Những bài cùng tác giả
Phần 2. Kinh nghiệm Mississippi
1. Sơ lược về sông Mississippi
Sông Mississippi là một bộ phận trong hệ thống sông
Jefferson-Missouri-Mississippi của Bắc Mỹ, dài 6,275 km, đứng hạng 4 trên
thế giới, lưu vực rộng 3,225,000 km², gồm 19 phụ lưu lớn chảy vào
Mississippi, như sông Minnesota hội nhập tại Twin Cities (Minnesota), sông
Wisconsin tại Prairie du Chien (Wisconsin), sông Des Moines tại Keokuk
(Iowa), sông Missouri (dài 3,767 km) và sông Illinois gần St. Louis
(Missouri), và sông Ohio tại Cairo (Illinois). Lưu lượng biến đổi từ 7,000
đến 20,000 m³/s, trung bình 16,200 m³/s, hạng 10 thế giới, lưu lượng ở hạ
lưu tại Baton Rouge khoảng 12,743 m³/s. Ở hạ lưu, sông Mississippi chảy ra
vịnh Mễ-Tây-Cơ (Gulf of Mexico) qua rất nhiều nhánh sông nhỏ, hai nhánh sông
chính là (i) sông Atchafalaya tách Mississippi tại Simmersport, chảy qua
thành phố Morgan rồi ra vịnh Atchafalaya, dài 270 km, và (ii) nhánh sông
chánh Mississippi chảy qua New Orleans, cách biển 169 km.
Không ảnh hạ lưu Mississippi Qua hàng ngàn năm, vào mùa xuân,
mưa lũ làm nước sông dâng cao, tràn hai bên
bờ, gây lụt lội ở trung lưu và hạ lưu, đồng thời mang theo khoảng 159 triệu
tấn phù sa bồi đắp cánh đồng hai bên, tạo tam giác châu lớn dần ở hạ lưu,
lấn ra biển, và tạo thành vô số cồn, đảo đất/cát nhỏ ở vùng biển cạn trong
Vịnh Mễ-Tây-Cơ. Vào thời Cretaceous cách đây 65 triệu năm, ở thời nước biển dâng cao, bờ
biển cách xa bờ biển ngày nay 800 km, gần Cairo thuộc Illinois. Cách đây
8,000 năm, khi nước biển hạ thấp tới mực nước ngày nay, bờ biển nằm ở Baton
Rouge, cách biển ngày nay 100 km. Tại vùng duyên hải, phù sa dày hơn 5 km.
Trong 5,000 năm qua, tam-giác-châu tiến ra biển từ 24 đến 80 km, tùy nơi. Trung bình hàng năm, phù sa sông bồi đắp làm gia tăng diện tích thêm vài
km2. Trong vòng vài ngàn năm qua, sông Mississippi đã bồi đắp 28,568 km2
đồng bằng, trong số đó 23 900 km2 đất cao hơn mặt biển, phần còn lại xấp xỉ
hay thấp hơn mực nước biển, tạo thành vùng-đất-ngập (wetlands), đa số là đầm
lầy (marsh). Vùng-đất-ngập thuộc Louisiana khoảng 1.2 triệu ha, chiếm tổng
số 40% vùng-đất-ngập của Hoa Kỳ. Đây là vùng trù phú tài nguyên dầu mỏ, khí
đốt, nông nghiệp (như lúa, mía, bông vải), và hải sản (gồm cá, tôm, cua, sò,
v.v.) và rất phong phú đa-dạng-sinh-học (gồm 260 loài cá, 326 loài chim, 60
loài sò, v.v.). 2. Hệ thống đê điều ở hạ lưu - Thành phố New Orleans
Khi một con sông hoạt động, vào mùa lũ lụt, phù sa thô lắng động ngay bờ
sông tạo thành bờ đê thiên nhiên, cao hơn phần đất bên trong. Càng xa sông
phù sa càng mịn nhuyển hơn với số lượng ít hơn được lắng động, nên bờ sông
thoai thoải thấp dần khi càng xa sông, và bên trong cùng là nơi đất trũng
đầm lầy. Cũng vậy, sóng biển mang cát phù sa tạo thành giồng-duyên-hải, chạy
song song với bờ biển, cao hơn nội địa là vùng đầm lầy. Vào mùa lũ lụt, nước
sông vượt đê-thiên-nhiên tạo lụt. Cũng vậy, khi có thuỷ triều lớn hay bão
tố, nước biển tràn qua giồng-duyên-hải gây lụt bên trong. Ở vùng hạ lưu, trong tam giác châu, di dân Âu Châu đầu tiên định cư trên
vùng đất cao trên các đê-thiên-nhiên dọc sông, nhất là từ Simmersport ra tới
biển, trên cả 2 nhánh sông chánh Atchafalaya và Mississippi, cũng như ở các
phụ lưu khác. Để ngăn chận lụt lội hàng năm trên vùng đất này, và để gia
tăng diện tích thổ cư, cũng như diện tích nông nghiệp, họ lấn vào vùng đất
trũng, vùng đầm lầy bên trong, họ thiết lập hệ thống đê dọc sông, ngay trên
bờ-đê-thiên-nhiên. Đặc biệt khi bông vải trở thành quan trọng, các nông gia
mở rộng diện tích đồn điền bông vải, hàng vài trăm cây số đê được thiết lập
dọc theo sông, từ phía nam New Orleans cho tới Baton Rouge, và chạy dài tới
Arkansas. Cũng vậy, ở phía nam, gần biển, các đồn điền mía được thiết lập
sau khi các hệ thống đê được thiết lập dọc theo các phụ lưu (bayou). Lúa
được canh tác nhiều ở tây nam tiểu bang, vùng Lafayette, với tổng số diện
tích khoảng 200,000 ha. Cốt yếu ngăn ngập lụt hàng năm từ sông, di dân đầu tiên ở vùng hạ lưu
Mississippi chỉ thiết lập hệ thống đê bằng đất dọc bờ sông, trên các
đê-thiên-nhiên, có nơi cao hơn mặt đất 1.2 m, dài tổng cộng 3,550 km, còn sử
dụng và được tăng cường cho tới ngày nay. Về sau, ở thế kỷ 20, Công Binh Hoa
Kỳ (US Army Corps of Engineers) thiết lập thêm các cổng-lụt (floodgate), đào
kinh chuyển dòng nước hay thoát nước, đào hồ chứa nước (reservoir). Các công
ty dầu mỏ cũng đào kinh chuyên chở dầu khí, lắp ống dẫn dầu, khí đốt, đào
giếng dầu, hệ thống đê quanh giếng dầu và cơ sở lọc dầu, v.v. Trong bối cảnh đó, thành phố New Orleans được thành hình. Cư dân Âu châu, đa
số gốc Pháp đến định cư ở vùng hạ lưu Mississippi, thiết lập nông trại dọc
theo bờ sông, là vùng đất cao nhất vì nằm trên các đê-thiên-nhiên, có độ cao
3 – 3.6 m trên mực biển. Năm 1699, để ngăn lụt, cư dân thiết lập hệ thống đê
đầu tiên dọc bờ sông Mississippi, ở một vùng gần biển để định cư, lập đồn
điền và cơ sở thương mại. Năm 1718, Jean Baptiste le Moyne, vị thống-đốc
người Pháp, chọn nơi này thành lập thành phố New Orleans. New Orleans, ở hạ
lưu Mississippi, cách biển 169 km, trở nên trù phú. Ngày nay, New Orleans là
thương cảng sầm uất thứ 4 của thế giới, và thứ nhất của Hoa Kỳ. New Orleans
và Louisiana chứa 11% trữ lượng dầu hoả, và 19% trữ lượng khí đốt của Hoa
Kỳ, cung cấp 30 % lượng hải sản cho toàn quốc. 50% ngũ
cốc của Hoa Kỳ được
chuyên chở từ New Orleans. Tiểu bang Louisiana sản xuất bông vải, mía, lúa
gạo và các nông phẩm quan trọng khác của Hoa Kỳ. Vào đầu thế kỷ 18, đa số đất thuộc thành phố New Orleans còn là đầm lầy, và
bị lũ lụt thường xuyên, gây nhiều thiệt hại nhân mạng và kinh tế. Lụt ở New
Orleans do 3 nguyên do: (i) nước sông Mississippi tràn bờ; (ii) nước hồ
Pontchartrain tràn vào thành phố từ phía Đông Nam khi có bão; (iii) do mưa
lớn, nước không thoát hay bơm kịp. Louisiana có vũ lượng trung bình hàng năm
1,630 mm, mưa tập trung vào mùa hè, cũng là mùa bão tố, nên lụt đe dọa
thường xuyên. Sự thật không phải toàn thành phố New Orleans nằm dưới mực nước biển, nơi
gần bờ sông thì cao hơn mực nước biển, nhưng càng xa sông thì thoai thoải
thấp dần. Tựu chung 49% diện tích đất cao hơn, và 51% thấp hơn mực nước
biển, và tính trung bình New Orleans nằm 0.3 – 0.6 m dưới mực nước biển, nơi
thấp nhất 3 m dưới mực nước biển, và nơi cao nhất 4.8 m trên mực nước biển.
Nói chung, New Orleans là một polder như của Hoà Lan, có hệ thống đê sông
bao quanh thành phố dọc Mississippi và các sông rạch, và đê biển dọc Hồ
Pontchartrain.
Hệ thống đê (---) của thành phố Orleans (hình trên) và độ cao của thành phố
so với mực nước biển (hình dưới, bên mặt). Vị trí địa lý thành phố New
Orleans và tiểu bang Louisiana (Hình dưới, bên trái) New Orleans nằm kế bên Hồ Pontchartrain. Hồ này có diện tích 1,630 km², lớn
gấp 2 thành phố. Đúng ra đây là một cái phá (lagoon) nước lợ, có độ mặn
khoảng 1/2 nước biển, sâu trung bình 4 m, có nơi nạo vét sâu hơn để tàu biển
thông thương, ăn thông với Vịnh Mễ-Tây-Cơ qua cửa bể Rigolets. Hồ
Pontchartrain là đầu nguồn bão tố thổi vào New Orleans. Chung quanh hồ là
một hệ thống đê biển cao để chống lụt, bảo vệ thành phố. Năm 1738, bờ đê hai bên bờ sông Mississippi được xây dựng bằng đất, dài 68
km, để bảo vệ New Orleans chống lụt. Để giúp tàu thông thương trên sông, và
phát triển nông nghiệp trong thế kỷ 19, cây cối ven sông bị đốn bỏ, nên bờ
sông bị xói mòn. Năm 1879, Uỷ Ban Quản Trị Sông Mississippi ra đời, và vào
đầu thế kỷ 20, cho thiết lập đê kiên cố và nạo vét dòng sông. Trong 2 thập
niên 1930s và 1940s, Công Binh Hoa Kỳ sửa thẳng lại dòng sông để rút ngắn
thuỷ trình. Thập niên 1960, Công Binh đào 14 hệ thống kinh đào hàng hải
trong vùng đầm lầy. Các công ty dầu mỏ đặt 38,000 km ống dẫn dầu, đào giếng
dầu, đào kinh cho tàu chở dầu, v.v., vì vậy góp phần phá hủy môi trường vùng
đầm lầy. Ngày nay, trên đoạn bờ sông dài 1,520 km ở hạ lưu, một hệ thống đê dài tổng
cộng 3,200 km, cùng với 1,750 km hệ thống sông đào để thoát nước, đổi hướng
dòng nước và vận tải dầu khí cho thành phố. Những nơi có hiểm hoạ đe doạ bởi
sóng biển từ hồ Pontchartrain, các đê và tường-chắn-lụt (floodgate) cao và
kiên cố được thiết lập, có thể chịu đựng được sóng bão biển cao 4.2 m trên
mực nước biển. Ngoài ra, trong vùng đầm lầy, 1.5 - 3 m thấp dưới mực nước
biển, tiểu bang Louisiana cho đào khoảng 16,000 km kinh đào để giúp lưu
thông cho các giếng dầu mỏ. New Orleans sồng nhở hàng hải. Trong thời gian 1918-1923, một kinh đào hàng
hải nối Mississippi và Hồ Pontchartrain, mực nước hồ nhờ vậy dâng cao hơn
mực nước biển. Nhờ thuỷ lộ này, New Orleans phát đạt. Tuy nhiên, sau khi Inner Harbor Navigation Canal hoàn thành năm 1940, tiểu
bang đóng cửa thuỷ lộ Pontchartrain, làm thuỷ cấp New Orleans rút thấp đáng
kể. Tiếp theo, Công Binh thiết lập một hệ thống đê vòng đai bao quanh các
đầm lầy khiến nền đất thành phố bị lún sụp, có nơi lún sâu tới 2.4 m. Sau trận lụt do nước sông Mississippi phá
vỡ bờ đê năm 1927, thành phố New
Orleans thiết kế lại và phòng thủ lũ lụt bằng một hệ thống đê kiên cố hơn.
Một trận bão xảy ra tháng 9/1947, vỡ đê làm ngập lụt quận Jefferson của
thành phố, có nơi ngập 1m, gây tổn hại khoảng 100 triệu US$. Sau trận bão
này, đê chống lụt được xây dựng ở bờ nam Hồ Pontchartrain Trận bão Betsy ngày 10/9/1965, với gió 200 km/giờ, phá huỷ bờ đê và gây lụt
sâu 3 m, gây thiệt hại cho thành phố rất lớn. Sau trận lụt này, Công Binh
Hoa Kỳ được uỷ thác toàn quyền thiết kế và thiết lập hệ thống bảo vệ New
Orleans chống bão lụt, và dự trù hoàn tất trong 13 năm. Tựu trung, bờ đê
được nâng lên cao 4 m, đặc biệt tăng cường tường-chắn-lụt bằng ximăng cốt
thép ở những nơi thường xuyên đe doạ. Tuy nhiên, khi trận bão Katrina xảy ra
năm 2005, công trình trên chỉ mới hoàn thành được khoảng 60-90% bởi vì công
trình dự trù hoàn thành năm 2015, sau 50 năm được Quốc Hội phê chuẩn. Đê bao New Orleans làm bằng đất, khá rộng. Ở những vị trí hăm doạ nước sông
tràn qua đê, tường-chặn-lụt (floodwall) bằng xi-măng-cốt-sắt được xây hoặc
trên mặt đất bờ sông, hoặc trên mặt đê để ngăn lụt. Tuỳ theo vị trí,
tường-chắn-lụt cao từ 1.8 đến 3 m, trên mặt tường rộng 0.3 m, đáy tường 0.6
m, nằm trên nền móng bằng đất. New Orleans cũng như tiểu bang Louisiana, có
vũ lượng cao, 1,630 mm/năm, tập trung vào các tháng mùa hè. Để thoát nước
mưa, hay lụt tràn qua đê do bão cấp 3, một hệ thống kinh đào góp nước và một
hệ thống bơm vỉ đại được thiết lập, nhưng hệ thống này không đủ để bơm nước
lụt vỡ đê trong trận bão Katrina 2005. Bởi vì nền đất thành phố bị lún sụp,
khoảng 5 – 10 mm /năm theo như Louisiana State University khảo sát, do hậu
quả của việc thiết lập đê và hệ thống thoát nước, nên hệ thống đê tương đối
bị thấp dần so với mực nước biển. bão Katrina cấp 4 vào đất liền vào 6:15 giớ sáng ngày Chủ Nhật, 29/8/2005
với vận tốc 185 km/h, thổi qua New Orleans và bờ biển hạ lưu Mississippi.
Cùng với bão là mưa lớn đe doạ các vùng thấp. Khoảng hơn 50 đoạn đê và
tường-chắn-lụt bị nước lụt phá vỡ gây lụt lội cho 80% diện tích thành phố,
và thiệt hại to lớn. Ước tính từ không ảnh cho biết khoảng 95 tỷ lít nước
lụt trong thành phố ngày 2/9/2005. Ba tuần sau đó là trận bão Rita (ngày
24/9/2005) lại tàn phá New Orleans lần nữa. Đặc biệt là những đoạn đê bị phá
vỡ lại là các tường-chắn-lụt bằng sắt thép, trong lúc các đê bằng đất lại
không sao cả. Kết quả của 5 cuộc điều tra đi tìm nguyên nhân đê và
tường-chắn-lụt bị phá vỡ đều kết luận là Công Binh Hoa Kỳ đã làm dối hệ
thống bảo vệ chống bão lụt. Chẳng hạn, tường-chắn-lụt ở 17th Street Canal
2.1 m ngắn hơn trong đồ án thiết kế. Ngoài việc các đê đất và
tường-chắn-lụt-bằng-thép không đủ tiêu chuẩn, nền móng đất không vửng làm
nhiều bờ đê bị ngã. Lý do là đất ở độ sâu từ 4.5 m đến 9 m có một lớp than
bùn dày từ 2 m đến 6 m. Chính nền móng than bùn này, nhất ở vùng đất cạn gần
Hồ Ponchartrain, là nguyên nhân không bền vững của đê và tường-chắn-lụt.
Ngược lại, tại Hồ Borgne, đê không đủ cao để chận sóng bão cao 7m, cao hơn
mặt đê 3 m. Hậu quả của trận bão Katrina là Công Binh phải củng cố lại 560
km đê bảo vệ New Orleans, để chống bão cấp 4 và 5. 3. Giải tỏa áp lực nước sông
Nước sông Mississippi vào mùa lũ chảy siết, tràn bờ gây ngập lụt hàng năm.
Để giải tỏa sức nước, Công Binh Hoa Kỳ đã thiết lập nhiều hệ thống ngăn chặn
lụt ở hạ lưu, nhất là bảo vệ New Orleans, bằng cách xây dựng hệ thống chuyển
hướng nước sông. Ngày Tết năm 1927, một trận lụt kinh hoàng, nước sông Mississippi
vỡ bờ ở
145 địa điểm, gây ngập lụt một diện tích khoảng 70,000 km2, trong 6 tiểu
bang, với độ sâu 10 m, gây thiệt hại 400 triệu US$, và 246 người thiệt mạng.
Để ngăn ngừa lũ lụt tương tự như năm 1927, Bonnet Carré Spillway được hoàn
tất năm 1937 tại quận St. Charles Parish, Louisiana, khoảng 20 km tây New
Orleans. Đây là một công trình ngăn lụt cho New Orleans, gồm một hệ thống
cổng-ngăn-lụt (Floodgate) tại bờ đông của Mississippi, và một kinh đào để
tháo nước lụt của sông Mississippi vào Hồ Pontchartrain để thoát ra Vịnh
Mễ-Tây-Cơ. Cổng-ngăn-lụt chỉ mở khi nước sông Mississippi dâng cao. Kể từ
ngày thiết lập, đã có 8 lần mở cổng, lần mở gần đây nhất là ngày 11/4/2008,
khi nước sông Mississippi ở New Orleans dâng cao 5 m. Ngoài ra, trong thập niên 1950s, khảo sát cho thấy nhánh sông Atchafalaya
đoạt dòng nước của nhánh Mississippi, vì nhánh sông Atchafalaya ngắn và dốc,
gây ảnh hưởng xấu đến hàng hải và sự phồn thịnh của thành phố New Orleans,
nên Quốc hội Liên Bang thông qua Công Trình kiềm chế chuyển hướng của dòng
sông (Old River Control Structure). Một hệ thống cổng-ngăn-lụt (floodgate)
được Công Binh Hoa Kỳ thiết lập hoàn thành năm 1963 tại chổ rẻ của 2 nhánh
sông này (cách biển 507 km). Trong mùa thông thường, cổng-ngăn-lụt phân
lượng nước 70% chảy vào nhánh Mississippi (chảy qua New Orleans, cho tàu bè
thông thương), và 30% chảy vào nhánh sông Atchafalaya, nhưng trong trường
hợp có nguy cơ lụt cho New Orleans thì cho nước chảy vào Atchafalaya để
thoát nước ra biển nhanh hơn để giảm áp lực tràn vỡ đê bảo vệ New Orleans.
4. Công trình bảo vệ bờ biển Louisiana
Tùy theo vị trí địa dư, sóng biển, dân cư, môi sinh, v.v. những công trình
bảo vệ duyên hải Louisiana được Công Binh thực hiện. Tăng cường đê đất trên giồng-duyên-hải. Đất giồng-duyên-hải là các đụn
đất/cát tự nhiên chạy dọc bờ biển, cao hơn mức nước biển và cao hơn đất bên
trong nội địa, thường là đầm lầy. Để bảo vệ các giồng duyên hải thiên nhiên
này, ở những nơi có bão tố gây sóng biển lớn, đê đất, hay tường xi măng cốt
sắt, hay hàng rào gổ, đựợc thiết lập trên các giồng này để chận cát, hay
ngăn sóng. Trên các giồng này, trồng các loại cỏ, thực vật chống cát di
chuyển để ổn định đê và giồng cát.
Đê đất với thảo mộc chịu nước mặn hay phên gổ và trồng cỏ để chận cát bay
Tường-biển (seawall) bằng xi măng cốt sắt kiên cố dọc theo biển, nhằm
bảo vệ
thành phố đông dân cư và các kiến trúc đường sá bên trong. Tường-biển mặc
dầu kiên cố nhưng đôi khi cũng bị phá hủy khi bão lớn. Chẳng hạn trên đoạn
tường-biển dài 1.8 km ở vùng Bayou Lafourche xây năm 1985 bị bão tố phá huỷ
và bờ biển bị sạt lở đẩy lùi vào bên trong có nơi tới 35 m.
Thảm đá (revetments). Đổ đá khối hay khối bê-tông dọc bờ biển để làm giảm
sức sóng. Công trình này được thiết lập trong thập niên 1980s để bảo vệ Đảo
Timbalier.
Tường-thẳng-góc (Groins). Nơi có dòng nước chảy làm xói lở bờ biển, các
tường bằng xi măng cốt sắt, hay gổ, hay đá đặt thẳng góc với bờ biển, để
chặn hay giảm sức sóng hay dòng chảy để phù sa lắng đọng ngay chân tường.
Khối-cản-sóng (Breakwaters) Đó là các công trình hoặc bằng đá khối, hoặc khối bê-tông cốt thép đặt ngoài
biển, gần bờ, song song với bờ biển, hoặc ngầm dưới nước, hay cao hơn mực
nước, với khoảng cách được tính toán để giảm thiểu sức sóng, và giúp phù sa
lắng đọng dọc bờ biển.
Đoạn khối–cản-sóng tại Holly Beach, Louisiana Những công trình chống
bão lụt của thành phố New Orleans cũng như bảo vệ bờ
biển Louisiana đều do Công Binh thiết kế và xây dựng. Hạ Viện uỷ nhiệm Công
Binh Hoa Kỳ thực hiện 5 công trình chống bão lụt cho vùng duyên hải
Louisiana, trong đó có 2 công trình cho thành phố New Orleans (Lake
Pontchartrain and Vicinity Hurricane Protection Project và The West Bank and
Vicinity Hurricane Protection Project). Công Binh Hoa Kỳ thiết kế các đê này
chỉ bảo vệ được bão cấp 3 mà thôi, trong khi bão cấp 4 hay 5 (như Katrina)
thỉnh thoảng xảy ra. 5. Vấn đề do đê điều gây ra
Thiết lập hệ thống đê điều ở hạ lưu Mississippi đã biến vùng đầm lầy thành
đồng bằng phì nhiêu, các đô thị đông đúc phồn thịnh, góp phần quan trọng vào
sự phồn vinh của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, có những mặt trái gây nên:
Đồng bằng hạ lưu Mississippi thiếu phù sa bồi đắp. Hàng năm, Mississippi
mang theo dòng nước khoảng 159 triệu tấn phù sa. Trước kia, khi chưa có hệ
thống đê, lũ lụt hàng năm bồi đấp phù sa vào cánh đồng làm phì nhiêu đất
đai, vào các đầm lầy, tạo thêm tam-giác-châu lấn ra biển, các
giồng-duyên-hải được bồi đắp thêm cao và rộng hơn. Ngay trong biển, nhửng
cồn, đảo nhỏ thành hình, lớn dần, là những chướng ngại thiên nhiên chống bão
tố cho vùng Louisiana và Texas. Ngày nay, các nghiên cứu và hình ảnh vệ tinh cho thấy, phù sa sông
Mississippi trong mùa lụt chảy thẳng ra biển sâu, một phần lặng tụ ở biển
sâu xa bờ biển tới 80 km, một phần theo dòng nước đưa đến bờ tây của
Florida. Lún sụp đất. Thành phố New Orleans xây cất trên vùng đất đầm lầy, nền móng
là một lớp than bùn dày 4-10m. Hệ thống đê cao bao quanh, cùng với hệ thống
thóat nước, đất khô co rút thể tích, hậu quả là đất bị lún sụp. Nghiên cứu
của Louisiana State University tường trình là New Orleans lún khoảng 5 – 10
mm /năm. Trong vùng đầm lầy, trong tam giác châu, có nơi lún sụp tới 2.4 m.
Nước biển dâng cao. Trong bối cảnh nước biển dâng cao do hậu quả hâm nóng
toàn cầu, nước biển vùng Vịnh Mể Tây-Cơ dâng cao trung bình 1.2 mm/năm.
Nhưng vì nền đất vùng đầm lầy duyên hải bị lún sụp do thiếu phù sa bồi đấp,
bị khô vì hệ thống đê điều, nên hiện nay nước biển dâng cao trung bình 1.2
cm/năm, gây nên mất đất trầm trọng ở vùng duyên hải Louisiana và Texas.
Xói lở bờ biển. Kể từ 1900, biển xói lở xâm nhập vào nội địa, từ 3 m đến 20
m/năm, tùy nơi, và riêng Louisiana đã mất khoảng 260 km² đất duyên hải.
Biến mất đất đầm lầy. Kể từ 1930, Louisiana mất khoảng 3900 km2
vùng-đất-ngập, trung bình mất 65 đến 90 km2/năm. Lý do (i) hệ thống đê sông,
đê biển ngăn chặn phù sa bồi đắp, (ii) do hệ thống kinh đào chuyển vận khai
thác dầu hoả làm xói lở, (iii) đất bị lún sụp vì bị thoát thuỷ, (iv) nước
biểnVịnh Mexico dâng cao hơn và bão tố thường xuyên, (v) nước mặn xâm nhập,
và (vi) thực vật trong các đầm lầy bị chết vì môi trường bị thay đổi đột
ngột, vì nước biển xâm nhập. Riêng trận bão Katrina (9/2005) và Rita
(10/2005) làm mất khoảng 260 km² đất vùng đầm lầy. Theo ước tính của Ủy Ban Quản lý Tái Tạo Duyên Hải của tiểu bang Louisiana,
với vận tốc mất đất hiện hửu, thì vào năm 2050 Louisiana sẽ mất thêm 213,000
ha đất vùng đầm lầy, như vậy bờ biển sẽ tiến vào nội địa khoảng 48 km. Hậu
quả sản xuất hải sản sẽ giảm 30%. Các giếng dầu lửa, khí thiên nhiên, hệ
thống kinh cho tàu bè sẽ bị ảnh hưởng nặng nề, sẽ ảnh hưởng vào thất nghiệp
và phồn vinh cho các thành phố phương nam. Biến mất các cồn nổi, đảo-chắn (barrier islands) trong biển cạn. Vì thiếu
phù sa bồi đắp, vì bị bão tố, sóng biển phá hủy, các cồn phù sa và đảo chắn
bị xói lở và biến mất. Trong vòng 100 năm qua, 40% các cồn nổi và đảo-chắn
này chìm biến mất. Nguy cơ hăm dọa của bão tố nhiều hơn. Vùng đầm lầy dọc duyên hải và các cồn,
đảo chắn phù sa trong vịnh Mể Tây Cơ là các rào cảng thiên nhiên chống bão
tố cho vùng duyên hải và hạ lưu Mississippi. Nếu các đầm lầy và các đảo chắn
này bị biến mất, nguy cơ bão tố gây thiệt hại sẽ trầm trọng hơn cho các
thành phố trên duyên hải và xa hơn trong nội địa. 6. Sửa chửa vấn đề
Lý do chính của những vấn đề tiêu cực nói trên là do hệ thống đê dọc sông
ngăn nước lụt và phù sa vào tam-giác-châu và các đầm lầy dọc duyên hải, làm
môi sinh ở các đầm lầy duyên hải bị hủy hoại, gây nên lún sụp nền móng và
xói lở bờ biển. Để duy trì kinh tế, chánh là dầu khí, nông nghiệp, công nghiệp, thương
nghiệp và hàng hải của vùng duyên hải, các chuyên gia củng cố lại hệ thống
đê sông và đê biển bảo vệ các thành phố và khu đông dân, nhưng đồng thời tạo
lại lụt lội hàng năm cho các vùng đầm lầy gần bờ biển. Để tái tạo vùng-đất-ngập, Công Binh phá
vỡ những đoạn đê gần biển, thiết lập
các cổng-lụt, để kiểm soát việc đưa nước lụt mang phù sa vào vùng đầm lầy.
Bắt đầu năm 1991, công trình Caernarvon đưa nước Mississippi vào các đầm lầy
rộng 65 km2 bên dưới New Orleans. Công trình Bonnet Carre đưa nước vào Hồ
Pontchartrain và 40 km² đầm lầy kế bên. Công trình thứ ba, đưa nước từ hồ
Davis Pond đến khu đầm lầy rộng 350 km2 ở phía nam New Orleans. Công trình Caernarvon (1991) và Davis Pond (2002) đã thành công chuyển nước
lụt của Mississipi vào khu đầm lầy, làm giảm nguy cơ lụt do sông Mississipi,
đẩy lùi nước mặn, và tạo thêm được đất mới ở các dầm lầy nước lợ của các
vùng biển bị soi mòn. Tái tạo các đảo-chắn ngoài biển bằng cách xây các công trình giúp lắng tụ
phù sa, chống xói lở bờ. Chẳng hạn đảo Queen Bess mất 60% diện tích vì bị
lún sụp và xói lở trong thời gian 1956-1989, được tái tạo lại từ 1990 với 2
công trình chính: (i) một hệ thống đê bao quanh đảo, và các rạch nước trong
đảo, đồng thời trồng cây hai bên và trên đê (Myrica cerifera, Iva
frutescens, Lycium halimfolia và cây mấm - Avicennia germinans); và (ii) đổ
30,000 tấn đá quanh đảo.
Đảo chắn trước (trái) và sau khi (phải) tái tạo với thảo mộc xanh tốt Một dự án khác đang nghiên cứu là cắt một đoạn đê ở vị trí khoảng 150 km nam
New Orleans, và khoảng 30 km cách bờ biển hiện nay, để đưa nước ngọt
Mississippi và mang phù sa vào các đầm lầy dọc duyên hải, thay vì chảy thẳng
ra biển khơi như hiện nay, để tạo một tam giác châu mới, rộng 1000 km2, để
làm bảo vệ New Orleans và Louisiana, đồng thời đẩy lùi nước biển xâm nhập
vào vùng đất duyên hải. Nếu dự án này được chấp thuận, một tam giác châu mới
rộng từ 700 đến 1000 km2 sẽ thành hình trong 100 năm tới. 7. Khác biệt giữa hạ lưu Mississippi và Hạ Hòa Lan
Sau khi
bão Katrina tàn phá vùng duyên hải Louisiana, đặc biệt New Orleans,
nhiều người đã tự hỏi là tại sao một nước Mỹ giàu có, với kỹ thuật tối tân,
lại không bảo vệ đựơc thành phố New Orleans như Hòa Lan đã bảo vệ được vùng
Hạ Hòa Lan. Hai vùng này cũng có những đặc tính giống nhau, thấp hơn mực
nước biển, bị bão tố thường xuyên, dân cư đông đúc và tầm quan trọng kinh
tế. Tuy nhiên có những khác biệt. Nền móng của vùng Hạ Hòa Lan tương đối vững chắc trên nền đá, trong lúc hạ
lưu Mississippi là lớp phù sa tích lũy cùng với than bùn. Nền đất của hạ lưu
Mississipi bị lún sụp nhiều hơn, nên không thích ứng việc xây những đê và
cống vỉ đại như Hòa Lan. Bão ở Biển Bắc Âu Châu không lớn bằng bão nhiệt đới của vùng Vịnh
Mễ-Tây-Cơ. Bờ biển Louisiana dài gấp 3 lần bờ biển của Hạ Hòa Lan, thiết lập một hệ
thống đê như Hòa Lan thì Hoa Kỳ không có đủ ý chí để thực hiện Các sông ở Âu châu là các sông nhỏ ít phù sa, trong lúc Mississippi là một
sông vỉ đại, gây lụt lội nhiều hơn, trong lúc lụt ở Hòa Lan thường là từ
biển. Người Hòa Lan quan tâm về sự sống còn phồn vinh của đất nước nên hy sinh
phần môi sinh, ngược lại người Mỹ đặt quá nặng vấn đề môi sinh. Vì vậy, Hòa
Lan thiết lập một hệ thống đê biển dọc bờ biển bảo vệ cho cả vùng Hạ Hòa
Lan, còn Hoa Kỳ chỉ thiết lập đê nhỏ bảo vệ cho mổi thành phố. Và quan trọng nhất,
bảo vệ Hạ Hòa Lan là ưu tiên của chính phủ, mọi đảng
phái và toàn dân Hòa Lan, trong lúc Hoa Kỳ không đặt nặng vấn đề này. Chính
phủ và Quốc Hội Liên Bang chỉ chuẩn y sửa chửa vấn đề khi biến cố đã xảy ra,
sau đó vào quên lảng. Tài liệu tham khảo:
Experts: Dutch Flood Solutions Wouldn't Work Well in LA. http://www.wafb.com/Global/story.asp?S=4496222 Blanco, K.B. Saving Louisiana’s delta. http://usinfo.state.gov/journals/itgic/0404/ijge/gj06.htm Camp, E.R. 1999. Design and implementation of a gis for Louisiana’s coastal
management division. Louisiana Department of Natural Resources, Coastal
Management Division. Campbell, T., Benedet, L., Mann, D., Resio, D., Hester, M.W. and Materne, M.
2004. Restoration tools for Louisiana’s gulf shorelines. In “Louisiana.
Ecosystem restoration study. Chapter 6. Report November 2004. Page
D143-D-186 Campanella, R. Geography of New Orleans. Carter, N.T. (2005). New Orleans levees and floodwalls: Hurricane damage
protection. CRS Report for Congress. Dean, R.G. 2006. New Orleans and the Wetlands of Southern Louisiana. New
Scientist, 36. Grunwald, M. and Glasser, S.B. (2005) Experts Say Faulty Levees Caused Much
of Flooding. Washington Post, 21/9/2005. Hecht, Jeff (1990) The incredible shrinking Mississippi Delta. New Sientist. US Army Corps of Engineers. 2004. Louisiana Coastal Areas (LCA). Louisiana.
Ecosystem restoration study. Report November 2004. Wikipedia: New Orleans, Louisiana; Mississippi River; Mississippi River
Delta; 2005 levee failures in Greater New Orleans; Lake Pontchartrain;
Drainage in New Orleans. Winslow, L. New Orleans Levee system History.
http://ezinearticles.com/?New-Orleans-Levee-System-History&id=65886 Reading, 1/5/2008 Trần-Đăng Hồng Phần 3: Kinh nghiệm Bangladesh |