Chúng tôi xin nhường cho những cơ quan chức năng trọng trách
làm rõ trách nhiệm và xử lý những sai phạm đã dẫn Vinashin
tới tình trạng vỡ nợ. Trong bài này chúng tôi chỉ xin bàn về tái cơ cấu ngành đóng
tàu, một ngành quan trọng có tính cách chiến lược về kinh tế
và quân sự của một quốc gia như Việt-Nam.
Quan trọng của ngành đóng tàu
Quan trọng trong quy trình phát triển kinh tế
Trong quy trình phát triển kinh tế xã hội một quốc gia phải
tuần tự khai triển những ngành có thể tích lũy ngoại tệ, sau
đó những ngành tận dụng nhân lực rồi đến lượt những ngành
tích lũy kỹ năng và kiến thức khoa học kỹ thuật.
Trong quy trình đó, chúng ta đã khởi đầu với ngành du lịch.
Ngành này đã mang lại cho chúng ta ngoại tệ để làm vốn ban
đầu. Nhân đó, doanh nhân ngoại quốc đến thăm quan nước ta đã
nhận thấy tất cả tiềm năng về nhân lực của ta và đã đầu tư
vào những cơ sở sản xuất để tận dụng tiềm năng đó. Bây giờ,
chúng ta đã trở thành quốc gia có thu nhập trung bình và
ngành đóng tàu có thể giúp ta chuyển sang giai đoạn tích lũy
kỹ năng khoa học kỹ thuật.
Ngoài ra, chúng ta có tham vọng trở thành một quốc gia kinh
tế biển. Kinh tế biển của một nước tầm vóc lớn như nước ta
thì không thể chỉ giới hạn ở những bãi biển đẹp và những tàu
đánh cá ven bờ. Những ngành đó cần tiếp tục khai triển mạnh
hơn, nhưng chúng ta phải khai triển thêm các ngành đánh cá
đại dương, chuyên chở bằng đường sông nội địa và và đường
biển liên lục địa. Tất cả những ngành đó đều cần đến nhiều
tàu sông và tàu biển. Ngoài việc thỏa-mãn nhu-cầu quốc-nội,
những sản phẩm đó cũng có thể là những mặt hàng xuất khẩu có
giá trị gia tăng cao.
Chúng tôi chỉ nêu thêm những nhu cầu của quốc phòng.
Trong thế kỷ XIX, Anh, Đức, Hoa Kỳ, Nhật,... đã khai triển
ngành này và đã trở thành những cường quốc công nghiệp.
Trong thế kỷ XX, Ba Lan, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan
cũng đã làm như thế và đã trở thành những quốc gia công
nghiệp. Ngược lại, những quốc gia như Hy Lạp, Philippines
hay những đảo quốc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương sống về
nghề biển nhưng không có ngành đóng tàu mạnh đều có kinh tế
đình đốn.
Vậy, thế kỷ XXI phải là thế kỷ của ngành đóng tàu Việt-Nam.
Quan trọng trong quy trình phát triển công nghệ
Từ góc nhìn của một kỹ sư thì nghề đóng tàu là uốn nắn những
tấm tôn dầy và hàn chúng thành một cái thúng có thể chuyển
động an toàn trên mặt nước. Nghề này là một nghề sản xuất
từng đơn vị (unit manufacturing). Kỹ năng chính là công nghệ
xoong chảo. Kỹ năng thứ là công nghệ lắp ráp những thiết bị
công nghiệp cơ khí, điện cơ, điều khiển tự động và viễn
thông.
Nói đến tấm tôn, cái thúng, xoong chảo, lắp ráp thì có vẻ
nặng mùi công nghệ lạc hậu dành cho những người thất học.
Nhưng sự thật không phải vậy. Bộ môn chiến lược công nghiệp
thường biếm họa và dùng những từ ngữ nôm na mô tả một ngành
nghề để phát hiện nhân tố thành công chính (key sucess
factor) của ngành đó.
Ngành đóng tàu thực ra đóng tàu mới và canh tân sửa chữa tàu
cũ. Ngành này cần đến nhiều nhân lực và nhiều công nghệ khác
nhau. Nhân lực gồm nhiều nhân công từ công nhân phổ thông
cho đến những công nhân phải được đào tạo bài bản trong
những kỹ thuật tinh xảo. Những cán bộ thì từ bậc cử nhân kỹ
sư ở những bộ phận sản xuất hàng ngày lên đến thạc sĩ, thậm
chí tiến sĩ về luyện kim, ở những bộ phận thiết kế và nghiên
cứu kỹ thuật. Vì phải đào tạo nhân lực từ bậc công nhân phổ
thông đến kỹ sư về những công nghệ tiên tiến, ngành đóng tàu
đã là đòn bẩy trong công cuộc công nghiệp hoá của một số
quốc gia.
Những công nghệ của ngành đóng tàu
Công nghệ xoong chảo nặng
Tùy độ dầy của tấm tôn, những kỹ thuật uốn nắn và hàn những
tấm tôn khác nhau rất nhiều. Người ta phân loại hai công
nghệ xoong chảo : xoong chảo nhẹ khi những tấm tôn mỏng hơn
10 mm, xoong chảo nặng khi những tấm tôn dầy hơn 10 mm. Dưới
một milimét thì gọi là nghề làm tôn, một nghề hoàn toàn
khác. Đóng tàu thuộc về xoong chảo nặng. Tất nhiên, như thế
phải có các hoạt động nghiên cứu, thiết kế, thương mại liên
quan, song không bao gồm việc mua tàu cũ về để tháo ra lấy
sắt vụn hoặc sửa sang đưa vào làm dịch vụ chuyên chở chẳng
hạn (điều mà Vinashin từng làm), thậm chí để bán lại
Công nghệ xoong chảo nặng có ba đặc điểm.
Điểm thứ nhất là, để thành công về xoong chảo có tay nghề
thì vẫn chưa đủ, còn phải có thêm kiến thức khoa học kỹ
thuật của các ngành cơ khí và luyện kim. Học kỹ sư xoong
chảo thì rất khó vì ngành này bao gồm cả vật lý lẫn hoá học.
Từ đầu cách mạng công nghiệp cho tới nay, cứ sáu bảy năm lại
có một biến chuyển công nghệ quan trọng trong công nghệ
xoong chảo. Vì thế, những kỹ sư xoong chảo phải liên tục cập
nhật công nghệ chuyên môn của mình.
Điểm thứ hai là công nghệ xoong chảo nặng có cường độ vốn và
nhân lực cao (capital and labor intensive). Như vậy có nghĩa
là, muốn thành lập một xí nghiệp xoong chảo nặng thì ngay từ
đầu phải đầu tư nhiều vốn và có sẵn hay tự đào tạo nhiều
nhân lực. Vốn tính bằng tỷ đôla Mỹ và nhân lực tính bằng vạn
công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư chuyên môn.
Điểm thứ ba là thị trường quốc tế của công nghệ xoong chảo
nặng là những thiết bị công nghiệp với ít hợp đồng mua,
nhưng mỗi hợp đồng có giá trị lớn tính bằng triệu đôla Mỹ
hay hơn nữa. Về chiến lược công nghiệp, công nghệ xoong chảo
nặng là một công nghệ sản xuất từng đơn vị.
Công nghệ lắp ráp thiết bị công nghiệp
Để một con tàu có thể chuyển động an toàn trên mặt nước thì
phải được trang bị bởi một số động cơ, thiết bị điều khiển
(tự động hay không) và thiết bị viễn thông. Nếu là một tàu
chiến thì phải được trang bị thêm vũ khí. Những thiết bị này
do những ngành công nghiệp chuyên môn sản xuất.
Lắp ráp thiết bị công nghiệp là cả một công nghệ. Trong
những ngành sản xuất đại trà (mass production) kỹ năng chính
là quản lý sản xuất. Trong những ngành sản xuất từng đơn vị
như ngành đóng tàu và ngành xây dựng công trình công nghiệp
thì kỹ năng chính là quản lý thực hiện dự án.
Đồng vận với những ngành công nghiệp khác
Đồng vận trong nghề xoong chảo nặng
Nhiều ngành kinh tế khác cũng cần đến công nghệ xoong chảo
nặng : vỏ tàu chiến, vỏ bọc xe thiết giáp và nắp pháo đài
của ngành vũ trang, dàn khoan, thùng chứa dầu, ống dẫn dầu
và ống dẫn khí đốt của ngành dầu khí, thùng chứa hoá chất,
chòi chưng cất và lò phản ứng của các ngành hoá học và hạt
nhân, hạng mục bằng thép của ngành xây dựng cầu đường,...
Nhiều ngành khác nữa thỉnh thoảng cũng cần uốn nắn và hàn
những tấm tôn dày. Nhưng kỹ năng chính của các ngành ấy
không phải là công nghệ xoong chảo nặng.
Tỷ dụ, kỹ năng chính của ngành hoá học là chế biến những hoá
chất. Thỉnh thoảng ngành này cần đến công nghệ xoong chảo
nặng để chế tạo và xây dựng những chòi chưng cất và những
thùng chứa cho một nhà máy. Nhưng sau đó nhà máy sẽ dùng để
sản xuất hoá chất trong cả chục năm mà không cần đến công
nghệ xoong chảo nặng nữa. Ngược lại, ngành đóng tàu có thể
thi công chế tạo những hạng mục của một nhà máy hoá chất nhờ
có sẵn nhân lực và thiết bị chuyên môn về xoong chảo.
Đồng vận trong nghề lắp ráp thiết bị công nghiệp
Một đặc điểm của ngành đóng tàu là tầm vóc những tàu có thể
là một thuyền nhỏ dài vài mét cho tới một tàu rất lớn dài
tới ba trăm mét với trọng tải có thể đạt cả trăm nghìn tấn.
Vì đó những thiết bị cần lắp ráp trên một con tàu có thể có
công suất của một sản phẩm tiêu dùng thông thường nhưng cũng
có thể có công suất của những thiết bị sản xuất công nghiệp.
Một tàu 1.000 DWT có thể coi như là một chung cư hay một nhà
máy. Một tàu 100.000 DWT trở lên là một khu đô thị hay một
khu công nghiệp.
Bởi tính đa dạng đó và bởi ngành đóng tàu là một ngành sản
xuất từng đơn vị ngành này không tự sản xuất những thiết bị
công nghiệp cơ khí, điện cơ, điều khiển tự động và viễn
thông mà chỉ mua để lắp ráp chúng lên tàu đang đóng. Cách
đây vài năm, tập đoàn Alstom của Pháp đã suýt phá sản vì tập
hợp nhiều ngành nghề khác nhau và đã phải bán bộ phận đóng
tàu để trả nợ.
Lắp ráp những thiết bị nhỏ là một nghề, lắp ráp những thiết
bị lớn là một nghề khác và cũng là nghề của ngành xây dựng
công nghiệp. Ngành đóng tàu đóng nhiều tàu trọng tải nhỏ với
những thiết bị nhỏ và ít tàu trọng tải lớn với những thiết
bị lớn. Những xí nghiệp đóng tàu có thể nắm công nghệ lắp
ráp thiết bị của những tàu nhỏ và gia công cho những xí
nghiệp xây dựng công nghiệp việc trang bị những tàu lớn.
Tái cơ cấu Vinashin
Mặc dù lên xuống với biến độ lớn tùy theo tình hình kinh tế
thế giới, thị trường dài hạn của ngành đóng tàu tăng trưởng
mạnh. Theo nghiên cứu của CCIFV (Chambre de Commerce et
d'Industrie Francaise au Vietnam, Phòng Thương mại và Công
nghiệp Pháp tại Việt-Nam) thì, năm 2008, Việt-Nam xếp hạng
tám thế giới về đóng tàu. Theo ước đoán của chúng tôi thì
chúng ta xếp hạng thứ năm thế giới vào năm nay hay một hai
năm tới.
Một xí nghiệp đứng đầu trong một thị trường tăng trưởng mạnh
là một xí nghiệp thuộc ô minh tinh (star) trên bàn cờ BCG
(BCG Matrix, Mã-trận Boston Consulting Group), nghĩa là có
thế chủ động trên thị trường quốc tế. Nếu coi tất cả ngành
đóng tàu Việt-Nam là một xí nghiệp thì đây là tình huống duy
nhất mà Việt-Nam có một xí nghiệp minh tinh !
Rất tiếc ban giám đốc Vinashin đã mổ xẻ tập đoàn thành một
trăm công ty nhỏ thiếu khả năng phát triển. Rất tiếc ban
giám đốc Vinashin đã phân tán vốn vào những kinh doanh mạo
hiểm ngoài nghề ruột (core business) của tập đoàn. Nhưng
không phải vì ban giám đốc Vinashin đã lầm lỗi và sai phạm
mà phải phá vỡ tập đoàn này. Ngược lại, việc phải làm bây
giờ là tái cơ cấu Vinashin.
Tái cơ cấu có nghĩa là tập trung lực lượng vào nghề ruột và
liên minh với những xí nghiệp khác chuyên về những nghề phụ.
Tập trung vào nghề ruột ám chỉ sáp nhập những công ty quốc
doanh và bán quốc doanh ngoài Vinashin nhưng hoạt động trong
ngành đóng tàu để tăng cường vị thế của Vinashin trên thị
trường quốc tế.
Tập trung vào nghề ruột cũng ám chỉ chuyển sang những xí
nghiệp khác những hoạt động không thuộc nghề ruột của mình :
cổ phiếu đã mua trên thị trường chứng khoán, nhà máy thép,
tàu biển, khu công nghiệp không có nhà máy đóng tàu hay sửa
chữa tàu... Những khoản hoạt động này sẽ giao cho xí nghiệp
quốc doanh có nghề ruột liên quan, hoặc bán cho khu vực tư
doanh.
Tỷ dụ trao cho Vinasteel một nhà máy thép là đúng, nhưng
trao cho PetroVietnam hoạt động chế tạo dàn khoan và kho
chứa dầu là một sai lầm. Nghề ruột của PetroVietnam là
hydrocacbua. Để hoạt động trong ngành đó PetroVietnam phải
lắp đặt dàn khoan, thùng chứa dầu và ống dẫn dầu dẫn khí.
Nhưng, trên nguyên tắc, chế tạo dàn khoan và thùng chứa
thuộc về công nghệ xoong chảo, kỹ năng chính của Vinashin,
chế tạo những đốt ống không hàn thuộc về công nghệ rèn, kỹ
năng chính của Vinasteel, và lắp ráp tại chõ những hạng-mục
đó thuộc về công-nghệ xây-dựng công-nghiệp, nghề chính của
VNIC. PetroVietnam không cần và cũng không nên tự mình làm
những công việc ấy.
Sau khi loại tất cả những hoạt động ngoài nghề ruột thì
Vinashin phải ký những hiệp ước liên minh với những xí
nghiệp phụ trợ trong và ngoài nước sản xuất thép và các kim
loại khác, những máy công cụ lớn nhỏ, những thiết bị công
nghiệp cơ khí, điện cơ, điều khiển tự động và viễn thông,...
để bảo đảm nguồn cung cấp. Ngoài ra, Vinashin cũng phải mở
rộng và trang bị tốt hơn những khu công nghiệp còn lại và
kêu gọi những xí nghiệp phụ trợ liên minh đến hoạt động ở
đó.
Chúng tôi xin gợi ý một thí dụ.
Ngành xây dựng công trình công nghiệp nước ta đang trưởng
thành mạnh với sự sáp nhập những xí nghiệp xây dựng nhỏ
thành Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt-Nam (VNIC). Tại sao
lại không có một xí nghiệp liên doanh giữa Vinashin và tập
đoàn này trong ngành lắp ráp những thiết bị công nghiệp nặng
? VNIC lắp ráp những thiết bị ở những công trường xây dựng,
nghĩa là không ở những địa điểm cố định lâu dài. Tại sao tập
đoàn này không đặt cơ sở hành chính, đào tạo hay bảo trì
công cụ của mình ở một khu công nghiệp của Vinashin ?
***
Tái cơ cấu một xí nghiệp không có nghĩa là mổ xẻ nó để đẩy
cho những xí nghiệp lành mạnh những bộ phận không mang lợi
nhuận. Phương pháp này chỉ đưa đến tình trạng biến lợn lành
thành lợn què. Tái cơ cấu một tập đoàn lớn như Vinashin là
một dịp để nghĩ lại cơ cấu những tập đoàn lớn khác và tái cơ
cấu toàn bộ kinh tế nước ta cho thích hợp hơn với vị thế một
nền kinh tế đã hoà nhập với kinh tế thế giới.