Thư viết từ
Princeton, ngày 27 tháng 5 năm 2009
Kính gửi Quí vị Đại
biểu Quốc hội khóa 12:
Đã có khá nhiều phản
biện thuyết phục về kinh tế, ảnh hưởng môi trường và an ninh của dự án
khai thác bô xít ở Tây Nguyên, tôi không có gì bổ sung thêm. Tôi mạn
phép cầm bút viết cho Quí vị với tư cách là một công dân suy nghĩ và
trăn trở với vận mệnh của đất nước. Phần lớn các Quí vị cũng như tôi
không phải chuyên gia trong các vấn đề kể trên, nhưng với những tư
liệu được cung cấp, chúng ta có thể chắt lọc một số sự thật hiển
nhiên, gọi chúng bằng tên của chúng, sắp xếp chúng một cách có logic
để mỗi người có thể có quan điểm riêng của mình. Đó là phương pháp làm
việc khoa học mà qua trải nghiệm hàng ngày trong công việc của một nhà
toán học, tôi biết nó không dễ dàng. Nhưng đó chính là trách nhiệm mà
Nhân dân đã phó thác lên vai của Quí vị.
Quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc dài và sâu như chính lịch sử Việt Nam. Người Việt Nam
có phông văn hóa, cách suy nghĩ và ứng xử nhiều phần giống người Trung
Quốc, không ít người Việt Nam có tổ tiên đến từ Trung Quốc. Quan hệ
với Trung Quốc vừa là một phần hữu cơ vừa là một nguy cơ cho sự tồn
vong của bản sắc Việt Nam. Đây là một dữ kiện lịch sử mà ta không nên
mất thời gian bàn xem nó tốt hay xấu, đáng vui hay đáng buồn, mà dành
thời gian để suy nghĩ đến hệ quả của nó. Suy nghĩ nghiêm túc có hệ
thống tránh cho ta việc trong thời bình lại ứng xử tình thế như trong
thời chiến: lúc thì “môi hở răng lạnh”, lúc lại xua đuổi Hoa kiều mà
nhiều gia đình đã gắn bó với mảnh đất này qua nhiều thế hệ.
Cái tôi muốn đề cập
đến trong bức thư này không phải là quan hệ giữa nhân dân Việt Nam và
nhân dân Trung Quốc mà là chính sách “thực dân mới” của chính quyền
Trung Quốc. Cũng như các nước Anh, Pháp trong thế kỷ mười chín, Mỹ
trong thế kỷ hai mươi, công nghiệp Trung Quốc trong thế kỷ hai mốt
phát triển như vũ bão. Hệ quả hiển nhiên là Trung Quốc hôm nay, cũng
như các nước kể trên hôm qua, đói nhiên liệu, nguyên liệu và thị
trường tiêu thụ các sản phẩm của mình. Như trong sách lịch sử cho học
sinh phổ thông, ta gọi các nước Anh, Pháp cho quân đi chiếm thuộc địa
là chính sách thực dân cũ, Mỹ trong thế kỷ hai mươi và Trung Quốc hôm
nay dùng uy thế chính trị và kinh tế để dành nhiên liệu nguyên liệu và
thị trường là chính sách “thực dân mới”. Đây cũng là một dữ kiện lịch
sử mà ta không nên mất thời gian bàn xem thực dân cũ, mới là tốt hay
xấu, gọi tên như thế có quá đáng hay không, mà dành thời gian để suy
nghĩ đến hệ quả của nó. Hệ quả cho các nước bị thực dân như ở châu Phi
thì ta biết : tài nguyên khai thác bừa bãi, môi trường tàn phá, kinh
tế phát triển lệch lạc do quá phụ thuộc vào việc khai thác tài nguyên
kéo theo tệ tham nhũng và bất bình đẳng xã hội nghiêm trọng.
Trung Quốc thực hiện
chính sách “thực dân mới” một cách có hệ thống ở châu Phi, châu Mỹ la
tinh và mọi nơi có nhiên liệu, khoáng sản trong đó có Việt Nam. Trong
trường hợp của Việt Nam, ảnh hưởng quá mức của Trung Quốc có thể kéo
thêm hệ quả nguy hiểm sau đây : quan hệ hữu cơ vốn có của văn hóa
Trung Quốc với văn hóa Việt Nam trở thành đô hộ văn hóa. Đất nước, con
người, văn hóa Trung Quốc có nhiều thứ để ta cảm phục và học tập.
Nhưng nếu ta rập khuôn theo mô hình của họ, đi theo con đường họ đã
đi, làm theo cái họ nói tức là cái họ muốn, thì ta chỉ nhận phần thiệt
thòi, còn bản sắc ta thì tồn vong được bao lâu. Vấn đề độc lập văn
hóa, giữ gìn bản sắc vô cùng hệ trọng, xin Quí vị lưu ý...
Xin quay lại vấn đề
khai thác bô xít ở Tây Nguyên. Đọc tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc
năm 2001 khi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang thăm Trung Quốc và năm
2006 khi Tổng bí thư Hồ Cẩm Đào sang thăm Việt Nam, ta nhận thấy một
điều hiển nhiên là Trung Quốc rất quan tâm đến tài nguyên này và muốn
ta khai thác bằng được. Trong những trường hợp như vậy, chỉ suy diễn
ta cũng thấy việc này có lợi cho họ nhiều hơn cho ta.
Tuy nhiên, suy diễn
thôi không đủ. Nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện
đặc biệt quan tâm đến những con số, cá nhân tôi có ý kiến sau đây :
1) Dữ kiện chính của
vấn đề là Việt Nam có nguồn tài nguyên bô-xít lớn thứ ba thế giới chủ
yếu tập trung ở Tây Nguyên. Dữ kiện này kéo theo sự quan tâm của các
nước công nghiệp đói bô-xít chứ không kéo theo ta phải khai thác
bô-xít. Về phía ta, dữ kiện trên kéo theo ta có thể lựa chọn có khai
thác bô-xít hay không và nếu có, ta có thể lựa chọn thời điểm và qui
mô thích hợp.
2) Báo cáo của Chính
phủ cho biết qui hoạch bô-xít được lập trong bối cảnh kinh tế tăng
trưởng. Tại thời điểm này, kinh tế toàn cầu đi vào khủng hoảng, có
nguy cơ kéo dài.
Dữ kiện chính về
kinh tế vĩ mô không còn đúng nữa, không rõ hiệu quả kinh tế đã được
tính toán lại như thế nào. Trong báo cáo của Chính phủ, phần chắc chắn
là phần lỗ những năm đầu, vì là lỗ kế hoạch. Ngay cả tính toán giả
định ta cũng chưa rõ là sẽ lỗ kế hoạch bao nhiêu năm. Phần lãi sau đó
phụ thuộc vào nhiều giả thiết : giá nhôm tăng trở lại, mưa đủ để có
nước rửa quặng, nhà nước đầu tư thêm vào đường sắt để vận chuyển
quặng. Nếu cứ cho mỗi giả thiết sác xuất 50-50 như cách diễn đạt của
lãnh đạo Than khoáng sản, sác xuất có lãi sau một số năm lỗ kế hoạch,
nhiều nhất là một phần tám, chưa tính đến chi phí cho môi trường.
3) Diện tích sử dụng
cho khai thác bô-xít dự kiến là 8,6% tỉnh Đắc Nông là một con số khổng
lồ nếu ta nghĩ đó là 8,6m2 trên tổng diện tích 100m2 nhà của ta.
4) Báo cáo cho biết
khai thác bô-xít không thể tránh khỏi ảnh hưởng nhất định đến môi
trường và có nêu một số giải pháp công nghệ khắc phục. Trong các phản
biện có nêu khó khăn đặc thù của ta là khai thác bô-xít ở đầu nguồn
một số sông lớn như sông Đồng Nai, chưa có tiền lệ trên thế giới. Cá
nhân tôi băn khoăn nhất chỗ thiếu hoàn toàn dự toán chi phí cho việc
bảo vệ môi trường. Ngay trong nhưng trường hợp đơn giản hơn như Vedan,
công nghệ thì đã có, nhưng vi phạm môi trường thì vẫn đỡ được 30% chi
phí. Như vậy phần ảnh hưởng đến môi trường là phần chắc, phần bảo vệ
môi trường còn phụ thuộc vào nhiều giả thiết, có cái phụ thuộc vào ta
(chọn công nghệ), có cái không phụ thuộc vào ta (thời tiết, địa thế),
có cái ta chưa tính toán đến (chi phí), vì vậy rất đáng lo.
5) Báo cáo cho biết
dự án có ảnh hưởng tốt cho xã hội, cụ thể tạo ra hàng ngàn công ăn
việc làm cho nhân dân địa phương. Nếu so sánh với mức đầu tư hàng tỉ
đô-la Mỹ, thì có nhiều cách hay hơn, an toàn hơn, hiệu quả kinh tế
nhãn tiền hơn, để tạo vài ngàn việc làm. Lưu ý con số công ăn việc làm
trong báo cáo tương đương với con số hộ dân bị di chuyển. Còn viễn
cảnh xây dựng trung tâm dịch vụ, khách sạn, du lịch và giải trí xung
quanh hồ chứa bùn đỏ, theo tôi, ít có sức thuyết phục.
Xin nhắc lại, cũng
như phần đông Quí vị, tôi không phải chuyên gia ngành khai thác khoáng
sản, nhưng qua nghiên cứu kỹ Báo cáo của Chính phủ và các phản biện
của nó, tôi nhận thấy trong Quy hoạch chung khai thác bô-xít ở Tây
Nguyên, phần có hại thì cầm chắc, phần có lợi thì mong manh. Bối cảnh
kinh tế thế giới rất không thuận lợi cho khai thác nguyên liệu thô,
vậy cái gì thúc đẩy ta triển khai khai thác ào ạt vào thời điểm này.
Khác với các nước
Châu Phi thế kỷ mười chín, đất nước chúng ta là một quốc gia độc lập
có chủ quyền. Quí vị, phần nhiều ở tuổi cha, tuổi chú của tôi, biết rõ
hơn tôi : độc lập chủ quyền của ta không phải tự nhiên mà có. Nước ta
có một Quốc hội do nhân dân bầu ra, một Chính phủ do Quốc hội chỉ
định, một Quân đội phục tùng Chính phủ. Đó là một thành quả cũng không
phải tự nhiên mà có.
Tôi kính mong Quí vị
bỏ thời gian, nghiên cứu tường tận Báo cáo dự án khai thác bô-xít Tây
Nguyên, các phản biện khoa học của nó, lắng nghe ý kiến cử tri và suy
nghĩ đến sự tồn vong của đất nước, để rồi xây dựng quan điểm riêng của
Quí vị, trình bày nó rõ ràng trong nghị sự của Quốc hội và chịu trách
nhiệm về nó trước các cử tri. Tôi rất biết đây là việc khó, nhưng dù
Quí vị muốn hay không muốn, nhân dân đã đặt niềm tin lên vai của Quí
vị.
GS. TSKH Ngô Bảo
Châu
Giáo sư toán học Đại
học Paris 11, Pháp,
Thành viên của
Institute for Advanced Study, Princeton, Mỹ.
Địa chỉ hiện tại:
School of Mathematics
Institute for Advanced Study
Einstein Drive
Princeton NJ 08540 U.S.A.
HC Mạng Bauxite
Việt Nam biên tập