Những bài cùng tác giả
Vấn đề giải quyết lụt lội và thủy lợi ở đồng bằng Cửu Long đã được tranh
luận rất nhiều. Tựu trung ở Việt Nam có 2 khuynh hướng; (i) sống chung với
lũ, và (ii) trị thủy chống lũ lụt. Tác giả sẽ trở lại vấn đề này trong phần
tìm một giải pháp thích hợp cho Đồng bằng Cửu Long. Để có một tầm nhìn rộng
lớn cho vấn đề, chúng ta hãy nhìn những kinh nghiệm về vấn đề này ở trên thế
giới và ngay tại Việt Nam. Phần 1. Kinh Nghiệm Hoà Lan (The Netherlands).
“Thượng đế tạo ra thế giới, người Dutch tạo ra nước Hoà Lan”. Đó là câu nói
của người Hoà Lan để tự hào về những công trình chống lụt của họ. Khoảng 27%
lãnh thổ Hoà Lan hiện nay thấp hơn mực nước biển trung bình 3 m,
có chỗ thấp 7 m như ở Prince Alexander Polder. Khoảng 60% của tòan dân số 16
triệu sinh sống trên vùng đất thấp này. Ngoài ra, vào mùa lụt 70% đất đai sẽ
bị ngập lụt do nước lũ từ các sông tràn ngập nếu hiện nay không có hệ thống
đê dọc theo sông và phụ lưu.

Hoà Lan Vùng ngập lụt (màu sậm) nếu không có đê hiện nay Từ ngữ Netherlands – tiếng Dutch là Nederlanden – có nghĩa là vùng đất thấp
(Pays Bas). Vùng đất phía Bắc và Tây lãnh thổ thấp hơn mực nước biển, nên
được gọi là vùng Hạ Hòa Lan (Low Netherlands), gồm sét và than bùn (peat),
chằng chịt với các hệ thống kinh đào, sông và phá (vụng biển). Phần đất phía
nam và đông là vùng đất cao – vùng Thượng Hoà Lan (High Netherlands) – cao
hơn mặt biển, tương đối bằng phẳng hay có đồi nhỏ, nhưng cao độ không quá 50
m, ngọai trừ ở vùng Đông Bắc có nơi cao 107 m, và vùng cao nhất là
Vaalserberg (321 m) ở biên giới với Belgium. Sông chính là sông Rhine chảy từ Đức, với nhiều phụ lưu trên đất nước Hoà
Lan, như Ijssel, Waal và Lek. Phụ lưu Maas, một nhánh của sông Meuse và
Schelde chảy đến từ Belgium. Các sông và phụ lưu này tạo một hệ thống sông
ngòi chằng chịt chạy từ đông sang tây, và khi ra tới Biển Bắc (North Sea) tạo
thành tam-giác-châu (delta) với vô số đảo nhỏ ở phía Tây Nam, hay chảy vào
biển Waddezee qua biển nội địa Zuidezee. Nhờ các cổng-điều-chế-nước (locks)
hiện nay trên các sông chánh hay phụ lưu, tàu bè lớn từ Biển Bắc lưu thông
được tới trung tâm Châu Âu. Đê (dykes), kinh đào (canals), đê đập (dams), cổng-điều-chế-nước,
cống-thoát-nước (sluices), và phong quạt (windmills) là những phong cảnh
tiêu biểu của vùng Hạ Hoà Lan. Những công trình trị thủy này được Hiệp Hội
Công Chánh Hoa Kỳ (American Society of Civil Engineerings) đánh giá là 1
trong 7 kỳ quan của thế giới hiện đại. Lãnh thổ Hoà Lan càng ngày càng được mở rộng, không phải đi xâm chiếm nước
láng giềng (Đức và Belgium) mà là lấn ra biển. Trong vòng 1000 năm nay, lãnh
thổ gia tăng thêm 1/5 diện tích. Người dân Hoà Lan đã phải tranh đấu với
thiên nhiên, biển cả để tạo nên đất nước xinh đẹp và phồn vinh ngày nay. Cách đây trên 2000 năm, người Frisians đến vùng này định cư và bắt đầu xây
các “terpens” trên các đụn cát dọc biển, tức các đê biển đầu tiên, để chận
nước biển, và biến biển thành đồng bằng. Trong các thế kỷ sau các nhà tu
(monks) tiếp tục làm đê, đào kinh lấn biển. Nguyên thủy, vùng duyên hải Biển Bắc của Hoà Lan gồm các đụn cát (dunes). Ở
phía Tây Nam, các đụn đất này bị các cửa sông cắt xén thành lập các
tam-giác-châu với chằng chịt sông ngòi, lạch nước. Ở phía Tây Bắc, các rạch
nước biển xen kẽ với các đụn cát tạo thành dãy đảo West Frisian Islands, và
bên trong dãy đảo này là một biển cạn - biển Waddenzee. Vùng này có thủy
triều mạnh và gió bão, biển xâm thực mạnh nên các công trình đê và bờ biển
trên các dãy đảo này dể bị phá hủy. Chính vùng bên trong của biển Waddenzee
này là biển nội địa Zuiderzee (Biển Nam), có sông Ijssel, một phụ lưu của
sông Rhine, chảy đến, là vùng được người Hoà Lan cải tạo trước tiên. Đây là
một quá trình cải tạo kéo dài trên 2,000 năm và vẫn còn tiếp tục. Như vậy, Zuiderzee nguyên thủy là một biển nằm trong nội địa ăn thông với
biển Waddenzee, có kích thước 100 km dài và 50 km rộng, diện tích khoảng
5,000 km2, nước sâu 4-5 m, với tổng cộng bờ biển khoảng 300 km. Bên trong
biển có 4 đảo nhỏ là Wieringen, Urk, Schokland và Marken. Từ nguyên thủy
cách đây trên 2,000 năm, các đê biển được xây dựng ven bờ biển nội địa
Zuiderzee để chận bão lụt tràn vào đất liền. Rồi với thời gian, nhiều đê
được xây thêm, lấn ra ngoài biển để thêm đất thổ cư và nông nghiệp. Ngày 14/12/năm 1287, một trận lụt lớn phá
vỡ đê biển, giết khoảng từ 50,000
đến 80,000 người, và vì đất thấp hơn mặt biển, trận lụt kéo dài tới mấy chục
năm cho tới khi tái tạo được hệ thống đê mới kiên cố hơn. Hàng năm, dân Hoà
Lan tiếp tục củng cố lại hệ thống đê điều, xây thêm đê biển mới để biến vùng
quanh vịnh thành vùng nông nghiệp, rộng lớn hơn và vững chắc hơn. Cũng nhờ
trận lụt này, mà Amsterdam, từ một làng đánh cá có đê cao và vững chắc bao
quanh, trở thành một hải cảng sầm uất thông thương với thế giới. Trong các
thế kỷ tiếp theo, vì bão tố thường xuyên, nước biển đe dọa phá vỡ đê biển,
nên ngoài việc củng cố đê cũ, các đê mới lần lượt tạo ở bên ngoài, tiến dần
ra biển, và một phần biển biến thành các polders. Tuy vậy, trận lụt ngày
18/11/1421, đê biển lại bị vỡ, 72 làng bị ngập và 10,000 người chết. Các đê
biển kiên cố tiếp tục xây và lấn ra biển cả, nhưng chưa được quy họach toàn
bộ. Mãi tới thế kỷ 20, Hoà Lan mới thật sự quy họach phòng thủ biển cả,
chống lụt do biển và sông gây ra. Năm 1916, một trận lụt kinh hoàng xảy ra, chính phủ Hoà Lan phải xét lại kỹ
thuật, quy họach lại toàn diện chương trình trị thủy, và quyết tâm thực hiện
đề án biến biển vùng Biển Nam Zuiderzee thành đồng bằng an toàn với 5
polders rộng lớn, gọi là công trình Zuiderzeewerken do Cornelis Lely
(1854-1929) chủ quản. Ngày 01/02/1953, cường triều cộng với bão lớn ở Biển Bắc làm nước biển tràn
qua đê làm 162,000 ha bị ngập lụt, và giết chết 1,800 người, 47,000 nhà bị
phá hủy. Vì vậy, Hoà Lan thực hiện đại công trình thứ 2, ở vùng
tam-giác-châu phía nam, mang tên Deltawerken (Delta Works). Từ ngàn xưa, để đối phó với sóng biển, triều cường trong mùa
bão, đê biển
được xây rất cao, kiên cố, và thường có nhiều đê, đê này sau đê kia, hễ nứơc
biển tràn qua đê này thì còn đê kia ngăn cản. Đê bên ngoài biển gọi là “đê
bảo vệ” (wakende dijk -guarding dyke), kế tiếp là “đê ngủ” (slapende dijk -
sleeping dyke), và đê trong cùng là “đê mơ” (dromende dijken (dreaming
dykes). Đại công trình Zuiderzeewerken (Zuiderzee Works).
Đại công trình kéo dài từ 1919 và hoàn thành năm 1986, với sự thành lập tỉnh
mới Flevoland. Mục tiêu chánh của công trình này là bảo đảm chống lụt gây
bởi Biển Bắc và tạo thêm đất nông nghiệp trong vùng biển nội địa Zuiderzee.
Thay vì củng cố lại các đê cũ bao quanh biển nội địa Zuiderzee dài hơn 300
km, công trình chính quan trọng nhất là thiết lập một đê biển dài 32 km, nối
liền 2 bờ của Zuiderzee, cách ly với biển Waddenzee, và biến biển Zuiderzee
thành một hồ nước ngọt vĩ đại – hồ Ijsselmeer, rồi sau đó từ từ biến một
phần hồ thành các polders.

Đại công trình
Zuiderzeewerken

Đê Afsluitdijk
dài 32 km
Xây đê Afsluitdijk.
Mục đích là tách rời biển Zuiderzee với biển Waddenzee của Biển Bắc bằng một
đê biển kiên cố, và biến Zuiderzee thành một hồ nước ngọt vĩ đại mang tên hồ
Ijsselmeer. Để rút tỉa kinh nghiệm, một đê ngắn Amsteldiepdijk chỉ dài 2.5 km, nối đảo
Wieringen với nội địa được xây cất trước. Phải mất 4 năm (1920-1924), đê nhỏ
này mới hoàn thành, nhưng nhờ đó học được nhiều kinh nghiệm và phát minh
nhiều kỹ thuật thích ứng. Với kinh nghiệm này, công trình xây đê Afsluitdijk mới bắt đầu năm 1927 và
hoàn thành năm 1932. Đê dài 32 km, rộng 90 m, cao trung bình trên mực biển
là 7.25 m, có chỗ cao tới 19 m, độ dốc 25%. Với kinh nghiệm rút tỉa từ đê
Amsteldiepdijk, vật liệu xây dựng đê biển tốt nhất là sét-băng-hà (till).
Sét-băng-hà là trầm tích lắng tụ ngay dưới đáy biển Zuiderzee ở thời đại
băng hà, gồm đá cuội, sét, cát kết chặt thành khối cứng. Dùng máy xáng múc
khối sét-băng-hà từ đáy biển Zuiderzee và chở đổ thành 2 hàng song song làm
tường đê, rồi dùng tàu chở đá, cát và sét đổ vào giữa 2 bức tường
sét-băng-hà. Khi đê cao quá mặt biển thì được phủ một lớp sét-băng-hà dày
lên trên. Và đê được tăng cường thêm bằng đá basalt và một thảm cây liễu
sống để bảo vệ đáy đê. Trên mặt đê rải 1 lớp cát, và trên cùng là lớp sét và
được trồng cỏ. Tổng số vật liệu xây dựng đê Afsluitdijk khoảng 23 triệu m³
cát, 13.5 triệu m³ sét-băng-hà, và trong suốt thời gian xây dựng trung bình
hàng ngày có 4,000 tới 5,000 công nhân. Tổn phí xây dựng đê vĩ đại này
khoảng 700 triệu Euro (theo thời giá 2004). Song song với việc xây dựng đê biển Afsluitdijk, còn phải xây 2 hệ thống ở 2
đầu đê, gồm 2 cổng-điều-chỉnh-nước (để tàu bè di chuyển ra vào), và hệ thống
tháo nước gồm 28 cống (sluices). Tiếp theo là xây dựng các polders.
Xây dưng polders
Polders là những vùng đất thấp dưới mực nước biển, lớn nhỏ tuỳ nơi, nhỏ
chừng vài trăm ha, lớn có thể tới 250,000 ha, có đê bao ngạn chung quanh để
ngăn chận nước biển và nước lụt. Một khi hoàn tất đê bao quanh, hệ thống
kinh (canals) bên trong polders được đào để rút nước (nước mưa và nước biển
xâm nhập), và nhiều hệ thống bơm nước ra khỏi polders để làm đất khô, và sau
một thời gian biến thành đất trồng trọt và thổ cư, làng mạc hay thành phô.
Lần lượt các polders được xây dựng, kế tiếp nhau, và tiến ra biển cả. Kể từ
thiên niên kỷ 1200, xa gió (windmills) thay thế sức người và sức thú vật để
bơm nước ngày đêm ra khỏi polders. Trong vòng 200 năm nay, máy bơm khổng lồ
chạy điện hay diesel được thay thế. Từ thế kỷ thứ 10, dọc theo biển đã có hệ thống đê biển do người Romans thực
hiện, nhưng chưa vững chắc. Người Hoà Lan thật sự xây dựng đê và polders vào
thế kỷ 19, đầu tiên với Harlemmermeer (Hồ Harlem), gần Amsterdam. Nguyên
thủy đây là vùng thấp, than bùn được khai thác làm nhiên liệu và với thời
gian trở thành các hồ nước (mặn), các hồ càng ngày càng lớn, và vì bị gió
sóng biển mạnh làm xoi mòn bờ hồ, có cơ đe dọa Amsterdam. Các kỹ sư Hoà Lan
bèn xây một bức tường đất – tức đê – và kinh đào chung quanh hồ, rồi bơm
nước từ hồ qua đê đổ vào kinh, và kinh dẫn nước ra sông rồi ra biển. Hồ cạn
nước và trở nên khô – polder thành hình, trở thành đất trồng trọt, chăn
nuôi, xây cất nhà cửa, đường sá, thành làng mạc hay thành phố. Polder lớn
nhất là tỉnh Flevoland với diện tích tổng cộng 2415 km2. Sau khi cách ly được với biển Waddenzee nhờ đê Afsluitdijk, biển Zuiderzee
nay trở thành một hồ nước hiền lành, các kỹ sư bắt đầu thiết lập các
polders. Cũng vậy, một thí điểm polder được thực hiện trước để rút tỉa kinh
nghiệm. Polder Andijk chỉ rộng 40 ha được làm năm 1926 và hoàn thành 1927 để lấy
kinh nghiệm. Polder Wieringermeer. Polder lớn hơn đầu tiên là Wieringermeer, bắt đầu xây
1927, hoàn thành năm 1929, và được bơm cạn hoàn hoàn năm 1930, và bắt đầu
canh tác năm 1934. Tổng công diện tích polder Wieringermeer là 308 km², diện
tích thổ cư và canh tác là 195 km², với dân số sống trong polder là 13,000
người (2007). Việc xây dựng con đê biển dài 18 km gặp nhiều khó khăn, ví lúc
đó đê Afsluitdijk chưa hoàn thành, nên sóng biển cản trở công việc. Việc bơm
nước ra khỏi polder được thực hiện bởi 2 trạm bơm khổng lồ, một chạy bằng
diesel, và trạm kia chạy điện, và một hệ thống an toàn bảo đảm máy bơm chạy
liên tục, nếu hệ thống này bị hỏng, hệ thống kia vẫn có khả năng bơm nước.
Hai hệ thống bơm này vẫn chưa thễ bơm hết nước, để cho đất khô được. Muốn
vậy, bên trong polder phải có hệ thống kinh mương lộ thiên để thâu nhận nước
rỉ từ bùn trên mặt, để dẫn tới mương chánh có trạm bơm. Một khi đất khô dần,
đất bị lún sụp, có nơi lún tới cả thước. Một khi đất đã đình đậu, không bị
lún sụp nữa, hệ thống mương nhỏ lộ thiên được thay thế bằng ống thoát nước
ngầm đặt trong lòng đất. Để biến thành đất canh tác, khi đất chưa thoát thủy
hoàn toàn, khi còn bùn, hạt giống cỏ sậy (Phragmites australis) được máy bay
gieo rải. Thảm cỏ sậy giúp đất khô nhanh, hệ thống rể giúp cải tạo kiến trúc
đất, và ngăn các lọai cỏ dại khác mọc. Khi đất vừa khô, đốt cỏ sậy và gieo
cải dầu (oilseed rape, Brassica napus). Năm thứ 3, mới bắt đầu gieo lúa mì
(wheat), năm 4 lúa mạch (barley) và năm 5 lúa oat. Bắt đầu năm thứ 6, nông
gia có thể canh tác hoa màu khác, tuỳ ý. Với kinh nghiệm tích lủy, các
polders lớn khác lần lượt được xây dựng. Noordoostpolder (Northeast-polder). Vì khó khăn tài chánh, polder này bắt
đầu thực hiện năm 1936. Gồm 2 đê, dài tổng cộng 55 km. Thế chiến bùng nổ,
công tác bị đình trệ, cho tới cuối năm 1940 các đê mới hoàn thành, thoát
nước hoàn tất vào tháng Chín năm 1942, và 480 km2 đất mới được tạo thành.
Flevolands. Công tác xây dựng các polders khác bị đình trệ bởi Thế Chiến II.
Sau thế chiến, công trình tiếp tục với các polders vĩ đại hơn, rộng 1000
km², nay trở thành tỉnh Flevoland. Đầu tiên polder Đông Flevoland được thành
lập trứơc, bắt đầu năm 1950 và hoàn thành 1956, với diện tích 540 km², cách
ly với đất liền bởi một kinh đào, và bao quanh bởi một con đê dài 90 km.
Việc bơm nước nhờ vào 3 trạm bơm, 1 chạy diesel, và 2 chạy điện. Polder Nam
Flevoland xây dựng từ đầu 1959 và hoàn tất 1967, với con đê dài 70 km, có
diện tích 430 km², với chỉ một trạm bơm diesel. Ngày 01/01/1986 Hoà Lan có
thêm một tỉnh Flevoland mới, do xáp nhập polder Đông và Nam Flevoland với
một phần đất polder Đông Bắc của công trình Zuiderzee. Tỉnh Flevoland có
diện tích đất là 1,419 km², với cư dân 370,000 (năm 2005) và 6 thành phố
lớn. Thủ đô của tỉnh là Lelystad, đặt theo tên của vị cha đẻ công trình là
Cornelis Lely (1854-1929). Polder Markerwaard. Bắt đầu thực hiện năm 1963, bằng một đê dài 28 km mang
tên đê Houtribdijk hay Markerwaarddijk, chia hồ IJsselmeer làm 2 phần, phần
phía bắc vẫn mang tên hồ Ijsselmeer (rộng 1250 km2), hồ phía nam con đê mang
tên Markermeer (rộng 700 km2). Việc thực hiện tiếp bị đình chỉ vì thấy chưa
cần thiết. Đê Houtribdijk hiện làm một xa lộ nối liền đông và tây xuyên qua
hồ Ijsselmeer, và vùng Markerwaard hiện nay là vùng nghĩ hè và bão tồn sinh
thái. Đại công trình Deltawerken (Delta Works)
Song song với đại công trình Zuiderzeewerken (1919-1986), chính phủ Hoà Lan
thực hiện công trình Delta (1950-1997) trên Tam Giác Châu thuộc phụ lưu sông
Rhine – Meuse ở Tây Nam Hoà Lan. Công trình gồm việc thực hiện đê đập, đê
biển, đê-chống-bão, cống-thoát-nước, và cổng-đều-chỉnh nước cho tàu bè thông
thương. Nhờ vậy, tạo được nhiều hồ chứa nước ngọt, rút ngắn đường giao thông
và đê duyên hải, nên công tác bão trì trong tương lai sẽ ít tổn phí và dễ
dàng hơn việc bão trì nhiều hệ thống đê cũ chạy ngoằn nghèo ở bên trong.
Tổng cộng tổn phí khoảng 6.81 tỉ Euro. Cũng nhờ thực hiện công trình
Deltawerken, nhiều kỹ thuật làm đê mới được áp dụng, và nhiều tàu đựơc đóng
chỉ dành cho kỹ thuật tân tiến này. Rottendam là hải cảng lớn nhất thế giới
mà hàng hải là ngành kinh tế hàng đầu của Hoà Lan. Ngoài ra, khoá kín biển
sẽ làm hư hại môi trường bên trong tam-giác-châu. Để duy trì tàu bè thông
thương nhộn nhịp, và ngành ngư nghiệp nội địa không bị ảnh hưởng, các kỹ sư
thủy lợi phải thiết kế lại các cổng-điều-chỉnh-nước, cống-tháo-nước, cầu,
v.v. để thế nào nước biển của Biển Bắc thông thương được với hồ nước nội
địa, tàu bè có thể qua lại dễ dàng, cá hồi (salmon) có thể di chuyển vào ra
để sinh sản, v.v., nhưng khi cần thì có thể khoá kín hoàn toàn, không cho
lụt biển, triều cường xâm nhập nội địa. Cũng như công trình Zuiderzeewerken,
để rút tỉa kinh nghiệm và thử nghiệm kỹ thuật mới thiết kế, các kỹ sư thủy
lợi bắt đầu thực hiện trước những dự án nhỏ, dễ dàng nhất ở công trình
Deltawerken.
Đại công trình Deltaweerken
Năm 1950, 2 cửa vịnh nhỏ ở Brielle và Vlaardingen được chắn đê biến thành hồ
nước. Tiếp theo là khoá cửa vịnh Oosterschelde, Haringvliet và Grevelingen bằng
một con đê biển dài 700 km. 17 cống-thoát-nước trên đê Haringliet có khả
năng tháo 21,000 m3/giây. Hai cửa Vịnh ở Nieuwe Waterweg và Westerschelde
được tàu bè thông thương đến Rotterdam và Antwerp nhờ các
cổng-đều-chỉnh-nước tân tiến. Đê dọc thủy lộ này cũng được nâng cao hơn và
vững chắc hơn. Đồng thời các công trình xa lộ, cầu cống trong vùng này được
xây dựng hay tái thiết. Vì áp lực của nhóm bảo vệ môi trường và các nông dân
nuôi sò, thay vì biến hồ Oosterschelde thành hồ nước ngọt, nay phải để nước
biển chảy vào, vì vậy các cống-chống-cường triều được thiết kế lại. Bình
thường, các cống này mở để nước biển chảy vào, hay rút ra theo thủy triều,
nhưng khi có bão, khi cường triều cao quá 3 m trên mực biển, thì tự động các
cống-chống-cường-triều đóng kín. Kỹ thuật mới được áp dụng khi làm đê Braakman. Vùng này có thủy triều cao,
với dòng hải lưu chảy mạnh, đê bình thường không thực hiện được vì bị trôi.
Dùng các khối vuông rỗng bằng ximăng cốt sắt tiền chế –gọi là phoenix
caissons- xếp thẳng hàng, đổ cát đầy rồi trét kín mặt với ximăng. Sau đó, đê
được xây trên khối ximăng chứa cát tiền chế này. Công trình Delta hoàn thành năm 1997, sau gần 50 năm thực hiện, và đó là
công trình chống lụt biển lớn nhất thế giới, tổng cộng 16,493 km đê biển,
gồm 2,415 km đê chánh và 14,077 km đê phụ, với tổng cộng 15 công trình
chính. Vì hiệu quả hâm nóng toàn cầu, với nguy cơ nước biển dâng cao, đồng thời với
nền móng nước Hoà Lan đang sụp lún, chánh phủ Hoà Lan từ 1996 đang tăng
cường làm cao thêm với nền móng đê vững chắc hơn cho khoảng 400 km đê hiện
hữu và phải hoàn thành năm 2015. Chống ngập lụt do sông
Sông Rhine khi vào
lãnh thổ Hoà Lan chia thành nhiều phụ lưu, quan trọng là
Ijssel chảy vào Zuiderzee (nay là hồ Ijsselmeer), và Waal cùng với sông Maas
(phụ lưu của sông Meuse) chảy vào Tam-Giác-Châu phía nam. Từ ngàn xưa, để ngăn lụt từ nước các sông này dâng cao trong mùa mưa lũ (mùa
đông), mỗi một bên bờ sông xây 2 đê kiên cố. Đê kế dòng sông gọi là
“đê-mùa-hè” (mùa có ít mưa, lụt), có nhiệm vụ ngăn lụt nhỏ, nếu có, trong
mùa hè; và đê bên ngoài là “đê-mùa-đông” (mùa lũ lụt chính), là đê chánh,
cách xa sông, có nhiệm vụ không cho nước lũ tràn vào đồng hay vào các
polders. Trong mùa hè, khoảng đất giữa 2 đê-mùa-hè và đê-mùa-đông khô ráo,
dùng làm đồng cỏ hay canh tác, nhưng vào mùa đông, nó trở nên ngập lụt và
khoảng đất giữa 2 đê-mùa-đông thành một dòng sông lớn, nhờ vậy làm giảm sức
chảy tránh phá vỡ bờ đê (đê-mùa-đông) gây lụt.

Vùng ngập lụt do sông ở Hoà Lan hiện nay Ngày 02/02/1995,
mưa lũ ở Pháp và Đức làm sông Rhine và Meuse ngập lụt, nước
sông Rhine tại Lobith (biên giới với Đức) dâng cao 13.48 m trên mực biển.
Chính quyền sợ rằng các đê dọc các sông này trong lãnh thổ Hoà Lan không thễ
chống cự nổi với áp lực nước ở thượng lưu nên phải ra lệnh 250,000 dân ở
vùng Đông và trung tâm Hoà Lan phải di tản. Mặc dầu không bị vỡ đê, hay nước
tràn qua đê, chính phủ Hoà Lan lập tức có chương trình khẩn cấp 1.2 tỉ USD
để củng cố lại hơn 800 km hệ thống đê dọc sông và dự trù phải hoàn thành
trước 2008. Nếu các đê này vỡ, 70% lãnh thổ Hoà Lan sẽ chìm ngập dưới 6 m
nước. Với hệ thống đê biển và đê sông hiện tại, các kỹ sư thủy lợi Hoà Lan cam
đoan rằng dầu mực nước biển có dâng cao thêm 1 m và với vũ lượng gia tăng
thêm 25% ở Tây Âu do hậu quả hâm nóng toàn cầu, Hoà Lan sẽ vẫn an toàn. Tuy
vậy, chính phủ Hoà Lan lúc nào cũng cảnh giác vấn đề nghiêm trọng này.
Tái tạo sinh môi.
Với hệ thống đê biển
vững chắc, nước mặn không còn xâm nhập vào nội địa,
sinh môi vùng nước mặn, nước lợ bị hủy họai. Hồ Grevelingen trở thành nước
ngọt khi con đê biển Brouwerdam dài 6 km hoàn thành (1971), động và thực vật
nước mặn bị hủy diệt. Vì vậy, năm 1978 một cống nước được thiết lập trên đê
này để nước biển thông thương lại với hồ, nhờ vậy môi trường biển được tái
tạo và động thực vật biển được tái sinh trong hồ này. Cũng vậy, việc tái tạo
môi sinh cũng được thực hiện ở Hồ Haringvliet Giải quyết vấn đề
ô nhiễm.
Sông Rhine bị ô nhiễm rất nặng, mà Hoà Lan ở hạ lưu nên nhận nhiều hậu quả,
nhất là ở Hồ Ketelmeer. Để giải quyết vấn đề này, các kỹ sư Hoà lan làm một
đê vòng tròn, đường kính 1 km ở giữa Hồ Ketemeer, đê cao hơn mặt nước hồ 10
m, bên trong đào sâu 45 m, vách đê bên trong được hàn kín. Polder đặc biệt
này dùng để chứa các chất thải do xáng múc từ hồ. Nếu không có hệ thống đê biển và đê sông, 70%
lãnh thổ Hoà Lan sẽ chìm sâu
6m khi có lụt do biển hay sông. Người Hoà Lan đã phấn đấu liên tục trên
2,000 năm nay để có một đất nước giàu đẹp hiện nay. Chính phủ, quốc hội,
nhân dân, các nhà khoa học, nông gia, các nhà bảo vệ môi trường, v.v. cùng
ngồi chung với nhau để giải quyết việc sống còn của đất nước họ. Vì vậy
không có nhiều mâu thuẫn chính trị, xã hội, kinh tế trong vấn đề giải quyết
vấn đề lụt lội ở Hoà Lan. Tất cả đều nhắm đến tương lai lâu dài cho một đất
nước Hoà Lan phồn thịnh. Reading (UK), 07/01/2008 Trần-Đăng Hồng
(còn tiếp) Phần 2. Kinh
nghiệm Mississippi |