Những bài cùng tác giả
Chế độ chính trị của đất nước phải như thế nào để người
dân gắn kết sống chết với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước
của mình. Xây dựng một chế độ chính trị đồng nghĩa với tổ quốc
là điều nhất thiết phải hướng tới.
LTS: Trong phần trước, Nguyễn Trung bàn về những
khuyết tật của mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, dẫn
tới nguy cơ Việt Nam trở thành đất nước làm thuê và cho thuê. Từ
đó, ông kết luận: Chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều
sâu là mệnh lệnh sống còn bởi vì mọi yếu tố cho phát triển theo
chiều rộng đã tới giới hạn chịu đựng cuối cùng.
Ở phần này, Nguyễn Trung đưa
ra những khuyến nghị về chuyển đổi mô hình phát triển theo chiều
sâu. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, trong đó có
những vấn đề cần được tranh luận, làm sáng tỏ thêm. Mời độc giả
cùng tranh luận.
Phần trước:
Định vị Việt Nam trong thế giới của thập kỉ mới
Việt Nam nên đóng vai trò nào trong thế giới mới?
"Lời nguyền tài nguyên" và nguy cơ của một nước làm thuê
Không phải là con người công
cụ!
Với tất cả những yếu tố đã phân
tích trong phần trước, việc chuyển sang giai đoạn phát triển
theo chiều sâu là đòi hỏi tất yếu. Việc chuyển giai đoạn phát
triển một cách có ý thức như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn
và gian khổ. Hơn lúc nào hết phải huy động trí tuệ cả nước, kinh
nghiệm của thế giới, sự quyết tâm một lòng một dạ của toàn dân,
và sự tận tụy, trung thành tuyệt đối của hệ thống chính trị và
bộ máy nhà nước đối với lợi ích quốc gia để có thể thực hiện
thành công nhiệm vụ sinh tử này với cái giá phải trả thấp nhất.
Dưới đây chỉ nêu lên một vài gợi
ý ban đầu và rất sơ lược.
Một là, nói chuyển sang
giai đoạn phát triển theo chiều sâu, trước hết là nói đến phát
triển chủ yếu dựa trên cơ sở phát huy lợi thế và nguồn lực lớn
nhất của đất nước là con người, là phát triển rất chú trọng đến
chất lượng.
Đặt vấn đề như vậy, có nghĩa là
thay đổi căn bản quan điểm hiện có về chiến lược phát triển.
Con người được nói tới ở đây vừa
là chủ của chính bản thân mình, là chủ của đất nước, vừa chính
mình trực tiếp là lực lượng sản xuất quyết định nhất. Câu hỏi
đặt ra ngay tức khắc là thể chế luật pháp nào, hệ thống giáo dục
nào, khung khổ xã hội nào, và những chính sách phát triển kinh
tế - chính trị - xã hội nào cần phải có để có thể tạo ra được và
tiếp tục phát triển được con người như thế.
Bao trùm lên tất cả là phải duy
dưỡng và xây dựng những giá trị nào làm nền tảng đạo đức, tinh
thần và tâm hồn của con người với tính cách như thế - con người
của hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, chứ không phải
là con người công cụ.
Câu trả lời nếu tìm được, trước
hết sẽ có nghĩa phải sẵn sàng và chấp nhận triệt để nhiều thay
đổi căn bản trong thể chế chính trị và trong hệ thống quản lý
đất nước, cũng như trong tìm tòi và thiết kế các chính sách phát
triển đất nước.
Câu trả lời nếu tìm được, thì
những công việc phải làm do nó đề ra không thể là những công
việc một sớm một chiều, mà phải là một quá trình cải cách và
phát triển liên tục, lâu dài, có các bước trước - sau và đồng
bộ.
Cho đến nay, có không ít các nghị quyết của Đảng nói về phát
triển con người, đề ra được rất nhiều vấn đề quan trọng không
thể thiếu được, song hình như vẫn chưa đụng tới được cái gốc:
con người vừa là chủ bản thân và là chủ của đất nước, vừa là lực
lượng sản xuất quyết định nhất, là con người hành động theo tư
duy của tự do và sáng tạo, không phải là con người công cụ.
Phải chăng chính vì lẽ này các
nghị quyết như thế không thực thi được bao nhiêu?
Nói bao nhiêu cũng không xuể về
chủ đề con người này, song nhất thiết cần nhấn mạnh chế độ chính
trị của đất nước phải như thế nào để người dân gắn kết sống chết
với nó bằng tất cả nhiệt huyết yêu nước của mình.
Xây dựng một chế độ chính trị
đồng nghĩa với tổ quốc là điều nhất thiết phải hướng tới. Không
có điều kiện này, ước mơ sẽ trở thành một nước công nghiệp hóa
theo hướng hiện đại đủ sức ganh đua với thiên hạ mãi mãi sẽ chỉ
là ước mơ.
Khoa học và chân lý phải có
tiếng nói quyết định
Đặt vấn đề như nêu trên là khởi
điểm và đồng thời cũng là nền tảng để đưa tiến bộ khoa học kỹ
thuật và công nghệ của thời đại ngày nay trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp.
Quan điểm này không mới, chiếm vị
trí quan trọng trong rất nhiều nghị quyết và chính sách của Đảng
và Nhà nước. Suốt 25 năm qua công sức và ngân sách bỏ ra cho mục
tiêu này không ít. Song kết quả cuối là chỉ đạt được hàm lượng
khoa học và công nghệ thấp trong sản phẩm làm ra, trong chất
lượng các chủ trương chính sách, trong luật pháp, trong quy
hoạch phát triển, trong các quyết định chiến lược, quyết sách..,
cũng như trong bộ máy làm việc của toàn bộ hệ thống chính trị
nói chung và của hệ thống nhà nước nói riêng...
Kết quả cuối cùng còn là sự lãng
phí rất to lớn về tiền của, công sức và thời gian. Tham nhũng
trong đầu tư cho khoa học và công nghệ không thể nói là nhỏ,
càng không nhỏ đối với một nước nghèo như nước ta.
Nhiều phê bình trong nước và từ
nước ngoài nói khâu "R&D" ("nghiên cứu & triển khai) của nước ta
rất kém. Nhận xét này đúng nhưng không đầy đủ, bởi vì nhận xét
này không nói lên được nguyên nhân chính của tình trạng này là
chưa có con người và thể chế phải có; thậm chí nhận xét này còn
bị hiểu thiên lệch là ta làm "R&D" chưa giỏi và vì ta nghèo!
Tình trạng "hàm lượng thấp" như
vừa nêu trên còn do một nguyên nhân chính trị rất quan trọng: ý
chí chính trị chứ không phải khoa học và chân lý có tiếng nói
quyết định.
Cải cách giáo dục và đào tạo
cần bắt đầu từ chỗ không nói dối
Chuyển sang giai đoạn phát triển
mới nhất thiết phải cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo.
Đòi hỏi phải cải cách hệ thống
giáo dục và đào tạo hầu như được sự nhất trí rộng rãi trong cả
nước. Vấn đề còn đang tranh cãi là cải cách theo hướng nào, tiêu
chí nào. Đề nghị trực tiếp tham khảo ý kiến các bên hữu quan để
có sự đánh giá riêng của mỗi người và cùng nhau tranh luận cho
sự lựa chọn phương án tối ưu nhất cho đất nước.
Phương án cải cách định lựa chọn
nhất thiết phải tuân thủ mục tiêu đào tạo, hình thành và phát
huy con người hành động theo tư duy của tự do và sáng tạo, không
phải là con người công cụ.
Sự nghiệp cải cách này cũng phải
tiến hành từng bước và liên tục với một kế hoạch được thiết kế
sao cho có thể vừa đáp ứng ngay những đòi hỏi bức xúc của phát
triển và vừa phục vụ cho sự phát triển lâu dài và bền vững của
đất nước. Cải cách như thế sẽ là sự nghiệp của cả thập kỷ 2020
và sau nữa, phải rất triệt để, nhưng cũng không thể nóng vội
được.
Chỉ xin lưu ý, nhiệm vụ này là
của cả nước chứ không thể chỉ là của riêng ngành giáo dục và đào
tạo, bởi vì tính chất cải cách giáo dục và đào tạo bao gồm và
liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực khác của toàn bộ đời sống
đất nước. Nói một ví dụ đơn giản là không thể tiến hành cải cách
này trong tình hình còn đầy rãy những hiện tượng bằng thật không
ăn nhằm gì và có quá nhiều trường hợp là bị thải loại và thua
bằng giả.
Thực tế tại các quốc gia cũng cho
thấy không thể tiến hành cải cách này một cách đích thực nếu thể
chế chính trị và xã hội của quốc gia ấy chịu khuất phục những
giá trị ngược lại với những mục tiêu một nền giáo dục và đào tạo
tiên tiến phải theo đuổi.
Điều xin đặc biệt nhấn mạnh là
cải cách giáo dục và đào tạo thành công trong thập kỷ 2020, sẽ
quyết định tương lai của đất nước trong thế kỷ 21, chứ không
phải sự nghiệp công nghiệp hóa như đang làm. Thậm chí có thể nói
sự nghiệp cải cách giáo dục và đào tạo cần bắt đầu từ chỗ không
nói dối!
Đổi mục tiêu và cơ cấu kinh
tế
Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh
tế. Đây là một quá trình đau đớn, gian khổ, nhưng tất yếu phải
làm.
Những vấn đề nêu trong các điểm
bên trên đã nêu ra được một số nguyên nhân, nhưng chắc chắn chưa
đủ. Cần nghiên cứu công phu để tìm ra giải pháp.
Trước mắt nên bỏ cách tư duy
"kinh tế GDP" tỉnh, tạm thời đặt sang một bên vấn đề tỷ trọng
các khu vực kinh tế trong phạm vi tỉnh để đánh giá tỉnh đó tiến
bộ hay thụt lùi, mà nên đo lường bằng kết quả thu nhập của người
dân, chất lượng cuộc sống của họ, khả năng cạnh tranh đích thực
của các sản phẩm của tỉnh, kết quả cạnh tranh đạt được, chuyển
đổi cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung vào các sản phẩm tỉnh có
lợi thế nhất, chuẩn bị cho những sản phẩm mới tỉnh có lợi thế
lớn; ở cấp quốc gia cũng phải làm như vậy.
Quan điểm và khái niệm về công
nghiệp hóa như đang có cũng phải xem lại, trong đó nông nghiệp
cần được hiểu và phải hướng tới là một nền nông nghiệp của tiến
bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại - đặc biệt là công
nghệ sinh học và bảo tồn sinh thái; một nền nông nghiệp như thế
phải chiếm một vai trò quan trọng (chứ không phải các tỷ lệ số
học) trong chiến lược công nghiệp hóa như đã được xới lên ở
trên.
Hoàn thiện thị trường để tăng
chất lượng các tín hiệu thu được cần thiết cho các quyết sách;
đồng thời cần tạo ra những hậu thuẫn (chứ không phải bao cấp) có
thể cung cấp từ phía nhà nước, cộng đồng và doanh nghiệp cho
việc làm ra một sản phẩm mới cũng như cho việc thải loại một sản
phẩm dứt khoát phải chia tay, nhất là những hậu thuẫn cho việc
thu hẹp kinh tế thượng nguồn.
Hàm lượng công nghệ được đưa vào,
khả năng hướng tới nền kinh tế carbon thấp, khả năng cạnh tranh,
khả năng chiếm lĩnh các thị trường "ngách", khả năng chiếm lĩnh
chỗ đứng trong các chuỗi cung - ứng trên thị trường thế giới,
khả năng hướng tới kinh tế trí thức... đó là các tiêu chí và cơ
sở cho việc đề ra các chính sách và biện pháp chuyển dịch cơ cấu
kinh tế; tất cả cần luôn luôn chú ý đến cái lợi và bất lợi của
nước đi sau (khai thác lợi thế nước đi sau), tất cả luôn luôn
nhằm vào cái đích dần dần tạo ra một nền kinh tế chủ yếu dựa vào
phát huy lợi thế và nguồn lực lớn nhất của đất nước là con
người.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải
ưu tiên nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm chiếm lĩnh và mở rộng
thị trường nội địa còn rất rộng lớn của nước ta cho sản phẩm của
ta, đảo ngược hẳn tình hình thị trường nội địa nước ta hiện đang
bị sản phẩm nước ngoài nắm giữ phần lớn. Đòi hỏi này hoàn toàn
không có gì liên quan đến tư duy "tự cung tự cấp" hoặc "thay thế
nhập khẩu", bởi lẽ nước ta đã hội nhập kinh tế thế giới và thị
trường nước ta là thị trường mở.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải
đặc biệt chú ý tạo ra khả năng mở rộng thị phần và chiếm thêm
các "thị trường ngách" của các nước trên thế giới trong tình
hình các nước đều phải tiến hành điều chỉnh kinh tế của họ theo
hướng phải quan tâm nhiều hơn nữa đến thị trường nội địa của họ.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của nước ta hiện nay vẫn đang có
nhiều lợi thế lớn, song phải nâng cao khả năng cạnh tranh về
chất lượng và dịch vụ mới có thể phát huy được trong tình hình
mới.
Thậm chí nếu cần thiết, tạm thời
chấp nhận chỉ số tăng trưởng có thể thấp trong một số năm nhất
định, nếu quá trình chuyển dịch cơ cấu đem lại chất lượng tăng
trưởng tốt hơn và mở đường cho sự phát triển năng động hơn tiếp
theo.
Có lẽ không nên bám lấy mục tiêu
hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020 với bất cứ giá nào, vì
điều này vừa không hiện thực, vừa trở nên không quan trọng nữa,
thậm chí nếu năm 2020 trở thành cường quốc xi-măng và thép thì
rất nguy hiểm. Mục tiêu chiến lược nên chọn là vào năm 2020 sẽ
hoàn thành việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo nội dung
đã trình bầy trên, để kinh tế nước ta từ 2020 sẽ bước hẳn vào
thời kỳ phát triển theo chiều sâu.
Ngay khi cả nước đã thống nhất
được ý chí, có quyết tâm lớn, hoạch định được các bước đi cho sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế với tinh thần như vậy, công việc phải
làm cho 10 năm tới rất nhiều và diễn ra trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống đất nước, sẽ đầy khó khăn gian khổ, không có trí tuệ
và nỗ lực cao nhất sẽ không hoàn thành nổi! Chắc chắn sẽ có
những vấp ngã mới - nhưng đấy sẽ là những vấp ngã trên đường đi
lên.
Nếu từ nay đến năm 2020 mà thực
hiện được mục tiêu chuyển dịch này, thì cần phải coi đó là một
thành tựu kì diệu có tính bước ngoặt như đổi mới năm 1986 - vì
nó mở ra cho đất nước một giai đoạn phát triển mới.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế để đưa
đất nước vào một giai đoạn phát triển mới như thế rõ ràng là một
quá trình chuyển dịch tổng thể kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của đất nước để đi vào giai đoạn phát triển mới cao hơn.
---
Trọng trách trên vai Đảng
Nhìn lại, yếu tố nổi bật nhất của
25 năm đổi mới là dân chủ. Có thể nói thừa nhận đổi mới là kết
quả của thừa nhận dân chủ; rồi đến thành tựu đạt được của đổi
mới trước hết là nhờ dân chủ: trí tuệ và nguồn lực được cởi
trói, được phát huy - từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế kinh
tế thị trường.
Cũng là một sự thật, thành tựu
bậc nhất ấy của đổi mới còn bị xem là một nguy cơ của diễn biến
hòa bình, vì thế 25 năm qua có không ít khó khăn, đôi khi bị kìm
hãm. Đi vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, phải thẳng
thắn đối mặt với sự thật này.
Tập đoàn kinh tế nhà nước yếu
kém, nền "kinh tế GDP tỉnh" và "tư tưởng nhiệm kỳ" - đấy là 3
nhân tố quyện lại với nhau lũng đoạn nghiêm trọng nhất kinh tế
đất nước, hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước. Đồng thời 3 yếu
tố này và tác động cộng hưởng của chúng cũng là những tác nhân
trực tiếp băng hoại nhiều nhất những giá trị cần gìn giữ, là
mảnh đất mầu mỡ của mọi tha hóa. Giai đoạn phát triển mới của
đất nước đòi hỏi phải khắc phục được những yếu kém này.
Đất nước bước vào thập kỷ 2011 -
2020 với Đại hội XI của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đảng cầm quyền
và lãnh đạo đất nước. Tình hình, nhiệm vụ, thách thức đất nước
sẽ đối mặt trong thập kỷ 20 này chắc chắn sẽ đặt lên vai Đảng
trọng trách rất lớn và sự thử thách quyết liệt.
|