Những bài cùng tác giả
Đầu năm nay, có tin Toyota và nhiều
hãng ô-tô khác đã phải triệu hồi cả triệu xe. Nhân dịp này, nhiều người kết
luận rằng TPS (Toyota Production System, Chính sách Sản xuất Toyota) là
không đúng. Ngoài ra, nhiều người tưởng rằng TPS và Lean Management là hai
triết lý sản xuất khác nhau hay lầm lẫn các triết lý quản lý với những công
cụ quản lý sản xuất do các kỹ sư đã sáng chế.
Trong bài này, chúng tôi xin trình bầy
chính sách sản xuất của Toyota và tính vạn năng của nó.
TPS là gì ?
Vào thập niên 1980, trước nguy cơ công
nghiệp Mỹ tụt hậu, chính phủ Hoa Kỳ đã ban cho đại học MIT (Massachusetts
Institute of Technology, Viện Công nghệ Massachusetts) một ngân sách để
nghiên cứu những nhân tố thành công của các xí nghiệp Nhật Bản đang đe dọa
sự sống còn ngành công nghiệp chế biến Tây phương. Tổ nghiên cứu nhận trọng
trách đó mau chóng chú tâm đến tập đoàn Toyota. Lý do là, trong hơn nửa thế
kỷ, Toyota đã có thể mỗi năm gia tăng 9,6 % số xe bán trên thi trường và,
cùng một lúc, liên tục gia tăng chất lượng và phẩm lượng các xe xuất xưởng.
Thành công ấn tượng của tập đoàn này làm nhiều người vừa ganh tị vừa cảm
phục (xem thêm bài "Bài
học Toyota" đã đăng trên Thời báo Kinh tế Sài
gòn).
Các giáo sư James P. Womack và Daniel
T. Jones, dẫn đầu tổ nghiên cứu của MIT, khám phá bí quyết của Toyota là
Lean Manufacturing (Sản xuất Gầy Còm) mà chúng tôi xin mạn dịch là Sản xuất
Đúng Mức. Tổng kết công trình nghiên cứu này được đăng trong cuốn sách nổi
tiếng "The Machine That Changed the World : The Story of Lean Production".
Cụ thể là cán bộ và nhân công Toyota
liên tục truy lùng để thanh toán tất cả các nguồn lãng phí. Lý luận của lãnh
đạo Toyota là như sau. Giá trị gia tăng là hiệu số của giá bán và giá thành.
Giá trị gia tăng sẽ tăng nếu xí nghiệp tăng giá bán hay giảm giá thành. Nếu
tăng giá bán thì xí nghiệp sẽ mất khách và suy thoái. Nếu giảm giá thành thì
sẽ không phải chịu những bất lợi đó mà lại có thể giảm giá bán và cướp thị
phần của đối thủ cạnh tranh.
Toyota phân loại ba nguồn lãng phí :
muda (無益, vô ích), muri (無理,
vô lý) và mura (斑, ban, lang lỗ hay là thất thường).
Để truy lùng và thanh toán lãng phí, những kỹ sư quản lý công nghiệp Nhật
như Taiichi Ohno, Shigeo Shingo, Genichi Taguchi và Masaaki Imai đã lập ra
một số triết lý quản lý như là just in time (sản xuất đúng lúc), SMED
(Single Minute Exchange of Die, thay đổi công cụ trong một phút), kaizen (改善,
cải thiện), genchi genbutsu (現地現物, hiện địa hiện
vật), heijunka (平準化, bình chuẩn hóa),... và một số
công cụ điều hành sản xuất như là jidoka (自働化, tự
động hóa) , nemawashi (根回, căn hồi), andon (行灯,
hành đăng), kanban (看板, khán bản), poka yoke (差错预防,
sai thác dự phòng),...
Sau hai chục năm nghiên cứu phương pháp
sản xuất và kinh doanh của Toyota, giáo sư Jeffrey K. Liker, đại học
Michigan, trình bầy phương pháp quản lý của Toyota trong "The Toyota Way:
14 Management Principles from the World's Greatest Manufacturer". Những
nguyên tắc này được các chuyên gia quản lý công nghiệp gọi là 14 nguyên tắc
hay TPS (Toyota Production System, Chính sách Sản xuất Toyota). Cuốn
sách đã trở thành sách vỡ lòng của mọi sinh viên và chuyên gia về quản lý
công nghiệp.
Một tập đoàn như Toyota có cả chục vạn
nhân viên làm việc trên bốn lục địa với cả trăm văn hóa dân tộc khác nhau.
Để những người đó hợp tác hài hòa thì lãnh đạo tập đoàn phải thống nhất tư
duy của nhân viên trên một nền văn hóa doanh nghiệp chung. Ngoài ra, hàng
triệu khách hàng của tập đoàn trên thế giới cần được biết mình sẽ được đối
đãi ra sao. Do đó, một tập đoàn kinh tế đa quốc gia thường có một cương lĩnh
để tự giới thiệu với khách hàng, chiêu mộ nhân viên và truyền bá văn hóa
doanh nghiệp của mình. Năm 2001, ngài Fujio Cho, chủ tịch công ty mẹ Toyota
Motors Corporation, công bố cương lĩnh của tập đoàn mang tên là "Toyota
Way 2001" (Đường lối Toyota 2001). Cương lĩnh được đăng trên trạm
Internet các chi nhánh của Toyota.
Vì không thể thú nhận đã bắt chước đường lối của một
đối thủ cạnh tranh hay của một xí nghiệp không thuộc ngành nghề của mình,
những xí nghiệp không phải là chi nhánh hay không thuộc hệ thống cung cấp
phụ kiện của Toyota bắt buộc phải tìm một tên khác :
Nissan Production Way (NPW, Đường lối Sản xuất Nissan), Ford Production
System (FPS, Chính sách Sản xuất Ford),... Phần đông thì người ta gọi TPS là
Lean Manufacturing theo tên đặt của giáo sư Wolmack và trào lưu bây giờ thì
gọi là Lean Management.
Khả năng xí nghiệp
Việt Nam áp dụng TPS
Nhiều người không muốn theo chính
sách TPS hay có áp dụng thử nhưng không thành công nói rằng TPS là một chính
sách đặc thù Nhật Bản, không thể áp dụng cho xí nghiệp quốc tịch khác được.
Có người còn hạn chế hơn nữa khi nói rằng TPS không thể áp dụng cho những
ngành kinh tế ngoài ngành sản xuất ô-tô Nhật Bản.
Những quan điểm này quá đáng.
Trước tiên, các kỹ sư Nhật nêu ở trên
đã viết những sách giáo khoa miêu tả một số công cụ kỹ thuật điều hành sản
xuất họ đã sáng chế. Họ đã đặt tên Toyota
Production System cho toàn bộ những công cụ đó.
Một văn hóa không ảnh hưởng gì đến việc áp dụng một công cụ kỹ thuật.
Điều thứ hai là, sau Đệ nhị Thế chiến,
tiến sĩ Edwards W. Deming, một chuyên gia về thống kê người Mỹ, theo tướng
MacArthur sang Nhật dậy cho người Nhật cách sản xuất có chất lượng như Hoa
Kỳ. Nhân đó, tiến sĩ Deming đã nêu 14 Điều về Quản lý (14 Points for
Management) đặt ra những điều kiện để áp dụng thành công những điều cụ dạy.
Các kỹ sư Nhật nêu ở trên có thể coi là học trò của tiến sĩ Deming và những
công cụ họ đã sáng chế là kết quả của sự áp dụng 14 Điều của Deming
(Deming's 14 Points). Khi giáo sư Liker, một người Mỹ, nêu ra 14 nguyên tắc
TPS thì những nguyên tắc này cũng tương đương với 14 Điều của Deming và chỉ
khác về từ ngữ thôi.
Điều thứ ba là những ngành công
nghiệp không phải là ngành sản xuất ô-tô đã thành công giảm giá thành và
nâng cao phẩm lượng và chất lượng một cách đáng kể khi áp dụng TPS. Toyota
cũng áp dụng TPS khi sản xuất những sản phẩm không phải là xe ô-tô. Hơn thế
nữa, nhiều xí nghiệp đã áp dụng TPS cho tất cả những hoạt động kinh doanh
chứ không giới hạn ở những hoạt động sản xuất. Bây giờ,
cụm từ Lean Manufacturing trở thành Lean Management (Quản
lý Đúng Mức) gọi tắt là Lean.
Vậy TPS có nguồn từ tư tưởng quản lý
công nghiệp Mỹ. Nói rằng phải có văn hóa Nhật hay phải làm trong ngành sản
xuất ô-tô mới có thể áp dụng TPS là không đúng với những nhận xét thực tế.
Những xí nghiệp Việt Nam, thuộc tất cả các ngành kinh tế, đều có thể áp dụng
14 nguyên tắc TPS.
Điều đã cho phép Toyota thành công
hơn những xí nghiệp khác là họ áp dụng những nguyên tắc TPS triệt để hơn
những đối thủ của họ. Đặc biệt, Toyota nổi tiếng là khởi động vòng tròn
Deming mau nhất và thường xuyên nhất và có tinh thần trách nhiệm xã hội
doanh nghiệp cao nhất (xem thêm bài "Cơ sở lý thuyết của việc đảm bảo
chất lượng" và bài "Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp" đã đăng trên
TBKTSG). Do đó lãnh đạo và nhân viên của Toyota đã phải chịu áp lực lớn để
cải thiện liên tục. Không phải là ngẫu nhiên mà tập đoàn này cũng là tập
đoàn có nhiều sáng kiến công nghệ nhất thế giới.
Từ một thế kỷ nay, môn quản lý công
nghiệp đã có ba lý thuyết lớn : tổ chức khoa học của
Frederick
W. Taylor, phân chia trách nhiệm tài
chính của Alfred P. Sloan và 14 nguyên tắc TPS của Toyota. Mỗi lần, các
ngành công nghiệp đã có những đột phá ký thuật và đã chia xẻ với người tiêu
dùng những tiến bộ về giá thành, phẩm lượng và chất lượng.
Hiện nay, Toyota gặp khó khăn với
những đợt triệu hồi xe liên tiếp. Nhân cơ hội giải quyết vấn đề này, vòng
tròn Deming sẽ quay và, vài năm nữa, rất có thể sẽ có thêm một lý thuyết
quản lý công nghiệp khác nữa. Nhưng 14 nguyên tắc TPS sẽ vẫn còn hữu hiệu và
thông dụng.
Vì những lý do đó mà chúng tôi kêu
gọi lãnh đạo và cán bộ Việt Nam nên tiếp tục nghiên cứu, học hỏi và
áp dụng những công cụ của TPS để mau chóng đưa đất nước lên hàng một cường
quốc công nghiệp,
Những sách cần đọc thêm
Ohno, Taiichi : "Toyota Production
System: Beyond Large Scale Production", Productivity Press (1988)
Shingo, Shigeo: A Study of the
Toyota Production System, Productivity Press, 1989
Womack ,James P., Daniel T. Jones và
Daniel Ross : "The Machine That Changed the World: The Story of Lean
Production", PaperPaperbacks (1991, tái bản 2007)
Womack, James P, Daniel T. Jones : “Lean
Thinking: Banish Waste and Create Wealth in Your Corporation”, Free
Press (2003)
Liker, Jeffrey K. : "The Toyota Way:
14 Management Principles from the World's Greatest Manufacturer", McGraw
Hill Professional (2004)
Imai, Masaaki : “Kaizen : The Key to
Japan's Competitive Success”, McGraw Hill (1986).
Deming Edwards W. : "Out
of the Crisis", MIT Press (2000)
-----
Chú thích Đường lối
Toyota 2001
http://www.toyotadesign.com.au/past toyota way.asp
Đường lối Toyota dựa trên hai cột trụ :
1. Cải thiện liên tục
2. Kính trọng con người

Cải thiện liên
tục
Cải thiện liên tục có nghĩa là chúng
tôi không bao giờ coi những thắng lợi hiện nay là những thành tựu cuối cùng.
Chúng tôi không bao giờ thỏa mãn với những gì đã đạt được và luôn luôn cải
thiện nghề của mình bằng cách đề xướng những ý kiến hay nhất và những cố
gắng lớn nhất : chúng tôi ham muốn mãnh liệt tạo ra những chọn lựa tốt hơn,
xét lại những thực hiện của chúng tôi và tìm tòi những đường hướng thành
công tương lai.
Chúng tôi có ba nền tảng định hướng cam
đoan của chúng tôi về cải thiện liên tục :
1. Thử thách – Chúng tôi có tầm
nhìn dài hạn, đối phó những thử thách với can đảm và óc sáng tạo để thực
hiện những ước mơ ;
2. Kaizen (改善,
cải thiện) – Chúng tôi cải thiện liên tục những tác động kinh doanh, luôn
luôn hướng tới sáng kiến và tiến hóa ;
3.
Genchi Genbutsu (現地現物,
hiện địa hiện vật) – Chúng tôi đến tận gốc của vấn đề để tìm những sự kiện
và ra những quyết định đúng đắn, được sự đồng thuận và đạt những mục đích.
Kính trọng con
người
Chính sách kinh trọng con người dựa
trên việc kính trọng nhân viên của chúng tôi cũng như kính trọng những cộng
đồng và những bên liên hệ xung quanh mà chúng tôi tự coi là một thành phần.
Chúng tôi kính trọng nhân viên của chúng tôi và tin tưởng rằng công ty chúng
tôi thành công nhờ những cố gắng cá nhân và sự chúng sức tốt.
Kính trọng con người được biểu hiện
bằng
1. Sự kính trọng – Chúng tôi kính trọng
người khác, cố gắng tìm hiểu lẫn nhau, lãnh trách nhiệm và làm hết sức để
tạo ra sự tín cậy lẫn nhau.
2. Sự chung sức – Chúng tôi khích
động những tiến bộ bản thân và nghiệp vụ, chia xẻ những cơ hội phát triển và
làm cho tối đa hiệu suất của cá nhân và của đồng đội.
Những nhân tố đó kết hợp lại tạo
thành DNA của công ty chúng tôi, định hướng điều hành mà mọi người và mọi
thành viên của Toyota trên thế giới đều có thể tiếp thu được và cho phép
chúng tôi bảo vệ những thành công tương lai của chúng tôi.
The Toyota Way
The Toyota Way is supported by two main pillars:
1. Continuous Improvement
2. Respect For People
Continuous Improvement
Continuous Improvement means that we never perceive current success as our
final achievement. We are never satisfied with where we are and always
improve our business by putting forth our best ideas and efforts: we are
keen to create better alternatives, question our accomplishments and
investigate future definitions of success.
There are three building blocks shaping our commitment to Continuous
Improvement: 1. Challenge - We form a long term vision, meeting challenges with courage
and creativity to realize our dreams;
2. Kaizen - We improve our business operations continuously, always driving
for innovation and evolution 3.
Genchi Genbutsu - We go to the source to find the facts to make correct
decisions, build consensus and achieve goals.
Respect For People refers to our own staff as well as the communities and
stakeholder groups that surround us and we are part of. We respect our
people and believe the success of our business is created by individual
efforts and good teamwork. Respect For People
Respect For People is translated in:
1. Respect - We respect others, make every effort to understand each other,
take responsibility and do our best to build mutual trust
2. Teamwork - We stimulate personal and professional growth, share the
opportunities of development and maximize individual and team performance.
These elements combined define our corporate DNA, provide a way of operating
that is recognised by each and every Toyota member around the globe and
enables us to sustain our success in the future.
|