USD (công suất 1000 MW
tương đối lớn đối với hệ thống điện của ta) Lý do chính là đến năm 2020,
trong số 200 tỷ kWh cần thiết, ta thiếu 35 tỷ kWh (con số đưa ra năm ngoái
là 65 tỷ kWh), khả năng cung cấp của các nguồn trong nước (than, khí, thủy
điện, năng lượng mới) chỉ được 165 tỷ kWh. Câu hỏi đầu tiên là tại sao không
đặt mua luôn 6 lò vì 1 lò 1000MW chỉ sản xuất mỗi năm nhiều nhất là 6 tỷ
kWh. Ta sẽ dùng nhiên liệu gì để cung cấp 23 tỷ kWh còn thiếu ?
Cũng theo VNLNTVN, năm
2030 nhu cầu sẽ lên đến 327 tỷ kWh. Không lẽ nào, nước ta sẽ phải xây dựng
27 lò hạt nhân (gần một nửa của Pháp) hay sao (trị giá ít nhất 54 tỷ USD).
Tức là thêm 25 lò trong 10 năm từ 2020 đến 2030. Cả một công nghiệp hạt nhân
đồ sộ?
Riêng về nhu cầu điện
lực, theo cá nhân tôi, các con số ghi trên quá lạc quan. Ta không thể tiếp
tục ngoại suy mãi và áp dụng tốc độ tăng trưởng lũy thừa như thời gian qua
với tốc độ 14-15% mỗi năm. Kinh tế và tài chính quốc gia không thể nào theo
kịp, đó là chưa kể khâu sử dụng và tiêu thụ điện, phải được đầu tư đúng
nhịp. Đường biểu diễn lũy thừa với một tốc độ cao như thế có ngày làm “nổ
hệ thống” như một bong bóng thổi phồng quá mạnh. Năm 1970, EDF cũng đã dự
trù sai lầm mức tiêu thụ của Pháp, tưởng sẽ lên đến 1000 TWh năm 2000,
nhưng sự thật, nhu cầu ngày nay chưa quá 550 TWh! Ta cũng nên cẩn thận để
tránh sự trang bị quá mức, không khéo lại dư điện mà không biết !
Từ 1945 đến 1973 (cơn
khủng hoảng dầu mỏ đầu tiên), phần lớn các nước giàu mạnh có nhịp độ tăng
trưởng mỗi năm là 7%, có nghĩa là cứ 10 năm phải xây cất thêm nhà máy sản
xuất và hệ thống điện để có công suất gấp đôi (ngành điện, xưa kia gọi là
định luật cứ 10 năm gấp đôi một lần). Từ 30 năm nay “định luật” này không
còn giá trị nữa. Thời kỳ phung phí năng lượng và điện lực đã qua.
Mặc dù nhu cầu điện lực
Việt Nam còn lớn, trong tương lai, tốc độ tăng trưởng cũng sẽ hạ dần,
trung bình 7% mỗi năm và từ từ sẽ xuống nữa, đặc biệt là nhờ hiện tượng bão
hòa. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,3%/năm (con số còn lên xuống) và tốc
độ tăng trưởng điện lực 11% thì hệ số đàn hồi (coefficient d’élasticité =
(ΔE/E)/(ΔPIB/PIB)) của Việt Nam là 1,5, còn quá cao (E ở đây là điện thay vì
năng lượng - PIB, tổng sản phẩm quốc nội). Con số này chứng tỏ hiệu suất
năng lượng của ta (efficacité énergétique) còn rất kém. Với chính sách tiết
kiệm và xử lý năng lượng hợp lý, ta có trách nhiệm phải hạ dần hệ số đàn
hồi, thấp chừng nào hay chừng ấy (dưới 1 càng sớm càng tốt). Hệ số đàn hồi
của Pháp hiện nay là 0.5. Theo giả thuyết của VNLNTVN, từ 2010 đến 2020 với
tốc độ tăng trưởng điện lực 12-14%, kinh tế 7,2-8%, hệ số đàn hồi là 1,73 !
Hệ số đàn hồi không phải
là một hằng số mà bắt buộc ta phải chấp nhận mãi ! Ta không thể thản nhiên
dựa vào “hằng số” này để tính tốc độ tăng trưởng điện lực. Như thế có nghĩa
là ta phung phí năng lượng, coi nhẹ vấn để tiết kiệm và hiệu suất năng lượng
(thất thoát của hệ thống sản xuất, truyền tải và phân phối điện lực của ta
rất cao - hệ số công suất lại thấp). Mặt khác, tốc độ tăng trưởng PIB cũng
không thể theo 1 đường biểu diễn lũy thừa mãi. Với tốc độ 7%, cứ 10 năm hệ
thống kinh tế cũng phải to lớn gấp đôi, làm sao theo kịp. Một cháu bé 10
tuổi cao 1,10m, nếu cứ mỗi năm cao thêm 7%, thì lúc 20 tuổi cháu không ra
lọt cửa nhà được.
Đem so sánh số kWh trên
đầu người với các nước láng giềng chỉ có tính cách bề mặt, không diễn tả ý
nghĩa sâu đậm. Trái lại, nên tán dương những nước, với ít kWh, ít bêtông
cốt sắt, ít xe hơi và xí nghiệp gây ô nhiễm, ít công trình đồ sộ, mà thường
dân vẫn có mức sống cao với sức khỏe dồi dào và kiến thức rộng.
Mới gần đây ở Trung Quốc,
Thủ tướng nước này tuyên bố ở quốc hội là phải thay đổi chiến lược về tốc dộ
tăng trưởng kinh tế, để đối phó với tình hình quá căng thẳng ở các lĩnh vực
năng lượng môi trường và xã hội. Mặc dù có sự phản đối của rất nhiều đại
biểu quốc hội, công trình thủy điện đồ sộ Trois Gorges, có tính cách khiêu
khích tạo hóa, vẫn được xây dựng, bất chấp rủi ro và tai biến lớn có thể xảy
ra. Chính phủ đang tìm mọi cách để hạ số lượng dầu mỏ nhập cảng ngày càng
tăng (mức tiêu thụ hiện nay chỉ thua Mỹ) Tốc độ PIB 9,1% năm 2003 sẽ được hạ
xuống 7% năm 2004. Trung Quốc vì đã đầu tư sản xuất quá trớn, bây giờ chủ
trương phát triển cân bằng lâu dài, chú trọng đến chất lượng nhiều hơn,
khuyến khích tiết kiệm, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Thời kỳ
chạy đua một cách mù quáng và hỗn độn theo tốc độ tăng trưởng điện lực và
kinh tế đã chấm dứt.
1.2/- Tiềm năng
thiên nhiên của đất nước :
Ngược lại, VNLNTVN quá bi
quan về các nguồn năng lượng thiên nhiên của nước nhà. Nếu chúng ta biết sử
dụng tối ưu năng lượng, hợp lý, có hiệu quả, nếu chúng ta chủ trương triệt
để tiết kiệm năng lượng ở mọi lĩnh vực (lẽ cố nhiên không phải dễ vì cần
nhiều tiền và ý chí) thì tiềm năng năng lượng cổ điển nội địa có thể đáp ứng
nhu cầu đến chân trời 2030. Khi cần, thì nhập cảng nhiên liệu hay mua điện
các nước láng giềng (thủy điện Lào chẳng hạn) thì có sao đâu. Xem trường hợp
Đức, Mỹ, Nhật, Pháp, Trung Quốc, ... chẳng hạn.
2/- Nhân sự :
Nước ta tuy có một đội
ngũ vài trăm kỹ sư và chuyên viên có trình độ cao trong ngành hạt nhân nhưng
vẫn chưa đủ. Lò phản ứng Đà Lạt đã cho ta nhiều kinh nghiệm quý báu nhưng nó
chỉ là một lò nghiên cứu loại nhỏ. Một nhà máy điện hạt nhân có công suất
lớn rất phức tạp, khai thác và quản lý khó hơn nhiều. Với 58 lò, EDF phải
huy động 20 ngàn nhân viên (trong số 125 000) của công ty và 20 ngàn người
thuê qua 600 xí nghiệp ở ngoài. Nếu xây dựng nhiều nhà máy ta phải gởi đi tu
nghiệp ở ngoại quốc hàng ngàn nhân viên chuyên môn. Vì không có triển vọng,
từ nhiều năm nay, các trường đại học trên thế giới ngày càng vắng bóng sinh
viên theo ngành hạt nhân.
3/- Cơ cấu công nghiệp :
Phải nhìn nhận rằng công
nghiệp nhẹ và nặng của ta chưa có cơ cấu vững chắc, thích hợp với công nghệ
hạt nhân tinh xảo, vì tự động hóa (robotique). Việc khai thác và tu bổ sẽ
gặp nhiều cản trở, rất tốn kém vì ta thiếu kinh nghiệm, máy móc phụ tùng và
chuyên viên.
4/- Cơ sở pháp lý :
Lĩnh vực hạt nhân cần có
những cơ sở và văn bản pháp lý vững chắc và nghêm khắc ở tất cả mọi khâu. Ta
chưa có ý niệm rõ ràng về tầm quan trọng của nó đối với việc áp dụng những
tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như việc bảo vệ chu đáo an toàn cho dân chúng.
5/- Độc lập, an ninh năng lượng :
Làm điện hạt nhân (với sự
kiểm soát thường trực của vệ tinh Mỹ) lẽ cố nhiên ta sẽ phải lệ thuộc lâu
dài với ngoại quốc về các lĩnh vực kỹ thuật (máy móc tự động và phụ tùng),
nhiên liệu (238U nhất là Uranium giàu 3,5% 235U), xử
lý nhiên liệu và chuyên viên của nhiều ngành. Mất độc lập, làm sao có an
ninh năng lượng.
6/- Xã hội và chính trị :
Bất cứ ở nước dân chủ
nào, ép buộc dân chúng chấp nhận sự xây cất nhà máy điện hạt nhân trong làng
trong tỉnh họ không phải dễ. Nhiều nước hối tiếc quá trễ vì không trưng cầu
dân ý trước khi xây cất, làm hao tốn thì giờ và tiền bạc khi tình thế bắt
buộc phải rút lui. Philippines đã có can đảm bỏ cuộc mặc dù nhà máy điện hạt
nhân đã xây cất gần xong, làm tốn vài tỷ USD. Nếu rủi ro có tai biến, ngành
du lịch sẽ bị tê liệt tức khắc, với hậu quả kinh tế ác liệt hơn bệnh truyền
nhiễm SRAS (Syndrome Respiratoire Aigu Sévère) hay dịch cụm gà vừa qua.
C - Giải pháp đối phó :
Năng lượng tái tạo,
tiết kiệm và hiệu suất năng lượng.
Chỉ trong vòng 2 thế kỷ,
nhân loại đã tiêu thụ một cách phung phí, không biết tiết kiệm nguồn năng
lượng hóa công (than, dầu mỏ, khí) mà tạo hóa, nhờ mặt trời, đã cặm cụi gầy
dựng qua hàng trăm triệu năm, tập trung và dự trữ ở một số mỏ (énergie de
stock). Trong vòng ba bốn chục năm tới, dầu, khi kinh tế sẽ bắt đầu khô cạn.
Nhân loại nên triệt để khai thác ngay từ bây giờ nguồn năng lượng tái tạo
(không tốn tiền nhiên liệu), tức là nguồn thông lượng (énergie de flux).
Ngày xưa chúng ta dùng năng lượng mặt trời một cách gián tiếp, ngày nay
chúng ta nên tiếp tục sử dụng mặt trời, nhưng một cách trực tiếp hơn. Năng
lượng mặt trời do sự chuyển hóa hydrogène ra hélium, cũng là năng lượng
nhiệt hạch hạt nhân. Tiềm năng bức xạ mặt trời vô cùng to lớn - 173.109
MW - bằng 20 triệu lần tổng công suất đặt các nhà máy điện Việt Nam
hiện có. Xin nhớ rằng, trên vũ trụ, năng lượng chỉ có 3 nguồn gốc chính :
mặt trời, địa nhiệt và hạt nhân.
Đến năm 2030, bài toán sẽ
có 3 giải pháp : năng lượng tái tạo (mặc dù có vấn đề số lượng, môi trường
và kinh tế), tiết kiệm - hiệu suất năng lượng và điện hạt nhân. Hai giải
pháp đầu là thích hợp cho những nước đang phát triển, vì điều kiện kinh tế,
xã hội, khác hẳn với những nước có công nghiệp mạnh. Nếu trong tương lai,
tiến bộ khoa học làm các nhà máy chạy than ít ô nhiễm môi trường hơn, thì
điện than sẽ có triển vọng, vì dự trữ than rất lớn trên toàn cầu.
Nước Đức, trước khi
tuyên bố sẽ đóng cửa các lò hạt nhân, đã triệt để khai thác năng lượng mặt
trời và gió (cũng do mặt trời). Về điện gió, Đức hiện đứng hàng đầu với công
suất đặt lên quá 15 000 MW, tiếp theo là Tây Ban Nha (4 830 MW), Mỹ (4 685
MW), Đan Mạch (2 880 MW), Ấn Độ (1 702 MW).
Một nguồn năng lượng rất
quan trọng mà ta ít quan tâm, là “tiết kiệm năng lượng”. Năng lượng quý
báu nhất là năng lượng mà chúng ta không sử dụng. Chúng ta cần đặc biệt chú
trọng đến những “mô hình cầu” hơn là mô hình cung như trọn thời gian qua.
Đừng quên rằng công nghiệp ngày nay, nhờ các ngành tin học, điện tử, viễn
thông, mỗi năm tiêu thụ năng lượng càng ít hơn.
Nên áp dụng chính sách
sản xuất năng lượng phân cấp (Production d’Energies Décentralisées) và
khuyến khích khai thác triệt để năng lượng tái tạo tại chỗ như thủy điện
nhỏ, gió, mặt trời, biomasse, địa nhiệt, lợi cho nông thôn vì đem lại công
ăn việc làm nhiều hơn là xây cất lò hạt nhân. Lẽ cố nhiên, giá thành kWh
hiện nay khá cao, nhưng từ từ sẽ có điều kiện cạnh tranh được với các
nguồn năng lượng cổ điển và hạt nhân. Sử dụng năng lượng hợp lý cũng có
nghĩa là dùng nhiên liệu đúng chỗ, đúng lúc. Có trường hợp nên trực tiếp sử
dụng than, củi, dầu mỏ, khí, không cần phải qua nhà máy điện, tổn thất cao
(cơ lý các nô).
Dù muốn dù không, tất cả
các nước trên thế giới phải chú trọng, ngay từ bây giờ, đến việc khuyếch
trương mạnh năng lượng tái tạo và triệt để áp dụng chính sách tiết kiệm và
xử lý tối ưu năng lượng để tăng gia hiệu suất. Nhân loại phải lợi dụng “giai
đoạn chuyển tiếp năng lượng” từ đây đến 2030 để thay thế bởi nguồn thông
lượng, trong những điều kiện kinh tế, dầu mỏ, khí, than. Những cường quốc
như Mỹ, Anh, Đức lần lượt đều thay đổi chiến lược đến chân trời 2050 theo
chiều hướng nói trên.
D - Kết luận :
Nhiều chuyên gia, cho
rằng tương lai của công nghiệp hạt nhân không thể sáng tỏ trước những năm
2020, vì về phương diện kỹ thuật, nó tùy thuộc ở độ tin cậy đối với các lò
thế hệ IV (2035-2040) và nhất là đối với các lò VHTR sẽ xuất hiện sớm hơn.
Tôi hy vọng rằng các cơ quan chức năng trong nước, sẽ hết sức thận trọng;
chờ đợi 15 năm nữa để có đủ thời gian nghiên cứu kỹ lưỡng sự biến chuyển
của thị trường năng lượng quốc tế và chiều hướng ngành điện hạt nhân,
trước khi trình lên chính phủ quyết định. Chúng ta nên rút kinh nghiệm từ
các nước giàu mạnh, không nên vội vã, mất thì giờ và phí tiền. Tại sao phải
tự ràng buộc vào một lĩnh vực còn bị khủng hoảng trầm trọng. Không thấy lợi
mà chỉ thấy hại trước mắt.
Làm điện hạt nhân sẽ đưa
nước nhà vào một con đường bế tắc với bao chướng ngại vật. Kẹt ít nhất 100
năm (vì phải chờ 50 năm mới tháo gỡ đươc), không có lối thoát như đã lỡ vào
xa lộ đầy sương mù. Trong lúc họ đi ra ta lại đi vào, họ đi tới ta lại đi
lui. Nên nhớ rằng giới khoa học đã đặt câu hỏi có nên tiếp tục một kỹ thuật
già nửa thế kỷ (kỹ thuật PWR xuất hiện cùng một lúc với tầu ngầm Nautilus
của Mỹ năm 1954) và cho rằng việc sử dụng chất phân rã (matière fissile) để
làm điện không phải là một thượng sách (Tầu sân bay mà Pháp – Anh sắp thiết
kế chung sẽ chạy bằng diesel thay vì hạt nhân).
Phát triển điện hạt nhân
không góp phần tăng cường tiềm lực khoa học công nghệ quốc gia như có
người tưởng. Chỉ là một phần của ngành năng lượng nhưng nó sẽ thu hút hết
nguồn tài chính. Ta sẽ không còn đủ sức để đầu tư vào các lĩnh vực then
chốt: giáo dục, nghiên cứu (ưu tiên số 1), y tế và xã hội (nếu hy sinh
được hai lò, trị giá 4 tỷ USD, mỗi lĩnh vực trên sẽ được 1 tỷ thì quý biết
là bao). Lấy ví dụ điển hình: ở Trung tâm nghiên cứu hạt nhân (Commissariat
à l’Energie Atomique) Grenoble, mà tôi được biết rõ (vì đã có dịp tu nghiệp
ở đây), người ta đã biết chuyển hướng sớm, đổi sang nghiên cứu các lĩnh
vực mới, như micro (10-6 m) điện tử từ lâu và gần đây nano (10-9
m) công nghệ (50 ngàn lần nhỏ hơn sợi tóc!).
Tiện đây, tôi xin mạn
phép trình bày vài con số để đọc giả suy nghiệm. Để thắng chiến tranh kinh
tế thế giới, các nước Mỹ, Cộng đồng Âu châu, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam
Triều Tiên, Úc đang thi đua tăng ngân sách nghiên cứu quốc gia. Năm 2001,
Trung Quốc với 60 tỷ USD chiếm hàng thứ ba. Nước này đã mở chiến lược hấp
dẫn đón tiếp nhân tài, phần lớn từ Mỹ trở về ngày càng đông (18 000 chuyên
viên trong năm 2002).
Trong 3 năm qua, Nhật
dành được 3 giải thưởng Nobel về lý, hóa. Mục đích của Nhật là đoạt thêm 20
giải thưởng Nobel từ đây đến 2050. Mỹ có chiến lược thu hút sinh viên ưu tú
ngoại quốc. Trong số 600 000 sinh viên hiện ở Mỹ, Á châu dẫn đầu, theo thứ
tự : Ấn Độ (75 000), Trung Quốc (65 000), Nam Triều Tiên (52 000), Nhật
(46 000), Đài Loan (28 000). Cũng vì ngân sách eo hẹp, Pháp hiện đang trải
qua một cơn khủng hoảng rất lớn trong giới nghiên cứu khoa học.
Lẽ cố nhiên, nước ta
không thể cùng một lúc, đầu tư vào tất cả mọi ngành, thi đua với các nước
có công nghiệp mạnh. Cần tránh những sai lầm của họ và chỉ chú trọng vào một
số ngành đòi hỏi nhiều chất xám, ít tốn kém mà có nhiều triển vọng.
Trong bối cảnh toàn cầu
hóa, vô lương tâm, nhiều công ty lớn ngoại quốc, lạm dụng khẩu hiệu “phát
triển bền vững” (Hội nghị Johannesburg 09/2002), chủ yếu là bán máy móc, kỹ
thuật “để tăng lãi lâu dài” mà không cần biết đến hậu quả kinh tế xã hội và
môi trường của những nước đang phát triển. Nhiều nhóm thế lực (lobby) quốc
tế gây sức ép với chính phủ và các cơ quan trách nhiệm của họ, để đề cao vai
trò điện hạt nhân, bằng cách phổ biến những tin tức không chính xác.
Nếu xu thế là không thể
cưỡng lại được toàn cầu hóa, thì một nước đang phát triển như ta cũng chỉ
nên chấp nhận toàn cầu hóa này với tất cả sự thận trọng và dè dặt. Không thể
chấp nhận việc các nước giàu mạnh tiếp tục bóc lột hay lấn ép nước nghèo.
Chế tạo lò hạt nhân thiếu an toàn, để bán cho các nước nghèo (biết đâu lại
có hàng tồn kho (solde)?), rồi kệ cho họ mắc kẹt, là một hành vi vô trách
nhiệm. Những gì có lợi cho một số cường quốc không phải cũng có lợi cho các
nước đang phát triển. Và có những con đường tiến lên phát triển mà không cứ
phải bắt chước giống hệt như con đường mà một số nước đã trải qua.
Grenoble, 25/ 03/ 2004
|