Những bài cùng tác giả
LTS.Thực chất hoạt động, vai trò và sức mạnh của các tập đoàn
kinh tế nhà nước ra sao? Đó là một trong những câu hỏi đang nóng
trong dư luận những ngày này. Các tập đoàn kinh tế nhà nước của
chúng ta được thành lập khi chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý tương
ứng và hoạt động không hiệu quả - Đó là cảnh báo được đưa ra từ
hơn bốn năm nay của các chuyên gia kinh tế.
Sự đổ vỡ (thực chất là phá sản) của Vinashin với khoản nợ có tin
là tới 120 nghìn tỷ đồng (không phải 86 nghìn tỷ đồng như thông
báo lúc đầu) cùng hàng loạt quan chức cao nhất của tập đoàn bị
khởi tố, bắt tạm giam đã quá đủ của một lời cảnh báo. Do đó đã
đến lúc cần một cái nhìn thực chất về vấn đề các tập đoàn kinh
tế nhà nước theo đúng tinh thần mà ngay từ khi khởi xướng công
cuộc đổi mới đất nước (Đại hội Đảng lần thứ VI- 1986) Đảng cộng
sản Việt Nam đã đề ra. Đó là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật và nói rõ sự thật. Trên tinh thần đó, báo điện tử
Tổ Quốc giới thiệu bài viết của GS-TS Nguyễn Quang A nhằm tham
góp những ý kiến mang tính đề xuất để các cấp có thẩm quyền và
bạn đọc rộng đường tham khảo, suy ngẫm. Rất mong nhận được ý
kiến của các nhà nghiên cứu và bạn đọc về chủ đề này.

Sự đổ vỡ (thực chất là phá sản) của Vinashin đã quá đủ của một
lời cảnh báo
Kỳ I: Vai
trò của khu vực kinh tế nhà nước & Vài sự thực
Bài báo này của tôi cập nhật nội dung của một báo cáo đã được
trình bày từ vài năm qua mà nội dung của nó vẫn còn rất thời sự.
Vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước luôn chiếm tỷ lệ cao
(trên dưới một nửa) trong tổng đầu tư xã hội nhưng tỷ lệ đóng
góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37-39% và tạo công ăn việc
làm cho khoảng 4,4% của tổng số lao động. Suốt hàng chục năm
khu vực kinh tế nội địa, mà có lẽ chủ yếu là khu vực kinh tế nhà
nước, luôn nhập siêu ở mức cao, khu vực đầu tư nước ngoài lại
xuất siêu, nói cách khác các doanh nghiệp nhà nước đã tiêu dùng
và đầu tư hơn mức nó tạo ra rất nhiều trong thời gian dài. Sự
kém hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước là một trong những
nguyên nhân chính gây bất ổn kinh tế vĩ mô, tăng lạm phát. Đấy
là những con số thống kê biết nói về thành tích của khu vực kinh
tế giữ vai trò “chủ đạo”.
Đã đến lúc phải nghiêm túc nhìn nhận lại vai trò “chủ đạo” của
khu vực kinh tế nhà nước. Ý tưởng về có các doanh nghiệp quốc
doanh, các tập đoàn mà nhà nước đầu tư và bổ nhiệm các vị trí
lãnh đạo để làm công cụ cho Nhà nước “điều khiển” là một cám dỗ
quyền lực hấp dẫn. Song liệu đó đã là sự lựa chọn khôn ngoan
chưa khi Nhà nước không phải lúc nào cũng điều khiển được chúng
(vấn đề về người ủy thác, người chủ (nhà nước) và những người
được ủy thác).
Nên tận dụng cơ hội khó khăn hiện nay để xem xét lại tận gốc rễ
thực chất vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước để đẩy nhanh
việc cải tổ chúng.
I. Vai trò của khu vực kinh tế nhà nước
Vai trò của khu vực kinh tế nhà nước đã có những thay đổi trong
quan niệm của Đảng CSVN và được ông Trần Đức Nguyên tóm tắt lại
như sau:
Đối với kinh tế quốc doanh,
nhận thức về vị trí của khu vực kinh tế này được điều chỉnh từng
bước trong tiến trình đổi mới. Đại hội VI (12-1986) gắn vai trò
chủ đạo của kinh tế quốc doanh với việc “chiếm tỷ trọng lớn
cả trong sản xuất và lưu thông”; Hội nghị Trung ương 6 khoá
VI (3-1989) vẫn đặt quốc doanh vào vị trí chủ đạo, nhưng “không
nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề”. Vào
đầu thập kỷ 90 (thế kỷ trước), kinh tế quốc doanh đang nắm vai
trò chi phối nền kinh tế với 12 nghìn xí nghiệp (toàn bộ vốn đều
thuộc Nhà nước), chiếm tỷ trọng lớn và giữ những vị trí then
chốt trong các ngành phi nông nghiệp.
Cương lĩnh 1991
chỉ nêu gọn “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế”. Chiến lược 1991
nói rõ hơn : “Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển
trong những ngành và lĩnh vực then chốt, nắm những doanh nghiệp
trọng yếu và đảm đương những hoạt động mà các thành phần khác
không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư kinh doanh... Những cơ
sở không cần giữ hình thức quốc doanh thì Nhà nước chuyển hình
thức kinh doanh, hình thức sở hữu hoặc giải thể, đồng thời có
chính sách giải quyết việc làm và đời sống cho người lao động”.
Quan điểm này một mặt tạo tiền đề cho sự phát triển khu vực kinh
tế ngoài nhà nước, nhất là kinh tế tư nhân; mặt khác, không coi
vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh là điều mặc nhiên mà phải
gắn với việc “sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản
lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần
kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một
công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các xí nghiệp quốc doanh
hoạt động theo nguyên tắc tự chủ kinh doanh, tự trang trải và
tích luỹ trong môi trường hợp tác, cạnh tranh; Nhà nước chỉ tài
trợ có thời hạn cho một số cơ sở thật sự cần thiết”.
Chủ trương đó đã thúc đẩy việc đổi mới khu vực kinh tế quốc
doanh, giảm mạnh số xí nghiệp,
tiến hành cổ phần hóa và đổi mới cơ chế, nâng cao tính tự chủ
của xí nghiệp quốc doanh. Tuy nhiên, khu vực quốc doanh chưa
thật sự đảm nhiệm được vai trò chủ đạo vì nhìn chung kém hiệu
quả hơn các khu vực khác, vẫn còn dựa dẫm, ỷ lại vào các chính
sách ưu đãi của Nhà nước dưới nhiều hình thức và còn bị ràng
buộc bởi cơ chế “chủ quản” của cơ quan hành chính.
Từ thực tế đó, để định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ, kiểm soát được
các hoạt động trong nền kinh tế, Nhà nước phải sử dụng toàn bộ
sức mạnh kinh tế của mình, không chỉ có các doanh nghiệp nhà
nước, mà còn có các nguồn lực quan trọng khác, như ngân sách nhà
nước, vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác (ngoài doanh
nghiệp nhà nước), dự trữ nhà nước, tài nguyên quốc gia, đặc biệt
là đất đai. Với nhận thức đó, Đại hội VIII (6-1996) xác định vai
trò chủ đạo đối với nền kinh tế không chỉ đặt vào các doanh
nghiệp nhà nước mà dựa vào toàn bộ kinh tế nhà nước bao gồm đẩy
đủ các nguồn lực nêu trên. Quan điểm này điều chỉnh sự đánh giá
quá mức về vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy
mạnh hơn công cuộc cải cách các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cho
đến nay, công cuộc cải cách này vẫn chưa đi kịp yêu cầu của cuộc
sống, cả về mặt sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu, đổi mới quản trị
doanh nghiêp cũng như về cơ chế quản lý của Nhà nước đối với
doanh nghiệp.
Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng CSVN khoá IX về các
Văn kiện Đại hội X của Đảng CSVN có nêu: “Phát triển nền kinh tế
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân”. Trong Bản trình bày của đoàn Chủ tịch về ý kiến
thảo luận của các đại biểu đối với các văn kiện Đại hội X của
Đảng CSVN có giải thích về vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà
nước như sau: “…
vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở
số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỉ trọng đóng góp GDP cao
hay thấp mà ở chỗ, đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều
kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển”. Trong
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN khóa IX ngày 10
tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2006 – 2010 (gọi là Báo cáo phát triển Kinh tế-Xã
hội),
cụm từ “vai trò chủ đạo”
xuất hiện 1 lần duy nhất trong “vai trò chủ đạo của ngân sách
trung ương”. Nghị quyết số 21-NQ/T.Ư Hội nghị lần thứ 6 BCHTW
Đảng CSVN khóa X "về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã nhiều lần nhắc lại “vai
trò chủ đạo” của kinh tế nhà nước.
Ở đây có sự chưa rõ ràng về khái niệm: khu vực kinh tế nhà nước
nghĩa là gì? Nó có đồng nghĩa với khu vực của các doanh nghiệp
nhà nước không? Có vẻ nó rộng hơn, như nêu ở trên nhưng cụ thể
là gì thì chưa được nêu một cách tường minh. Cũng trong báo cáo
phát triển kinh tế-xã hội có nói: “khu
vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới và chiếm
38,4% GDP, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung
hơn vào những lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế”.
Nếu hiểu theo nghĩa này thì gần như khu vực kinh tế nhà nước
đồng nhất với khu vực các doanh nghiệp nhà nước. Tuy còn có
những điểm chưa rõ, nhưng người ta vẫn hiểu các doanh nghiệp nhà
nước có “vai trò chủ đạo”. Báo điện tử ĐCSVN ngày 2-4-2008 khẳng
định trong khó khăn của nền kinh tế hiện nay, thì “đây là lúc
khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước”.
Tuy đã được giải thích, “vai
trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số
lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỉ trọng đóng góp GDP cao hay
thấp” nhưng chắc chắn những chỉ số như vậy cũng quan trọng trong
“vai trò chủ đạo” ấy. Chúng ta hãy xem các con số nói lên điều
gì.
II. Vài sự thực
1.
Vốn đầu tư,
vốn kinh doanh và tài sản cố định
a) Vốn đầu tư
Hình 1. Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội phân
theo thành phần kinh tế
Đơn vị: Tỷ đồng
Nguồn:
Trung tâm Thông tin và dự báo, MPI.8
Tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2007 theo giá
thực tế ước tính đạt 461,9 nghìn tỷ đồng, trong đó vốn khu vực
Nhà nước 200 nghìn tỷ đồng, chiếm 43,3% tổng vốn;
vốn khu vực ngoài Nhà nước 187,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,7% ;
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 74,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16% và
tăng 17,1%
Có thể nói, số vốn đầu tư huy động hàng năm chiếm tỷ trọng cao
trong GDP nhưng chủ yếu của khu vực kinh tế nhà nước.
b) Vốn kinh doanh
Theo một nghiên cứu mới đây của Viện Quản lý Kinh tế Trung ương
(CIEM), tổng số vốn kinh doanh (theo giá ghi sổ) của doanh
nghiệp ở Việt Nam đã tăng nhanh trong thời gian qua; và tổng số
vốn năm 2006 là 3062,7 nghìn tỷ đồng, tăng gấp hơn 3 lần so với
năm 2000. Về thành phần kinh tế, thì trong cùng thời gian, số
vốn của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã tăng gần 2,4 lần (từ
khoảng 670 ngàn tỷ đồng lên 1601 ngàn tỷ đồng); số vốn của doanh
nghiệp tư nhân trong nước tăng khoảng 8,7 lần, từ 98,4 ngàn tỷ
lên 857 ngàn tỷ VNĐ. Số vốn của doanh nghiệp FDI tăng lên khoảng
2,6 lần, từ 229,8 lên 604,6 ngàn tỷ VNĐ. Như vậy, đến năm
2006, tuy số lượng DNNN giảm mạnh, số vốn của DNNN vẫn lớn gần
gần 2 lần số vốn của doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Cơ cấu vốn của doanh nghiệp theo thành phần kinh tế cũng đã thay
đổi đáng kể. Tỷ trọng vốn kinh doanh của DNNN đã giảm xuống từ
khoảng 67% vào năm 2000 xuống còn khoảng 53% năm 2006; tỷ trọng
của doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI tăng lên tương ứng
từ khoảng 10 và 23% vào năm 2000 lên 28 và 19,7% năm 2006.
Như vậy, DNNN vẫn tiếp tục nắm giữ hơn ½ tổng số vốn của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Hình 2

Nguồn:
báo cáo CIEM
c) Tài sản cố định
Về giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp, thì tổng giá trị
tài sản cố định của doanh nghiệp đã tăng lên 3,51 lần trong thời
kỳ 2000-2006, trong đó DNNN tăng hơn 3,53 lần, doanh nghiệp tư
nhân trong nước tăng hơn 8,8 lần và doanh nghiệp FDI tăng gần
2,3 lần. Tuy vậy, giá trị tăng thêm về tài sản cố định của
DNNN trong thời kỳ nói trên vẫn chiếm hơn một nửa số giá trị
tăng thêm về tài sản cố định của các doanh nghiệp và cao gấp hơn
2 lần so với doanh nghiệp tư nhân trong nước như có thể thấy ở
bảng dưới đây:
Bảng 1 Tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn 31-12 hàng
năm (Tỷ đồng)
|
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Tổng số |
411713 |
476515 |
552326 |
645505 |
744573 |
952437 |
1429782 |
1882000 |
DNNN |
229856 |
263153 |
309084 |
332077 |
359988 |
486561 |
794194 |
900600 |
DN ngoài N.N |
33916 |
51049 |
72663 |
102945 |
147222 |
196200 |
298296 |
591200 |
DN FDI |
147941 |
162313 |
170579 |
210483 |
237363 |
269676 |
337292 |
390200 |
|
Cơ cấu (%) |
Tổng số |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
DNNN |
55.83 |
55.23 |
55.96 |
51.44 |
48.35 |
51.09 |
55.55 |
47.90 |
DN ngoài N.N |
8.24 |
10.71 |
13.16 |
15.95 |
19.77 |
20.60 |
20.86 |
31.40 |
DN FDI |
35.93 |
34.06 |
30.88 |
32.61 |
31.88 |
28.31 |
23.59 |
20.70 |
Nguồn:
GSO- Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2008
Bảng 2. Doanh thu thuần (tỷ đồng)
|
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
Tổng số |
809786 |
897856 |
1194902 |
1436151 |
1720339 |
2157785 |
2684341 |
3459800 |
DNNN |
444673 |
460029 |
611167 |
666022 |
708898 |
838380 |
961461 |
1089100 |
DN ngoài N.N |
203156 |
260565 |
362657 |
482181 |
637371 |
851002 |
1126356 |
1635300 |
DN FDI |
161957 |
177262 |
221078 |
287948 |
374070 |
468403 |
596524 |
735500 |
|
Cơ cấu (%) |
Tổng số |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
100.00 |
DNNN |
54.91 |
51.24 |
51.15 |
46.38 |
41.21 |
38.85 |
35.82 |
31.500 |
DN ngoài N.N |
25.09 |
29.02 |
30.35 |
33.57 |
37.05 |
39.44 |
41.96 |
47.30 |
DN FDI |
20.00 |
19.74 |
18.50 |
20.05 |
21.74 |
21.71 |
22.22 |
21.20 |
Nguồn:
GSO- Điều tra doanh nghiệp & Niên giám Thống kê 2008
Về cơ cấu giá trị tài sản cố định, trong thời kỳ 2000-2006, tỷ
trọng của DNNN giảm nhẹ sau đó lại tăng lên nhưng hầu như không
thay đổi; trong khi đó, tỷ trọng của doanh nghiệp tư nhân trong
nước đã tăng mạnh từ 8,3% năm 2000 lên 20,7% năm 2006; và tỷ
trọng của doanh nghiệp FDI giảm tương ứng từ 35,9% xuống còn
23,3% trong cùng thời kỳ.
Hình 3

Nguồn:
báo cáo CIEM
Với lượng vốn đầu tư, vốn kinh doanh và tài sản cố định rất lớn
của khu vực kinh tế nhà nước như nêu trên, tiếp sau chúng ta sẽ
xem xét nó đã đạt những thành tích và kết quả như thế nào.
2. Đóng góp cho GDP
Bảng sau cho thấy đóng góp của các thành phần kinh tế vào GDP.
Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp vào GDP của các thành phần kinh tế (%)
Năm: |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
Khu vực N.N |
38,52 |
38,40 |
38,38 |
39,08 |
39,10 |
38,40 |
37,39 |
35,93 |
34,35 |
Khu v.ngoài N.N |
48,20 |
47,84 |
47,86 |
46,45 |
45,77 |
45,61 |
45,63 |
46,11 |
46,97 |
Khu vực FDI |
13,28 |
13,76 |
13,76 |
14,47 |
15,13 |
15,99 |
16,98 |
17,96 |
18,68 |
Nguồn:
CSO
Có thể thấy đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước không
tương xứng với nguồn lực (vốn đầu tư, vốn kinh doanh, tài sản cố
định) mà nó sử dụng. Chúng sử dụng nhiều nguồn lực song tạo ra
ít giá trị. Khu vực tư nhân nói chung (trong nước và FDI) tạo ra
gần 2/3 của GDP.
Cũng nên lưu ý rằng đóng góp của “kinh tế nhà nước” cho GDP,
theo Tổng cục Thống kê, bao gồm cả đóng góp của nhà nước trong
các lĩnh vực: quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng (đóng góp
3,28% năm 1998 và 2,77% năm 2008); giáo dục đào tạo (3,66% năm
1998 và 2,61% năm 2008); y tế cứu trợ, văn hoá thể thao, đảng và
đoàn thể (2,11% năm 1998 và 1,8% năm 2008) [tổng cộng là 9,05%
năm 1998 và 7,18% năm 2008]. Nếu trừ phần đóng góp này khỏi
thành tích của khu vực nhà nước, chúng ta có một ước lượng cho
sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp nhà nước vào GDP như sau:
Bảng 2.b. Ước lượng đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước vào
GDP
Năm |
1998 |
1999 |
2000 |
2001 |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
% GDP |
30,95 |
30,32 |
30,35 |
30,31 |
30,42 |
30,74 |
31,29 |
31,33 |
29,46 |
28,15 |
27,17 |
Theo số liệu trên, tất cả các doanh nghiệp nhà nước đóng góp
khoảng 27% cho GDP năm 2008, và phần của các tập đoàn không thể
vượt quá con số này. Thế mà có vị phó thủ tướng vẫn khẳng định:
“Chính phủ cho rằng các tập đoàn và Tổng công ty, lực lượng
chiếm trên 40% GDP của cả nước luôn đóng vai trò quyết định”.
Thật không hiểu nổi.
---------------------------------------
http://www.toquoc.gov.vn/Print/Article/Tap-Doan-Kinh-Te-Nha-Nuoc-Can-Mot-Cai-Nhin-Thuc-Chat.html
Xem tiếp kỳ
II: Nguyên nhân và Cải cách khu vực DNNN
| |