Trong Chương trình phối hợp thống nhất hành
động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2010 có yêu cầu phát huy vai
trò của các nhân sĩ, trí thức tiêu biểu, người cps uy tín trong đồng
bào các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo, người Việt Nam ở nước
ngoài.Nói cách khác Mặt trận cần nêu cao tinh thần tôn trọng và
phát huy vai trò của đội ngũ nhân sĩ, trí thức.
Bác Hồ là vị lãnh tụ đặc biệt quý trọng trí
thức. Trong thư gửi Tổng bộ Việt Minh Bác đã viết: “ Việt Minh định
tổ chức một Chính phủ rộng rãi, gồm tất cả các nhân tài trong nước để
gánh vác việc quốc gia. Lúc đó có người nghĩ rằng các nhân sĩ có danh
vọng chưa chắc vui lòng hợp tác với Việt Minh. Song vì Việt Minh đặt
quyền lợi Tổ quốc và dân tộc lên trên hết, và lấy lòng chí công vô tư
mà làm việc, cho nên các bậc có tài đức, danh vọng vui lòng hợp
tác trong Chính phủ” (HCM toàn tập, 1995,T.5, tr.412). Khi thành
lập Chính phủ tại kỳ họp thứ hai Quốc hội Khóa I (ngày 3-11-1946) Bác
Hồ đã đề nghị lựa chọn khá nhiều trí thức không phải là đảng viên. Đó
là Bộ trưởng (BT) Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng, BT Bộ Giáo dục Nguyễn
Văn Huyên, BT Bộ Giao thông công chính Trần Đăng Khoa, BT Bộ Y tế
Hoàng Tích Trí, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe, BT Bộ Canh nông Ngô
Tấn Nhơn, BT Bộ Cứu tế Chu Bá Phượng, BT Không Bộ Nguyễn Văn Tố và Bồ
Xuân Luật. Về sau Bác cho biết: “ Khi tổ chức Chính phủ lâm thời,
có những đồng chí trong Ủy ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra,
đáng lẽ tham gia Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui,
để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh.
Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích
của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một
cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học” (Sách đã
dẫn,1996, T.6, tr.160). Năm 1947 Chính phủ được cải tổ với sự tham gia
thêm của một số trí thức ngoài Đảng khác như BT Kinh tế Phan Anh, BT
Ngoại giao Hoàng Minh Giám. Sau khi cụ Huỳnh Thúc Kháng tạ thế Bác Hồ
mời cụ Phan Kế Toại làm Quyền BT Bộ Nội vụ. Khi đó trong Chính phủ có
tới 10 vị là người ngoài Đảng nhưng đều là những trí thức nhiệt tình
và đem hết tâm trí ra để hoàn thành trọng trách của mình. Ông Tạ
Quang Bửu là một nhà toán học nổi tiếng (lưu học tại Đại học Paris,
Bordeaux -Pháp và ĐH Oxford-Anh) về nước năm 1934 và dạy hoc ở Huế.
Năm 1945 cùng LS Phan Anh ra Hà Nội để tham gia Cách mạng. Tháng
3-1946 tuy chưa vào Đảng ông đã được Bác Hồ giao cho làm Thứ trưởng Bộ
Quốc Phòng. Tháng 8-1947, tuy chỉ mới được kết nạp vào Đảng tròn 1
tháng ông đã được giao trọng trách làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chỉ có
Bác Hồ mới dám tin dùng cán bộ trí thức như vậy. Sau ngày Hòa bình lập
lại, ngày 20-9-1955 Chính phủ được bổ sung và thay đổi nhân sự. Đến
lúc này trong Chính phủ vẫn còn tới 8 vị BT là người ngoài Đảng. Có
những vị BT tuy ở ngoài Đảng nhưng đã hoàn thành một cách xuất sắc
cương vị công tác của mình trong mấy chục năm liền (Nguyễn Văn Huyên,
Phan Anh, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đăng Khoa...) . Cụ Phan Kế Toại về sau
được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ.
Bên cạnh các vị trí thức tham gia Chính phủ ,
Bác Hồ còn ân cần chăm sóc đội ngũ trí thức ngoài Đảng tham gia trực
tiếp trong các ngành giáo dục, y tế, khoa học...Trong bản báo cáo với
Bác sau cuộc Chỉnh huấn ở chiến khu Việt Bắc, GS Hồ Đắc Di viết:
“Hôm qua tôi đã tu trong chuyên môn, say
mê với kỹ thuật, ngày mai tôi sẽ ăn chay nằm đất trong quần chúng, vui
sống với nhân dân. Lời hứa này tôi quyết tâm thi hành”. Và quả
đúng như vậy, trong suốt cuộc đời mình GS Hồ Đắc Di cùng các trí thức
lớn được Bác Hồ giao trọng trách xây dựng ngành Y tế như Tôn Thất
Tùng, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước, Đặng Văn Chung, Đỗ Xuân Hợp ...đã
có những cống hiến hết sức xuất sắc. Bác Hồ đã theo sát từng bước tiến
của các trí thức này và thường xuyên có những thư ngắn để động viên,
thăm hỏi. Một cái thiếp Bác gửi cho GS Tùng chỉ có vài dòng nhưng chứa
chan tình thân ái :
“Bác sĩ Tùng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và
Bộ trưởng Bộ Y tế báo cáo: chú làm việc rất hăng hái. Tôi rất vui
lòng. Chú cứ gắng sức. Kháng chiến nhất định thắng lợi. Tổ quốc sẽ nhớ
công con hiền cháu thảo. Thím và các cháu đều mạnh khỏe chứ? Tôi luôn
luôn bình an. Gửi chú và thím lời chào thân ái và quyết thăng”.Bác
còn đặt tên là Bách cho con trai cả của GS Tùng.
Bên ngành giáo dục cũng có rất nhiều trí thức
ngoài Đảng được Bác Hồ chăm sóc, bồi dưỡng và tin tưởng giao cho những
trọng trách nặng nề. Đó là GS Nguyễn Văn Huyên, vị Bộ trưởng tận tụy
hoạt động suốt 3 thập niên để xây dựng ngành giáo dục. Khi nghe tin
thân mẫu của GS Nguyễn Văn Huyên và bà Phan Kế Toại qua đời bác viết
ngay thư chia buồn với lời lẽ thật thân tình:
“ Cụ Phan, Bộ trưởng Bộ Nội vụ
Ông Nguyễn , Bộ trưởng Bộ giáo dục,
Tôi rất buồn được tin Bá Mẫu qua đời. Nhân danh
tôi và nhân danh Chính phủ, tôi kính gửi lời chia buồn với Cụ và Ông
cùng quý quyến.
Hồ Chí Minh”
Đó còn là rất nhiều GS ngoài Đảng khác như GS.
Ngụy Như Kontum, GS. Nguyễn Xiển, GS. Nguyễn Lân, GS. Trần Văn Giáp,
GS. Trần Văn Khang, GS. Nguyễn Thúc Hào, GS. Nguyễn Thạc Cát, GS.Ngô
Thúc Lanh.... được Bác cử sang Khu học xá Trung ương (Nam Ninh, Trung
Quốc) để góp phần đào tạo ra hàng nghìn giáo viên và trí thức chuẩn bị
cho đất nước sau khi kết thúc chiến tranh chống thực dân Pháp. Khi
đang làm nhiệm vụ Giám đốc Giáo dục Liên khu X, GS. Nguyễn Lân đã vô
cùng cảm kích khi nhận được tấm bằng khen của Bác Hồ với lời ghi
Một Giám đốc có tài kèm theo là một bộ quần áo lụa bên trong có
thêu hàng chữ Chúng cháu kính dâng Bác Hồ.
Về khoa học thì có lẽ trường hợp tiêu biểu
nhất là GS Trần Đại Nghĩa. Ông là KS Phạm Quang Lễ, Bác trực tiếp
thuyết phục ông và tìm cách bí mật đưa ông từ Pháp về nước để giao
trọng trách làm Cục trưởng Cục Quân giới. Bác còn tự tìm tên để đổi
cho ông. Bác nói:
“Việc của chú là việc đại nghĩa, vì thế kể
từ nay Bác đặt tên cho chú là Trần Đại Nghĩa. Dùng bí danh này để giữ
bí mật cho chú và để bảo vệ gia đình , bà con chú còn ở trong Nam”
Bác tin ai là không có nhầm. Là một Việt kiều
sống lâu năm xa Tổ quốc, mặc dầu bắt đầu từ hai bàn tay trắng nhưng
GS. Trần Đại Nghĩa đã ra sức góp phần tích cực xây dựng ngành quân
giới non trẻ để phục vụ trực tiếp cho chiến đấu. Có lần Bác gửi cho GS
Nghĩa một chiếc áo len với mẩu giấy ghi hàng chữ: “Chiếc áo sơ mi
của đồng bào Thái Lan tặng Bác. Bác tặng lại chú, mặc cho ấm để làm
việc tốt”. Có lần khác Bác còn căn dặn: “ Khi nào chú bị người
ta trù dập, chú báo ngay cho Bác biết để Bác giải quyết.”
Những chuyện ấm lòng như vậy đối với những
người trí thức ngoài Đảng kể sao cho xiết.
Bác phân tích: “ So với số nhân dân thì số
đảng viên chỉ là tối thiểu, hàng trăm người dân mới có một người đảng
viên. Nếu không có nhân dân giúp sức thì Đảng không làm được việc gì
hết...Ta cần hợp tác với người ngoài Đảng. Ta không được khinh rẻ họ,
chê bai họ...Cũng vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài, việc gì
cũng ôm lấy hết. Ôm lấy hết thì cố nhiên không làm nổi”. (Sđd,
1995, T.5, tr.238).
Ngày nay cả nước đã có tới trên 86 triệu
người, kể cả bà con sinh sống ở nước ngoài thì đã có đến gần 88 triệu
người. Trong khi đó mới chỉ có 3 triệu đảng viên. Có lần tiếp
xúc với cử tri trước ngày bầu cử Quốc hội tôi đã bị một người dân chất
vấn:
“ Trong lý lịch ông ghi 19 năm là Chiến sĩ
thi đua, vậy bây giờ ông hãy nói thật với cử tri là ông đã phạm tội
lỗi gì mà không được vào Đảng”.
Tôi chỉ biết trả lời là: “ Nước ta còn
trên 83 triệu người chưa phải là đảng viên, nhẽ nào họ đều là người
phạm tội?”. Trong quá trình tham
gia Quốc hội, nhất là lại ở trong Ủy ban Đối ngoại, rất nhiều lúc vị
trí ngoài Đảng của tôi lại là một hình ảnh tốt cho tinh thần Đại đoàn
kết của đất nước ta. Vừa qua Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc cũng
đã chất vấn Bộ trưởng Bộ Nội Vụ về việc chỉ cử đảng viên vào các chức
vụ lãnh đạo là lãng phí tài năng của 83 triệu người. Trung Quốc có tới
73 triệu đảng viên, trong số này thiếu gì nhân tài vậy mà họ đã cử
các ông Vạn Cương và Trần Trúc không phải là đảng viên giữ
các chức vụ Bộ trưởng Khoa học-công nghệ và Bộ trưởng Y tế,
ngoài ra còn có rất nhiều nhân sĩ ngoài đảng khác tham gia
công việc quản lý đất nước.
Ngày nay, đất nước ta đang đứng trước những cơ hội
lớn. Việt Nam đang có vị trí bình đẳng, là thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Các nước đang đầu tư vào nước ta
với những khoản tiền lớn và những công nghệ tiên tiến vì nhìn thấy ở
đây một môi trường kinh doanh ổn định về chính trị, phong phú về tài
nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn lực lao động. Trong cuộc bứt
phá lên này, nhanh hay chậm đúng hướng hay lệch hướng, giữ được độc
lập hay trở thành phụ thuộc, đảm bảo sự phát triển bền vững là huỷ
hoại môi trường? Tất cả có vai trò quyết định hết sức quan trọng của
những người trí thức Việt Nam . Thay vì việc định nghĩa thế nào là "người
trí thức", chúng ta hãy cố gắng tạo điều kiện cho những người trí
thức chân chính có điều kiện cống hiến hết mình cho nhân dân, cho Tổ
quốc.
Mỗi lần nghe nói đến ở đâu đó trên đất nước ta
thất thoát hàng triệu USD, hàng chục tỷ đồng, không riêng gì tôi
mà ai cũng thấy hết sức xót xa. Cách đây nhiều năm tôi may mắn được
Thủ tướng Chính phủ cấp cho 1 triệu USD để xây dựng Bảo tàng Giống
chuẩn vi sinh vật (VTCC). Mặc dầu chỉ giải ngân được có 700 nghìn
USD(!), nhưng chúng tôi cũng có được thiết bị phân tích ADN và hàng
năm da có thể công bố được nhiều chủng vi sinh vật hoàn toàn mới đối
với khoa học. Chúng tôi tham gia vào Tổ chức nghiên cứu vi sinh vật
của các nước Châu Á (ACM) và nhận trực tiếp được nguồn tài trợ cả về
thiết bị lẫn chuyên gia của Nhật Bản. Hội Vi sinh vật học Việt Nam đã
là thành viên chính thức của IUMS. Bảo tàng giống chuẩn vi sinh vật VN
(VTCC) cũng đã là thành viên chính thức cua WFCC. Tôi đề xuất với Thủ tướng Chính phủ cho phép nâng
cấp Trung tâm nghiên cứu Công nghệ sinh học của Đại học Quốc gia Hà
Nội thành Viện Vi sinh vật học và Công nghệ sinh họcvà được Chính phủ ký quyết định cho phép thành lập. Chúng
tôi rất hy vọng vào Dự án này và đang cố gắng hoàn thiện nhiều công
trình nghiên cứu về chế biến rác đô thị, sản xuất chế phẩm xử lý môi
trường nuôi tôm an toàn, chế phẩm Probiotic phục vụ chăn nuôi ,chế
phẩm Men Taq Polymerase thay thế nhập khẩu, chế phẩm nấm chống ung
thu? Sau khi tiếp nhận đợt đầu tư chiều sâu mới của Chính phủ chúng
tôi sẽ xây dựng phân xưởng sản xuất thử tại vị trí mới trên Hòa Lạc
của ĐHQGHN. Bước đầu chúng tôi đã thu hút được một số Tiến sĩ trẻ tốt
nghiệp từ các nước phát triển trở về làm việc và đã ký được hợp đồng
với Đại học Liège của Bỉ để cùng đào tạo Thạc sĩ ngay tại Hà Nội cho
ba nước Đông Dương.
Rõ ràng mong muốn của trí thức là có điều kiện cống
hiến, chứ không phải chủ yếu là đòi hỏi điều kiện đãi ngộ. Khi
các phòng thí nghiệm đã được trang bị tốt thì chúng ta đủ
điều kiện để các tiến sĩ trẻ trở về quê hương sau khi tốt nghiệp
tại nước ngoài. Nhiều người có tâm sự, là nếu họ ở lại làm việc ở nước
ngoài, họ sẽ có mức lương tới chục nghìn USD/tháng, nhưng làm việc trong nước có nhiều
niềm vui khác, trong đó có niềm vui rất lớn là được đem tri thức cống
hiến ngay cho nhân dân mình, Tổ quốc mình. Tôi cho rằng yêu cầu cần có
mức lương thoả đáng để đãi ngộ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay là vừa không khả thi, vừa không hợp lý. Vì anh tự coi la mình giỏi
giang vậy tai sao lai không tự nuôi sống được mình, anh có trình độ
làm ra sản phẩm mới, mà vi sao không nuôi sống được đơn vị mình ? Kinh
nghiệm các Viện nghiên cứu ở Trung Quốc mà tôi đã có nhiều dịp khảo
sát cho thấy: Bước đầu Nhà nước hoặc doanh nghiệp hỗ trợ đầu tư đủ
tầm, sau đó một thời gian họ tự nguyện cắt quỹ lương, nhưng vẫn có thể
trả lương rất cao nhờ vào khả năng nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật
của mình. Tôi đã thăm nhiều Công ty dược ở Đức và ở Nhật, họ nghiên
cứu cơ bản rất sâu để có thể tìm ra rất nhiều loại dược phẩm mới có
giá trị rất cao.
Vấn đề cấp bách hiện nay là Nhà nước phải tìm ra
được các nhà trí thức có đủ trình độ và đủ nhiệt huyết để trao vào
tay họ những nhiệm vụ cụ thể, đồng thời tạo điều kiện cho họ có thể tự
tập hợp cán bộ, tự tổ chức nghiên cứu và sản xuất thử. Chúng ta đã có
40 - 50 năm theo dõi hoạt động của các trí thức, nhẽ nào đến nay vẫn
không tin tưởng được ai để trao ngọn cờ vào trong tay của họ, tạo điều
kiện cho họ phát huy hết trí tuệ và sức lực của mình để làm tốt nhiệm
vụ được trao.
Vì một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, chúng ta có
cơ hội là hiện có rất nhiều trí thức gốc Việt đang làm việc tại các
trung tâm khoa học và công nghệ phát triển nhất trên thế giới. Họ
chiếm tới con số hàng trăm ngàn người, phần đông trong số này vẫn nặng
lòng với quê hương và mong muốn được góp phần xây dựng đất nước. Tuy
nhiên, họ nhìn vào các điều kiện làm việc của các trí thức trong nước
và sự quan tâm của chúng ta với trí thức mà e ngại chưa muốn đầu tư
trí tuệ về quê hương. Khi tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho trí thức
trong nước, chính là tăng sự thu hút đối với trí thức Việt Nam ở nước
ngoài. Bởi vì họ đã là những người thành đạt, đã có cuộc sống dư dật ở
nước ngoài, nếu họ có về nước là với ước nguyện được cống hiến nhiều
hơn là ước nguyện đe làm giàu. Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị đã
chỉ rõ nhiệm vụ: "Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ thống chính sách
thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí thức kiều
bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thoả
đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có
trình độ chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành,
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển
nền văn hoá, nghệ thuật của nước nhà".
Để Nghị quyết của Hội nghị Trung ương vừa qua
sớm đi vào thực tiễn cuộc sống, trước hết chúng ta cần tin cậy và tạo
điều kiện cho các chuyên gia có trình độ cao trong nước để họ có thể
phát huy hết sức lực và tâm trí của mình trong công tác đào tạo thế hệ
chuyên gia trẻ trong sự nghiệp phát triển khoa học - công nghệ, nhất
là đối với các lĩnh vực đang được coi là mũi nhọn. Hội đồng tư vấn
Giáo dục và Khoa học của Trung ương Mặt trận cần được tổ chức lại để
đủ sức tập hợp các trí thức đầu đàn và đóng góp cho đất nước những
kiến nghị xác đáng, có sức làm thay đổi những vướng mắc, trì trệ, tiêu
cực trong các lĩnh vực giáo dục và khoa học. Những kiến nghị của các
Hội đồng tư vấn khác cũng cần được đổi mới, trở thành những lực lượng
phản biện có chất lượng cao và được Đảng, Chính phủ thực sự tin cậy và
tôn trọng.
Phản biện là trách nhiệm không thể thoái thác
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bởi vì không có phản biện thì không có
chế độ nào có thể tránh được chủ quan, thiếu dân chủ và dẫn đến những
hậu quả đáng tiếc mà nhẽ ra có thể tránh được. Trong lĩnh vực phản
biện thì vai trò của trí thức trong và ngoài nước, của nhân sĩ trong
các dân tộc ít người và trong các tôn giáo cần phải được đặc biệt tôn
trọng.