Những bài cùng tác giả
Nhân ngày 9-11- 2009, 20 năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ
Đáp những câu hỏi nợ bạn bè, lẽ ra chẳng phải đợi hôm nay, ngày bức tường Bá
Linh sụp đổ 20 năm trước. Dẫu sao, đây cũng là dịp đánh dấu một cuộc đổi
thay toàn cầu khá ngoạn mục, trên diện ý thức hệ, rồi chính trị và kinh tế.
Thay đổi này chẳng chỉ ở Đông Âu mà còn cả Á Châu. Chủ nghĩa xã hội giáo
điều coi như đã vào chung cục, kể cả ở những nước mạo nhận danh nghĩa xã hội
chủ nghĩa, như Trung Quốc (TQ). Dù những con mèo lông trắng và đen cứ bắt
được chuột là dùng - cách nói của Đặng Tiểu Bình - đã được phát ngôn từ
nhiều năm trước khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nhưng giả như nếu sự cố này
không xẩy ra, tôi chắc con đường của TQ vào tư bản chủ nghĩa bảo kê bằng
những khẩu hiệu kiểu phát triển (kinh tế) trong ổn định (chính trị) sẽ bớt
tính ‘’rừng rú’’. Ở thời điểm cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang có hy
vọng được vãn hồi, và theo giới chuyên gia, vãn hồi là nhờ những quốc gia
mới nổi như Brazil, Ấn Độ và nhất là TQ, dư luận về một TQ siêu cường (thậm
chí có xu thế thành Đế Quốc) có vẻ là một thứ phao cứu cho phép người ta giữ
hy vọng tránh được những tác động tồi tệ có khả năng thay ‘’bước cáo chung
của lịch sử’’ kiểu Fukuyama – nghĩa là, thể chế chính trị dân chủ và nền
kinh tế thị trường - như giai đoạn dứt điểm của văn minh nhân loại.
1- Tại sao hệ thống XHCN sụp đổ?
Liên Xô - tức Đế Quốc Xã Hội - sụp đổ vì không thể cứ giữ mãi một xã hội
kinh tế yếu kém ( nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và trung), thu nhập bình quân
thấp, thông tin bịt kín một chiều, và nắm bộ máy quân sự-chính trị bằng một
thiểu số đặc quyền đặc lợi. Cuộc chạy đua võ trang với Mỹ khiến LX bó tay
trong khả năng nâng cao mức sống của người dân, đào sâu những rạn nứt xã hội
từ bên trong, và cho thấy một Đế Quốc thuần quân sự khó tồn tại mãi được.
Quyết định của Gorbachev không sử dụng 3 triệu lính LX để ‘’giữ’’ bức tường
Bá Linh, với tầm nhìn trung hạn, là không tránh né được. Thật ra, từ những
thập niên 60-70, giới trí thức ở những nướcXHCN đã thấy khá rõ sự bất cập
của thể chế chính trị độc trị cộng hưởng với một nền kinh tế chỉ huy qua
những kế hoạch tập trung. Họ từng nêu lên sự cần thiết một xã hội dân sự với
ít nhiều quyền tự do căn bản…Kể ra, những Sakharov, Zinoviev,
Sojentnitsyn…là điển hình. Trí thức ở Ba Lan, Tiệp, Đông Đức, Hung cũng khá
đông. Kornai, Havel…chẳng hạn. Bức tường Bá Linh sụp là một quá trình của
chiến tranh lạnh, không đột phát, không tình cờ…Nói kiểu thời thượng (!), nó
có tính cách qui luật.
2- Nếu là qui luật, tại sao vẫn còn TQ, VN, Bắc Hàn, Cuba?
Tôi không nghĩ TQ và VN, trừ khía cạnh độc trị, còn cái gì có thể gọi là
XHCN. Ngày xưa, XHCN đồng nghĩa chia đều cái khó, cái nghèo. Ở TQ hôm nay,
nghèo khó ( thậm chí tương đối là hơn xưa) được ‘’ lùa’’ lên đầu lên cổ nông
dân, chiếm khoảng 70- 80% dân số. Thu nhập thấp, lại mất đất vì Nhà Nuớc
(NN) công nghiệp và đô thị hóa, nông dân nay phải bán sức lao động với giá
rẻ mạt, tha phương cầu thực ở những thành phố lớn, ngày làm việc trung bình
khoảng 10-12 giờ, đêm chỉ có 2-3 mét vuông để trải chiếu ngủ, và cứ cuối năm
là hàng ba bốn trăm triệu người về quê ăn Tết. Dĩ nhiên, với độ tăng GDP
khoảng 7-10% thập kỷ vừa qua, TQ làm chóa mắt thế giới. Nhưng GDP là - nói
cường điệu- một ảo tưởng. GDP không cho thông tin gì về sự huỷ hoại môi
trường, về chỉ số an sinh xã hội ( chủ yếu gồm phúc lợi đến từ y tế và giáo
dục công cộng), về sự thất thoát do tham nhũng, về vấn đề phân bố lợi tức
bất bình đẳng có khả năng dẫn đến khủng hoảng an ninh xã hội. Theo thống kê
Liên Hiệp quốc thì chỉ số Gini đo tính bất bình đẳng phân bố lợi tức ở TQ là
46.9, tức thuộc lớp những quốc gia mấp mé mức có vấn đề ở châu Phi và dăm
nước châu Mỹ Latinh. Thật ra, lợi tức trung tuyến (median income) so với lợi
tức bình quân nói nhiều hơn về mức bất bình đẳng, nhưng tôi không có số liệu
đáng tin cậy. Sự bất bình đẳng này, ngoài giữa chủ -thợ, không chỉ giữa nông
thôn-thành thị, giữa các sắc dân (Tân Cương là một thí dụ) mà còn giữa các
vùng kinh tế (ven biển - nội địa, chẳng hạn). Hàng năm, số ‘’ tranh chấp’’
của nông dân về nhà đất, của công nhân về điều kiện lao động và lương bổng,
tăng lên đến cả trăm ngàn vụ. Nhưng thông tin bị bịt, thật khó xác định được
mức bất ổn xã hội.
Nay, xin nói về 3 nước còn lại. VN thì là một vệ tinh xoay quanh TQ, nhưng
là một vệ tinh chuyên ’’gia công’’ trong công nghiệp nhẹ, nợ nần như chúa
Chổm, tham nhũng là quốc nạn, và dăm năm gần đây có ý đồ (!) bán tài nguyên
thô (kể cả xuất khẩu lao động) vì thật mà nói, chẳng có gì khác để mang đi
bán cả. Tóm lại, cả TQ lẫn VN, dẫu rêu rao XHCN nhưng nay ai cũng biết là
hai nước này tuân thủ chủ nghĩa tư bản vừa rừng rú, vừa định hướng tư bản
nhà nước độc trị, rất nặng mùi vị phong kiến. TQ bóc lột lao động để sản và
xuất công nghiệp gia dụng hạng nhẹ, đang tìm cách vươn lên công nghiệp cấp
trung (xe hơi, viễn thông…). Độ phát triển kèm lời hẹn, cứ giầu lên, dù
không đồng bộ, nhưng ai nấy đều có phần hưởng. Và muốn phát triển, phải ổn
định, nghĩa là phải phục tòng theo cung cách Trung quân Khổng -Mạnh. Trung
quân, vua mới là tập đoàn lãnh đạo Đảng CSTQ. Và khi cần, thì động viên cái
gọi là lòng ái quốc, phà hơi làm sống dậy niềm tự hãnh Hán tộc qua những
động thái biểu diễn hào nhoáng như tổ chức Thế Vận hội, phóng phi thuyền lên
không gian, và rêu rao là chủ nợ số một của Đế quốc Mỹ. Nhà Nước TQ đã cho
xây khoảng 70 cái văn miếu thờ Khổng Phu tử trên thế giới, định tạo thị
trường ‘’ văn hóa’’ cho chính sách ổn định để phát triển, với tầm ngắm chính
là Phi Châu còn nhiều tài nguyên, nhưng ta sẽ nói chuyện này sau.
Còn lại, Bắc Hàn thì XHCN ở cái nghĩa xấu nhất, dùng khà năng làm vũ khí hạt
nhân như kế sách mặc cả với thế giới, với một tổ chức chính trị rập khuôn
thời phong kiến, và hẳn cũng bắt chước TQ trong nhiều khâu. Cuba là một hòn
đảo quá nhỏ, tối tối vẫn nhẩy rumba, cha cha cha…trong tiếng nhạc xập xình
mặc ai đó ban ngày bôi mỹ danh XHCN lên những mặt lộ lồi lõm ổ trâu ổ ngựa
vì đã lâu không có tiền bảo quản.
Nói cho cùng, tôi chẳng thấy XHCN ở Á Châu hay bất cứ đâu. Tôi nghĩ
Mác-Ăng-gen có sống dậy cũng chịu, lắc đầu, và (có lẽ) thở dài. Khi hai vị
cẩn thận loại ‘’ phương thức châu Á’’ ra khỏi phân tích kinh tế -chính trị
của mình, chắc là hai vị có khả năng tiên liệu khá xác đáng!
3- Xin anh nói thêm về TQ và cuộc trầm thoái kinh tế năm
2008-09.
Tháng 10-2008, tin công ty tài chính Lehman Brothers trên đà phá sản đã đẩy
cuộc trầm thoái mấp mé bờ vực một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Rồi
Goldman Sach, Merrill Lynch, AIG… cũng vậy. Bên Âu Châu, tình hình các nhà
băng và công ty tài chính không khá hơn. Những nước công nghiệp cao ở mọi
nơi đều đứng trước tình thế ‘’cạn nguồn’’ tín dụng (credit crunch), thứ mỡ
bôi trơn cho cỗ máy sản xuất kinh tế vận hành. Thế là ông Nhà Nước khối tư
bản chủ nghĩa Mỹ-Âu, xưa nay tuân thủ qui luật không (hay ít) can thiệp vào
thị trường đành phải ra tay. Một là cho vay (tức phải in thêm tiền) và bảo
trợ những công ty tài chính, và hai là bung những gói kích cầu ra để bù trừ
cho sự giảm mức tiêu thụ gây ra bởi kinh tế đình trệ, nạn thất nghiệp, sự
suy giảm tín dụng trong tiêu dụng. Đầu năm 2009, quả bong bóng trong thị
trường chứng khoán xì hơi, độ tụt giá những tích sản chóng mặt, và người ta
đã lo nguy cơ cuộc khủng hoảng toàn cầu 1929. G7, rồi G20, họp để cứu ứng
nền kinh tế thị trường coi mòi không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Kinh tế gia
Roubini, và nhà tài chính Weiss…đều đã tiên liệu cách đấy 2,3 năm tình trạng
‘’bóng vỡ’’ này. Ở Mỹ, lượng cung tiền tệ tăng gấp 2 từ thế chiến II. Chỉ
trong 4 tháng, Bernanke của FED đã tăng lượng cung tiền tệ gấp 2 lần, bằng
lượng tăng kể từ thế chiến 2 cho đến ngày Lehman Brothers gặp khó khăn. Thâm
thủng tài chính của chính phủ liên bang Mỹ lên đế 1400 tỉ dôla, 3 lần thâm
thủng năm trước. Nay, nợ của Mỹ lên 11 ngàn tỉ, và có khoảng 104 ngàn tỉ
công trái cần bảo chứng. Chia đổ đồng từng đầu người, mỗi công dân Mỹ nay
mắc nợ thế giới cỡ hơn nửa triệu đôla!
Nợ ai? Chủ nợ TQ có khoảng 870 triệu công trái. Tính thêm cả dự trữ đôla, TQ
nắm trong tay khoảng 2100 triệu, thành vị chủ nợ lớn nhất thế giới của Mỹ.
Chủ nợ có vấn đề của chủ nợ. Đi xiết nợ ư? Xiết thế nào? Trong khi với lượng
cung đôla, chắc chắn sẽ lạm phát: giá trị đô la giấy so với những mặt hàng
thật ( dầu, vàng, sắt, nhôm….) sẽ giảm. Khi TT Nixon cho thả nổi đôla năm
72, giá một ounce vàng từ 35 đô lên 60. Hôm nay, 37 năm sau, giá vàng là
1000 đô/ounce, tức tăng 300 lần. Và tiền đô vẫn là tiền thanh khoản trong
thương mại quốc tế, giá trị khống chế bởi chính sách tiền tệ ở Washington.
Như vậy, chủ nợ buộc phải nhấp nhổm như ngồi phải lửa là điều dễ hiểu. Ở
đây, xin nói thêm về chính sách tiền tệ TQ. Vì đặt trọng tâm lên xuất khẩu,
hàng TQ rẻ nếu đồng Nhân dân Tệ thấp so với ngoại tệ. Nhiều lần, Mỹ yêu cầu
TQ tăng giá đồng Nhân dân Tệ, bỏ chính sách kìm giá, để giảm áp lực cán cân
nhập siêu. Bốn năm trở lại đây, TQ thả nổi rất chừng mực đồng Nhân dân Tệ,
nhưng vẫn duy trì một mức sai lệch kiểm soát được. Nay, khi mức cầu kinh tế
Mỹ (và Âu Châu) suy giảm, TQ lại càng không có lý do tăng giá đồng Nhân dân
Tệ, vì làm thế thì không thể tiêu thụ được hết sản phẩm trên những thị
trường tiêu thụ. Hơn nữa, đồng Nhân dân Tệ tăng, tức giá trị đôla giảm. Và
giá trị món nợ của ông chủ nợ hẳn giảm theo. Nhưng nhìn lượng cung đôla như
nói trên, sự cố giá trị nó giảm trong tương lai là tất yếu. Đề nghị mới đây
về một rổ ngoại tệ (Đô Mỹ, Bảng Anh, Euro, Nhân dân Tệ, Rúp Nga, và vàng)
thay thế cho bản vị đô la Mỹ thì còn lâu mới thành hiện thực. Trong khi chờ
đợi ( 10 năm ?) , phải tìm cách hạ cánh an toàn, nếu có thể!
4- Hạ cánh an toàn, TQ làm thế nào?
Hạ cánh, được! Nhưng hạ cánh an toàn thì không hiển nhiên. Với lượng đôla
khá lớn nhưng giá trị bấp bênh ngoài tầm kiểm soát, TQ không còn ‘’ ẩn
thân’’ như lời Đặng Tiểu Bình khuyên đám đồng sự hậu bối là chớ kích động
nỗi lo của Nã Phá Luân khi ‘’con Rồng thức giấc’’. Sẵn đôla, phải tiêu thôi.
Rồng nay quẫy đuôi phun nọc rắn. Ở Phi châu, nơi tài nguyên thiên nhiên còn
nhiều, lại vẫn còn dị ứng với châu Âu, những chủ nhân ông thời thuộc địa
chưa mấy xa xôi. TQ nhìn thấy những cơ hội khổng lồ tại châu Phi. Kể từ năm
2001 tới nay, tổng thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi đã tăng gấp 10
lần. Riêng năm ngoái, giá trị thương mại là 107 tỉ dollar. Mười năm qua, TQ
bắt đầu ve vãn bằng cách viện trợ và cho vay để xây dựng hạ tầng cơ sở, phô
trương nghĩa vụ quốc tế lấy tiếng, ‘’ bôi trơn’’ tầng lớp lãnh đạo, bán khí
giới và luôn ủng hộ ‘’ ổn định’, nhất là ổn định những thể chế độc tài’ như
ở Darfur chẳng hạn. Gần đây, TQ đã kết cấu được với chính quyền ở Zimbabwe,
Congo, Sudan. Ba năm qua, TQ ký kết thuê dài hạn đất nông nghiệp, khai thác
tài nguyên địa chất, xây đập thủy điện, kiểm soát nguồn nước …Và chuyển sang
châu Phi mô hình cơ xưởng và một đội ngũ công nhân TQ khá đông, có nguồn nói
số này lên đến hàng vài trăm ngàn. Phải nói, thời thuộc địa châu Âu không
thừa người như TQ. Người Âu đến, phần lớn đi sau ít năm, chỉ hoạ hoằn mới ở
lại như trường hợp Algerie, hình thành lớp người mà người Pháp xách mé gọi
là những kẻ ‘’chân đen ‘’ (les pieds noirs). Với TQ, khác. Dân số đã lên 1
tỉ 3, tức 1/4 nhân loại, và người đông đất chật, sớm muộn họ cũng phải di
dân. Song song, vấn đề lương thực sẽ rồi có, đất nông nghiệp rất cần. Đã là
chủ nhân ông, có quyển sử dụng lao động như ý muốn. Công nhân Phi, hẳn phải
có. Nhưng cũng rất cần công nhân (sau này, cả nông dân) TQ, vì tay nghề, vì
ngôn ngữ, vân vân… Rồi cứ từng bước, họ sinh con đẻ cái, gây giống mới, và
sinh cơ lập nghiệp dài lâu. Sự đe dọa này sờ sờ khó giấu. Ở Alger, tranh
chấp xung đột giữa công nhân TQ và người bản địa đã xảy ra hàng loạt.
Người Châu Phi bắt đầu e ngại ‘’ thực dân mắt xếch’’. Trả lời một phóng
viên, TT Ôn Gia Bảo nói : “Từ lâu rồi đã có các cáo buộc là Trung Quốc tới
châu Phi để khai thác tài nguyên thiên nhiên của châu Phi và thực hiện chính
sách thực dân mới. Cáo buộc này theo tôi là hoàn toàn không có cơ sở. Ai là
người thực sự đặt ra những câu hỏi này? Có đúng là các quốc gia châu Phi,
hay lại là phương Tây đang theo dõi một cách lo ngại?”. Tuy nhiên, không chỉ
có phương Tây đặt ra câu hỏi, mà một số chính trị gia cao cấp của châu Phi
cũng lo ngại. Bộ trưởng Ngoại giao Nigeria, Bagudu Hirse, cho rằng TQ đang
ném tiền vào các thể chế tham nhũng và đàn áp tại châu Phi, nói : ‘’ Chúng
tôi chấp nhận những gì Trung Quốc đang làm. Chúng tôi chào đón sự đầu tư
của họ. Nhưng họ cũng phải hiểu rằng chúng tôi rất nhạy cảm trước các vấn đề
dân chủ và cai trị tốt. Chúng tôi không thể nào bắt đầu lo lắng chuyện bị áp
đặt cấm vận đối với Guinea hay Niger vì tội cầm quyền tồi tệ trong khi họ đi
sau lưng và thực hiện một số hợp đồng”. Dân biểu độc lập của Ai Cập, Mustafa
al-Gindi coi đây là cuộc chiến giữa phương Đông và phương Tây để giành lấy
chiến lợi phẩm từ châu Phi. Ông cho rằng các mối quan hệ cũ tại châu Phi
đang bị thử thách. Vô cùng lo ngại cách thức kinh doanh của TQ, ông phát
biểu : “Cho dù họ nói gì đi chăng nữa, thực tế rõ ràng là Trung Quốc không
đến châu Phi chỉ với các kỹ sư hay khoa học gia. Họ tới với các nông dân.
Đây là chủ nghĩa thực dân kiểu mới. .. Họ không có đạo đức, giá trị gì cả,
mà chỉ có một điều thôi, là: “Tôi muốn đất và chúng tôi sẽ lấy đất bất kể
bằng cách nào”.
Năm nay, Liên Hiệp Quốc đã cảnh báo việc cho thuê đất dài hạn khiến nông
phẩm có thể trở thành một loại khí giới ‘’ bỏ đói’’ người cho thuê. Ngoài
ra, và trên hết, TQ kiểm soát nước đầu nguồn những con sông lớn cũng đặt ra
vấn đề an ninh ở hạ lưu và lượng nước cung cấp cho nông nghiệp : đây là
những áp lực chính trị rất có trọng lượng khi TQ cần uốn nắn những quốc gia
khác vào con đường mình muốn. Cũng vậy, như đối với những quốc gia vùng Đông
Nam Á, những đập nước trên đất TQ ở thượng nguồn sông Mekong, sông Hồng …đều
là những điểm ‘’chẹt’’ sinh tử có thể sử dụng khi TQ cần áp đặt.
TQ không chỉ dùng ‘’ quyền lực mềm’’ với châu Phi hay với những nước Đông
Nam Á mà còn bỏ ra hàng tỉ đôla mua lại cổ phần của những đại công ty ở Mỹ,
Tây Âu, Úc...gặp khó khăn kinh tế. Phải nói, đây là một cơ hội hiếm hoi, và
nắm cổ phần trong một nền kinh tế toàn cầu tuân thủ những qui định quốc tế
còn hơn là giữ đôla mà giá trị thật bấp bênh. Nhưng ở khâu này, TQ gặp sự dè
dặt đáng kể vì có những khâu kinh doanh ‘’ chiến lược’’ các nước tiền tiến
không muốn bị kiểm soát hay để TQ ‘’xí’’ vào để tìm thông tin kỹ thuật. Và
cần tài nguyên dự trù trong phát triển, TQ tìm cơ hội hợp doanh để khai
khoáng . Chiến lược này cũng chẳng dễ ăn : chúng ta nhớ vụ đụng chạm giữa TQ
và Úc với những cáo buộc làm gián điệp kinh tế dẫn đến việc phải xé hợp đồng
đã ký kết giữa Chinalco và Rio Tinto theo đó TQ mua 9% cổ phần với giá 14
tỉ. Năm 2008, China Petroleum and Chemical Corporation (Sinopec), tập đoàn
dầu khí lớn thứ hai của thế giới chỉ sau ExxonMobil, cũng đã thất bại trong
việc mua 20% số vốn của Repsol YPF của Tây Ban Nha. Năm 2005, China National
Ossshore Oil Corp. (CNOOC) đã phải rút lại đề nghị mua công ty Mỹ Unocal với
giá 18,5 tỉ USD, vì đề nghị đó đã gây ra các phản ứng rất tiêu cực ở Mỹ.
Đối phó với trầm thoái kinh tế, các nước Tây Âu và Mỹ đề nghị TQ cùng thế
giới kích cầu, mở thị trường tiêu thụ nội địa, nhập khẩu nhiều, xuất khẫu ít
hầu tìm một thế quân bình toàn cầu. Gói kích cầu ở TQ, vào khoảng 550 tỉ,
chủ yếu nhắm xây dựng hạ tầng giao thông (đường sắt, xa lộ…), sau là hạ lãi
xuất và dễ dàng cho vay trong khâu bất động sản, giảm thuế nhà đất. Số tiền
cho những công ty nhỏ và trung bình vay được đổ vào nhà đất, lại tạo loại
bong bóng cố hữu, khiến giá nhà Thượng Hải nay cao như bất cứ thành phố Mỹ
nào. Lớp bần cùng đi làm công thất nghiệp, không được hưởng một chính sách
hỗ trợ an sinh, đã nghèo càng nghèo. Sau một thời gian, TQ có chiều thành
công trong việc kích thích kinh tế nội địa. Hiện tại, 200 triệu nông dân về
sinh quán bắt đầu lục tục lên thành phố kiếm việc mưu sinh. Tuy nhiên, TQ
vẫn chưa mở thị trường tiêu thụ nội địa, vẫn tiếp tục tăng xuất khẩu, tức
vẫn gây ra những mất quân bình. Ở ngắn hạn, TQ đã hạ cánh được. Ở trung hạn,
tức 10 -20 năm tới, hạ cánh an toàn hay không để tiến lên vai trò siêu cường
vẫn là một dấu hỏi. Một dấu hỏi lớn…
5- TQ siêu cường, là hiển nhiên? Việt Nam, muốn hay không, cũng sẽ rơi vào quĩ
đạo kinh tế TQ? Và TQ có khả năng thành Đế Quốc kỷ 21 này?
Nếu tính tổng sản lượng GDP, TQ có nền kinh tế đứng thứ 3 trên thế giới, với
¼ dân số địa cầu. Nếu tính GDP/đầu người thì hiện 130 triệu người làm được 1
đôla mỗi ngày, và 35% dân số, tức trên dưới 455 triệu người, chỉ thu nhập
dưới 2 đôla mỗi ngày, tức ở mức 700-750 đô la/năm. So vơí thế giới, người TQ
vẫn còn là nghèo. Hiện chế độ an sinh ( lợi tức hưu trí, y tế xã hội…) ở TQ
còn phôi thai, và mức bất bình đẳng phân bố đo bằng chỉ số Gini là cao, cảnh
báo tiềm ẩn xung đột lớn. Nếu xét đến mức phân bố theo vùng, rạn nứt giữa
những khu kinh tế đặc biệt ở duyên hải và những thành phố lớn đối với nội
địa mà nông nghiệp là chính càng ngày càng lớn. Ngoài ra, TQ phải đối mặt
với hiện tượng ‘’ lão hóa’’ trong cơ cấu dân số. Kèm theo, là vấn đề
môi
trường bị hủy diệt ở mức trầm trọng vì kỹ thuật kém và vì tầm nhìn ngắn.
Hiện thời, TQ đã khởi bước đầu vào công nghiệp nặng và trung, nhưng vẫn còn
tập trung trong khâu công nghiệp nhẹ nhắm xuất khẩu. Năm 2010 , TQ sẽ là
nước có mức xuất lớn nhất thế giới, nhưng vẫn kẹt ở cái thế phải dùng đôla
làm tiền tệ thanh khoản. Những nước mới nổi ( Brazil, Ấn, Nga, và Araby –
Saoudite) - gọi là BRIC- bàn nhau về phương sách thay đôla, nhưng có sớm
cũng phải 5,7 năm tới, và với điều kiện BRIC giữ được mức đoàn kết tối
thiểu. Điều này khó, khi xét quan hệ Ấn-TQ và Nga – TQ.
Nhưng nếu cứ có khả năng ‘’ ổn định’’ củng cố tập quyền về mặt chính trị,
chuyện vào vai siêu cường của TQ là có. Siêu cường, chẳng phải vì TQ có kỹ
thuật không gian cao, đóng được tầu ngầm nguyên tử, hay phóng được tên lửa
mang đầu hạt nhân xa 3000 km (hãy còn chậm 20 năm so với Mỹ). Siêu cường vì
bỏ vốn đi buôn hợp đồng thời cầm giữ đôla như giữ lửa trong tay. Siêu cường
vì có khả năng, như Âu Châu đầu cuộc Cách mạng Kỹ Nghệ thế kỷ 18- 19, ra sức
bóc lột giai cấp lao động trong nước và ăn cướp tài nguyên từ những thuộc
địa. Khả năng có, nhưng hiện thực thế nào thì còn phải chờ. Những lực cản đã
xuất hiện. Tây Âu, Nhật, Nga…bắt đầu quan tâm và có phản ứng trước chính
sách kinh tế đối ngoại của TQ. Còn vướng tay giải quyết vấn đề kinh tế mỗi
nước, hiện họ chỉ đánh động nguy cơ trước’’ quyền lực mềm’’ và khẫu hiệu
win-win ‘’ hài hòa’’ của Bắc Kinh.
Phần Việt Nam, có rơi vào quĩ đạo kinh tế TQ hay không thì là một quyết định
chiến lược, không cứ tất yếu kiểu một số người nghĩ, vì thế giới ở thế kỷ 21
này sẽ là, như lập luận trong phần sau, một thế giới đa cực. Và nói ngay,
hiện nợ ngập đầu ông chủ nợ hàng xóm, vào quĩ đạo TQ thì con cháu chúng ta
sẽ phải đi làm công ít là vài đời, thành nô dịch ô-sin chỉ vì chúng ta thiếu
tự tin, thiếu tự trọng, và khiếp nhược trước một TQ ảo được hóa trang khéo
léo và đánh bóng bằng lừa mị. Trên thực tế, TQ không đáng sợ đến độ chúng ta
phải qui hàng vô điều kiện.
Hiện nay, TQ có thể ví như một con voi. Voi bằng giấy ( phủ đôla móc từ
thặng dư lao động của nông dân phải đi làm công nghiệp trên thành phố), với
ba chân đất sét ( với môi trường hủy diệt, lao động lão hóa, và bất bình
đẳng trong phân bố lợi tức), một chân bằng gỗ (quân đội trung kiên với quyền
lực chính trị). Nhưng TQ đã cấm không cho phép quân đội ‘’ làm ăn’’. Chân gỗ
hẳn chẳng còn được đóng đế sắt, và lung lay thế nào thì xin đợi vòng quay
sau của bánh xe lịch sử.
Đế quốc kỷ 21? Chỉ vào vai siêu cường còn khó khăn thì TQ trở thành Đế quốc
chưa thể là chuyện hình dung ra được. Ngược đường lịch sử, Đế quốc La Mã
khai sinh từ một tổ chức quân đội kỷ luật và có khả năng kỹ thuật cao, sau
rao giảng Kitô giáo, một hệ thống giá trị hoàn thiện hơn những nền văn hoá
phôi thai ở Âu châu thời đó. Đế quốc Hồi đến sau, quân lực hùng hậu, phát
triển thêm một nền khoa học. Với kỹ thuật dẫn thủy độc đáo, và kèm vào kinh
Coran, cũng từ truyền thống tôn giáo vùng Trung-Cận Đông, họ mang tới châu
Phi những giá trị mới. Đế quốc Anh, thống trị mặt biển, khai mào cùng một số
nước Âu châu chính sách thuộc địa, mang theo hành trang những tư tưởng thởi
Phục Hưng và Khai Sáng. Đế quốc Mỹ, thắng Thế Chiến II, chia thế giới thành
hai, rồi đi rao giảng những giá trị Dân chủ, Tự do…Đế quốc Xã Hội cũng vậy,
bài rao giảng Mác-Lênin là rao giảng về những giá trị, nhưng tiếc là khả
năng trở thành hiện thực của những giá trị ấy không thật có. Kể sơ như vậy,
dẫu biết là không đầy đủ, nhưng tôi vẫn nói nhằm nhấn mạnh hai điểm sau :
Điều kiện cần để thành Đế quốc là lực lượng quân sự và kỹ thuật (kể cả kỹ
thuật chiến tranh) cao, và sau, điều kiện đủ là kèm theo đó một hệ thống giá
trị mới có khả năng thay thế những giá trị cũ kỹ lỗi thời. Về điểm đầu, TQ
còn khá lạc hậu so với những khả năng quân sự những nước tiên tiến. Về điểm
thứ hai, thật khó tưởng tuợng nổi một hệ thống giá trị thời Xuân Thu-Chiến
Quốc xưa hàng mấy ngàn năm lại có thể ảnh hưởng lên những con người thời đại
hôm nay, với những phương tiện truyền thông hiện đại. Dù có lập 70 Văn Miếu
thờ Đức Khổng ở nhiều nơi trên trái đất, và mặc dầu không có ác cảm gì với
nhà tư tưởng này, tôi vẫn tự thấy mình quả rất lố bịch khi tưởng tượng ra
một thanh niên da đen sì sụp lạy Ngài, miệng lập đi lập lại Quân, Sư,
Phụ…như thứ bùa chú để giữ ổn định cho những vị lãnh đạo Phi châu. Việc đi
xây Văn Miếu này chứng tỏ những nhà lãnh đạo TQ đang bế tắc trong sự tìm
kiếm một mô hình văn hóa có giá trị phổ quát toàn cầu ở ngưỡng cửa thế kỷ 21
này.
Kinh Tế thế giới có phục hồi được không? Bàn cờ thế giới sẽ thay đổi thế
nào?
Năm 2010 tới đây là một năm bản lề. Lạc quan, chuyên gia nói kinh tế Tây Âu
và Mỹ sẽ tăng trưởng, nhưng chừng mực. Bi quan, sẽ lên rồi xuống kiểu chữ W,
vì vẫn còn bong bóng, và những cứ liệu căn bản (fundamentals) không có gì
mới mặc dù giá chứng khoán có tăng từ tháng 3 – 2009. Quay lại thời kỳ Cục
dự trữ Liên Bang Mỹ bơm hơn một ngàn tỉ vào nền kinh tế hầu cứu ứng nan đề
‘’ cạn nguồn’’ tín dụng, lý do khiến những Đại công ty Tài Chánh và ngân
hàng không cho vay, cơ xưởng đình trệ, tức nền kinh tế ‘’thật’’ suy thoái.
Tín dụng (tiền tệ) là giấy, ảo, và là đơn vị trung gian giữa mua và bán
những mặt hàng thật ( như trả lương lao động, mua nhiên vật liệu… chẳng
hạn). Trên lý thuyết, bản vị trung gian tín dụng không tác động lên nền kinh
tế ‘’ thật’’, nhưng trong thực tế cuộc trầm thoái vừa qua, thì không thế.
Tại sao? Giới tài phiệt đã đi qua chức năng truyền thống của Ngân Hàng, lao
vào hoạt động đầu cơ may rủi qua những quĩ đầu tư ( hedge funds), và ngay
khi được hỗ trợ, họ giữ tiền chứ không cho vay để bôi trơn hoạt động kinh tế
‘’ thật’’. Bằng cớ : vài tháng sau khi nhận tiền, khi chính phủ Mỹ định kiểm
soát ‘’ tiền thưởng ‘’ (bonus) của lãnh đạo những tập đoàn kinh tài vẫn lên
đến 900 triệu (trong 1 năm 2008 thua lỗ), họ đòi trả lại tiền ‘’ bail-out ‘’
đã nhận và từ chối không cho chính phủ Mỹ ‘’điều tiết ‘’ tiền thưởng của họ!
Mặc dầu tân TT Obama được dư luận quần chúng ủng hộ, ông ta cũng đành ‘’chịu
thua’’. Wall Street thắng Main Street, tài phiệt đã sử dụng nền kinh tế ‘’
thật’’ như con tin để ép nhà nước Mỹ lấy tiền dân cung ứng hỗ trợ họ. Mới
đây, trong hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Pittsburg, những điều kiện chế tài
vẫn lỏng lẻo, thậm chí đề nghị đánh thuế mua bán chứng khoán để giới hạn
hoạt động đầu cơ (speculation) thôi mà cũng không được thông qua. Với lãi
xuất hiện ở mức zero, người ta cứ vay đôla không phải trả tiền lời, mang đi
mua chứng khoán ở những nơi giá trị tiền tệ tăng lên so với đồng đôla, tạo
ra khả năng thổi những quả bong bóng mới trên thị trường. TT Sarkozy nước
Pháp mạnh miệng lên tiếng nhiều lần, cho rằng tương lai của kinh tế tư bản
thị trường mấp mé bờ vực phá sản với sự lũng đoạn của khu vực tài chánh-ngân
hàng, nhưng tiếng ông nói vẫn vô tăm. Đây có lẽ là vấn đề cam go nhất của
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa : ảo thắng thực, và tài phiệt chỗm trệ trên đầu
mọi người, kể luôn cả tổng thống, thủ tướng, quốc hội …những quốc gia dân
chủ tiên tiến.
Sau trầm thoái, phân bố quyền lực kinh tế (và chính trị, như hệ luận) sẽ
khác. Mất đi, hay suy giảm, có Mỹ, Nhật, Tây Âu và những nước Đông Âu mới
gia nhập Cộng Đồng Âu Châu. Được, những nước nhiều tài nguyên, như Brazil,
Nga, Úc, Canada. TQ vẫn tiếp tục tăng trưởng, và nhân cơ hội sử dụng đôla đi
buôn tài nguyên và đi ‘’buôn vua’’ kiểu Lã Bất Vi thời Chiến quốc, chắc sẽ
phát huy trong một chừng mực nhất định vị trí của mình. Ở châu Phi, TQ giữ
vai bảo kê cho những chính quyền độc đoán, hủ hóa quyền lực chính trị địa
phương, khai thác tài nguyên nhưng đồng thời gây ô nhiễm môi trường môi sinh
ở mức trầm trọng, mượn tiếng sử dụng lao động để di dân hòng đối phó vấn đề
nhân mãn (ở mẫu quốc), tìm cách kiểm soát và điều hành yếu tố sinh tử là
nguồn nước : TQ nay lộ hình bành trướng bá quyền, đi ngược lại hầu hết những
giá trị nhân loại đã, và đang tiến tới, một đồng thuận. Thực lực, về khoa
học-kỹ thuật, TQ còn tụt hậu so với thế giới. Và mang những giá trị phong
kiến ra rao giảng như hệ lý luận trụ cột cho phương thức ‘’ổn định để phát
triển’’ đúng là đi giật lùi ít ra hai ngàn năm. Trong tình huống trầm thoái
kinh tế toàn cầu, với túi đôla khổng lồ, TQ bành trướng được. Nhưng chỉ
trong một chừng mực, vì khi tương đối ổn định, những cường quốc kinh tế sẽ
không thể ngồi yên xem TQ, con Rồng đang cong đuôi lên quẫy, tự biên tự diễn
trò bá quyền mãi. Phi châu là chiến trường của cuộc xâm lăng kinh tế kỷ 21,
và sự cố TQ đàn áp người Hồi giáo ở Tân Cương hẳn sẽ tác động tiêu cực lên
cách người Phi châu mà đa số theo đạo Hồi nghĩ về khả năng hợp tác ‘’hài
hoà’’ với Bắc Kinh.
Tóm lại, thế giới thế kỷ này là thế giới đa cực : điều này rất tích cực, cho
phép những nước chưa phát triển trong đó có Việt Nam thời cơ hợp tác đa
phương với mọi đối tác. Khép mình bó chặt vào quan hệ đơn phương và đặc thù
với TQ chẳng khác tự nhốt mình trong cũi rồi hai tay dâng chìa khóa lên chỉ
để nghe cho đủ 16 chữ ‘’kềm mạ vàng’’.
Còn quan hệ Việt Nam-Trung Quốc rất phức tạp, với nào tranh chấp biển Đông,
nào Bôxít Tây Nguyên…Ta phải nghĩ gì? Với đối sách nào?
Biết sớm muộn rồi cũng phải trả lời câu hỏi này, tôi xin ngắn gọn, không đề
cập đến Biển Đông, Bôxít, than lòng sông Hồng, đập TQ đầu nguồn sông Mekong,
vv... Tìm trên http://bauxitevn.net/, chúng ta có rất nhiều thông tin trên
những vấn đề này.
Dân dã có câu ‘’ anh em xa không bằng láng giềng gần’’. Đó là trong việc cưu
mang nhau. Nhưng nếu không cưu mang mà còn ngược lại, thì Việt Nam rất cần
anh em xa để tránh láng giềng gần thò tay bóp cổ bịt miệng. Hai lần Bắc
thuộc mà Việt Nam chưa biến thành quận huyện TQ là điều thần kỳ. Có người
hô, nay thêm một lần Bắc thuộc. Xin chớ vội! Và coi chuyện Việt Nam phải vào
quĩ đạo TQ như điều tất yếu hiển nhiên là một sai lầm chiến lược mà hậu quả
là hậu quả truyền đời.
Người Việt đã đổ ra không biết bao nhiêu xương máu và nước mắt để giữ nước.
So với thời Nguyên Mông lùa quân sang xâm chiếm nước ta vào đời nhà Trần thì
có hai điều phải xác minh ngay. Tương đối mà nói, Nguyên Mông xưa hùng cường
hơn TQ ngày nay nhiều. Và họ dùng quân sự, vì cách đây 500 năm, chưa có
những hình thái khác. Ở thế kỷ này, dùng giải pháp quân sự đi xâm lăng là
bất cập. Thay vào, là xâm lăng kinh tế, với sự đồng lõa của quyền lực chính
trị địa phương. Thâm hiểm hơn nữa, song song với kinh tế là xâm lăng văn hóa
qua phim ảnh, sách báo, truyền hình, xây Văn Miếu, tượng đài… nhằm đồng hóa
: một khi mọi ngườiViệt Nam thấy mình chẳng khác gì người TQ, xâm lăng nào
còn là vấn đề nữa đâu. Đời nhà Trần, Vua gọi họp Hội Nghị Diên Hồng tìm đồng
thuận toàn dân. Trần Hưng Đạo bỏ thù nhà để lo đền nợ nước, quan tướng một
lòng, không chia rẽ vì cái tư riêng, góp sức với nhau cứu lấy sơn hà. Đời
nay, cũng phải vậy. Sau hai cuộc chiến giành độc lập khiến hàng triệu người
phải hy sinh, những ai hiện thời có trách nhiệm dám bỏ chuyện tư túi để đoàn
kết cùng nhau giữ nước? Xin hãy chấn dân khí, chứ đừng đi bỏ tù những kẻ mặc
áo phông có ghi Trường Sa-Hoàng Sa là của Việt Nam. Chấn dân khí, vì dân là
nguồn lực chính chống xâm lăng. Làm nhụt dân khí lúc này chẳng khác gì đi
bán nước. Nước nhỏ, chúng ta hòa hiếu. Hoà hiếu khác bạc nhược. Nằm sát nách
một thế lực lớn, chúng ta tránh đụng độ, nhu hơn là cương. Nhưng nhu không
có nghĩa là nằm chết nhẹp, mặc cho người ta giẵm lên đầu lên cổ. Đừng thân
Tầu vì chút quyền lực và tiền tài phù du. Và cũng đừng nhắm mắt bài Hoa, như
một phản ứng vô điều kiện. Chúng ta đã từng chung sống hòa bình với nhân dân
TQ. Chúng ta có thể tiếp tục sống với họ, bên cạnh họ, trong tương kính
tương thân, nhưng không buộc cứ cong lưng cúi đầu trước đám quân phiệt –tài
phiệt mà được.
Anh em xa là những ai? Nhật, Úc, Ấn và những nước khối Asean. Xa hơn, có
Nga, Mỹ, Tây và Bắc Âu. Anh em xa, là cả cộng đồng quốc tế còn muốn xây dựng
một thế giới công chính. Phần tôi, tôi tin là có một nhân loại tiến bộ, công
bằng, hành xử có chuẩn mực đạo lý (ethics), không dễ mà thành đồng lõa của
những mưu đồ bành trướng bá quyền. Người Việt Nam chúng ta, chẳng chỉ chính
quyền và lớp lãnh đạo, làm thế nào để được sự hỗ trợ anh em vừa nói là điều
đáng suy ngẫm. Và đó là yếu tố cho phép chúng ta tiếp tục tồn tại như một
dân tộc.
GSTS Nguyễn Mạnh Hùng
Đại Học Laval
Québec, Canada
|