Nhà Văn VÕ HỒNG
Võ Hồng qua nét bút Tạ Tỵ:
Mùa hạ 92 tôi có dịp vào Nha
Trang, lòng dặn lòng nhất định phải tìm đến Võ Hồng, nhà
văn mà tôi rất yêu mến và từng có mối liên hệ nhưng chưa
một lần gặp mặt. Số là cách đây 5, 6 năm, không rõ số
phận đưa đẩy ra sao, tập bản thảo tiểu thuyết Thiên
đường ở trên cao (TĐƠTC) (*) của ông lại vòng vo về
tới Sở THTT Nghĩa Bình. Anh Hà Giao hồi đó là trưởng
phòng văn nghệ, một hôm đưa bản thảo đến, bảo tôi xem
thử (vì đã có một anh bạn biên tập đọc qua và lắc đầu).
Đọc xong, tôi bàng hoàng cả người, không chỉ vì nội
dung, mà còn vì số phận long đong của quyển sách. Võ
Hồng viết xong sách này độ năm 72-73, năm 1974 kiểm
duyệt chế độ cũ in cho, thì năm 75, thời cuộc chuyển
biến, đành phải gác lại. Chỉ tính đến năm 85, tập bản
thảo cũng đã ngủ yên đến 10 năm trời! Quyển sách kể về
cuộc đời một cô gái trong trắng, tài sắc, vì lỡ sa vào
con đường ghiền ma túy mà phải hứng chịu không biết bao
nhiêu khổ lụy. Quyển sách lại được viết với một nghệ
thuật già dặn, giàu cảm xúc và suy tư, với lối hành văn
điềm tĩnh, sắc gọn. Tóm lại, trên những trang bản thảo
đánh máy đã ố vàng, là một quyển sách hay, có giá trị.
Tôi mạnh dạn đề nghị xuất bản và được cơ quan chấp
thuận. Cũng xin nói thêm hồi đó, sau những năm quá phấn
hứng vì chiến thắng, chính quyền mới đã phải đụng đầu
với những vấn đề tưởng như đã vĩnh viễn tan biến theo
chế độ cũ như nạn mãi dâm, ma túy, tham nhũng,… nhưng
việc ấn hành các tác phẩm thời trước (dù là bản thảo tồn
đọng) vẫn được xem là bạo dạn. Song quyển sách với số
lượng in 20.000 bản đã bán hết veo và nhiều người phải
thừa nhận giá trị của nó. Qua cuộc trắc nghiệm khá hồi
hộp này, tôi không khỏi vui sướng và càng thấy tôn kính
Võ Hồng. Tôi rất mong được gặp ông, nhưng ngày qua tháng
lại, tôi vẫn chưa có dịp vào Nha Trang, nơi ông ở. Chìm
nổi mãi trong ký ức của tôi là cái món nợ tình đó.
Lần theo địa chỉ, tôi tìm
đến Hồng Bàng, một đường phố khá vắng vẻ của Nha Trang.
Bước vào phòng ông ở, tôi ngẩn người vì trước mắt tôi
không phải một người năm sáu mươi như tôi tưởng khi nhìn
trong bức ảnh, mà là một ông lão! Đúng, một ông lão trán
hói cao quá đỉnh đầu, má cóp, người cao gầy. Trong bộ đồ
pajama và vắt ngang vai chiếc áo khoác màu hoa đào đã
phai, mắt đeo kính, trông ông như một đạo sĩ phương Đông
thuở nào.
Võ Hồng đang ngồi trên chiếc
võng dừa cột vắt qua căn phòng nhỏ, một tay cầm tờ báo,
tay kia đang nâng một chiếc ăng-gô. Có lẽ ông đang ăn
sáng. Thấy khách lạ, ông có vẻ hơi lung túng, vì trong
phòng, ngoài mấy thứ đồ đạc, sách vở, chẳng có bàn ghế
gì cả. Tôi trấn an ông rồi ngồi xuống sàn gạch. Tôi tự
giới thiệu tên mình. Nhà văn bóp trán suy nghĩ, để lộ
bàn tay dài và gầy đét.
- Ơ,…Tôi nhớ rồi. Ông đã biên
tập quyển TĐƠTC của tôi?
Tôi gật đầu, lòng thầm cảm
kích. Tên người biên tập bao giờ cũng được đặt ở trang
sách cuối cùng, năm thì mười họa mới có người để ý tới.
Vậy mà đã qua năm, sáu năm trời rồi, nhà văn vẫn không
quên.
- À, mà tôi phải cảm ơn ông,
tôi sẽ nói với ông vì sao… Nhà văn tỏ ra hơi lúng túng
vì xúc động. Tôi thấy đôi mắt ông sau lần kính trắng
đang mở to và ánh lên niềm vui. Mình xin lỗi, vì không
ăn, thức ăn nguội mất. Dạ dày mình yêu quá rồi. Nhà lại
chẳng có ai… Ông nói như thanh minh. Ông rót chén nước
trà mời tôi rồi tiếp tục ăn điểm tâm, vừa trò chuyện với
tôi.
Quả tôi đã vô tình. Qua câu
chuyện, tôi mới biết năm nay nhà văn đã qua bảy mươi
tuổi. Con cái ông đều ở xa, có người ở tận trời Âu, ông
chỉ ở đây một mình, tự lo lấy mọi việc. Rồi Võ Hồng quay
sang hỏi thăm tôi đủ chuyện, ngạc nhiên vì thấy tôi còn
quá trẻ, ông hỏi tôi đã có vợ, con chưa. Rồi như thấy
mình hơi tò mò, ông giải thích rằng ông hỏi vậy để mừng,
vì vợ con như một cái vốn ở đời. Tôi tự nhủ, có biết bao
lòng nhân ái trong một câu hỏi thăm thong thường như
vậy!
Võ Hồng vào trong bưng ra cho
tôi một chiếc ghế bố, bảo tôi cứ ngả người trên đó cho
đỡ mỏi. Trong tư thế vừa song song vừa đối diện với nhà
văn, ông và tôi, một già một trẻ, cùng thăm hỏi, đàm đạo
nhau như bất tận, như một đôi bạn vừa mới kỳ ngộ nhau –
mặc dù trong thâm tâm tôi vẫn kính ngưỡng ông như một
người thầy, cả trên địa hạt văn chương lẫn cuộc sống.
- Tôi phải cảm ơn ông – Đôi mắt
nhà văn nhìn thẳng vào tôi, nhắc lại cái ý đã bỏ dở - vì
trước đây, hễ nghe đến biên tập là tôi sợ lắm. Mấy cái
ông biên tập trẻ trẻ như ông, hăng máu lên là phẹt phẹt
trong bản thảo, bất kể là gì.
- Cháu phải cảm ơn bác mới phải
– tôi nói – Với TĐƠTC, việc biên tập của cháu thật khỏe.
Nhà văn đã nói thực tình và
tôi cũng đã bày tỏ đáp lại ông như vậy. Văn ông viết rất
cẩn trọng, kỹ lưỡng. Song không biết do đâu, ông lại
sợ biên tập đến thế. Chỉ biết rằng cái ấn tượng ấy quả
đã không phải trong tâm trí ông. Cho đến gần đây, trong
bán nguyệt san Kiến thức ngày nay số 77 (xuân
Nhâm Thân), nhân việc nói về văn chương ngày trước, ông
còn móc một câu có vẻ mỉa mai: Thật là thời đại hoàng
kim của ngành biên tập. Khỏi cần thò bút sửa. Lời nói
của ông cũng nhắc tôi nhớ rằng, hồi biên tập TĐƠTC, anh
Hà Giao có bảo tôi rằng Võ Hồng rất sợ biên tập. Tôi mới
nảy ra một cái ý cần làm. Tôi soạn tỉ mỉ mấy chỗ cần sửa
lại (ít thôi) rồi gửi vào Nha Trang cho ông. Ông đồng ý.
Giờ nhớ lại điều này, tôi càng thấy vui, vì ít ra, tôi
cũng đã làm cho nhà văn hiểu rằng, người biên tập không
phải là một anh đồ tể lúc nào cũng lăm lăm ngọn dao phay
thọc huyết tác phẩm của người khác.
- Ông biết không – nhà văn
dường như thêm phấn khích, nói với tôi – Khi TĐƠTC ra
đời rồi, một hôm tôi nhận được một gói bưu phẩm do một
người lạ hoắc ở Nam bộ gởi ra. Tôi hé mở cái gói, nhác
thấy bìa quyển sách của mình, tôi giật mình than thầm:
Chết rồi. Thằng cha nào nó chửi mình đây. Bên trong
quyển sách có kẹp một bức thư. Tôi chận đọc ở đoạn chót,
thấy người đó bảo tôi ký tặng vào sách rồi gửi hoàn lại
theo địa chỉ cũ. Tôi vui sướng không gì bằng.
- Được giải Nobel cũng không
bằng.
- Đúng!
- Cháu đọc thấy Hemingway khi
đang đi chài lưới ở Cuba thì được tin mình được giải
Nobel. Nhà văn chỉ gửi bức điện cảm ơn mà không đi nhận,
thậm chí cũng không cười to lên như người ta tưởng. Có
lẽ đối với nhà văn, không gì quan trọng bằng tác phẩm.
- Đúng. Nên đối với nhà văn,
có phần thưởng nào cao quý hơn là từ phía bạn đọc. Tôi
kể chưa hết đâu. Mãi tới gần đây, ông bạn đọc nọ ra Nha
Trang họp hành chi đó, liền tìm đến thăm tôi. Về trỏng
rồi, ông lại viết thư ra nói rằng, đứa bé gái của ông
hỏi ba có tới thăm mộ Băng Trinh (một nhân vật trong
truyện) chưa. Tôi nghe mà cảm động quá chừng. À, mà văn
chương là cái cóc xái gì mà kể hoài hoài. Nhà văn cười,
vỗ hai bàn tay vào nhau đánh đét, kết thúc câu chuyện.
Tôi nhác trông căn phòng khá
đơn sơ của Võ Hồng, thấy trên cánh của tủ, tấm bảng con,
đâu đâu cũng có ghi mấy câu chữ Hán, mấy dòng tiếng Anh
thong dụng. Ông cười bảo tôi đó là những cái ông dạy cho
mấy đứa bé quanh nhà. Ông thích vậy. Mặc dù vợ ông đã
mất cách nay 35 năm, con cái đều ở xa, ông không chìm
trong nỗi buồn chán. Ông đã tự tạo niềm vui cho mình
bằng chính cái nghề mà ông đã trot dấn thân: nghề giáo,
nghề văn. Ông dạy học từ những năm Phú Yên cùng cả nước
kháng Pháp. Giờ đã trên tuổi thất thập ông vẫn viết,
vẫn dạy theo cách riêng của ông. Ông chưa bao giờ tự
tách mình khỏi cuộc sống. Ông coi trọng từng số phận nhỏ
nhoi ở đời. Và hẳn đây cũng là cái cách để ông khỏi quên
những tri thức ông đã học, đã dạy, đã viết.
Võ Hồng là một nhà văn rất coi
trọng việc học. Bên cạnh vốn tiêng Pháp mà ông học được
ở College Qui Nhơn trước 45, trong thời chiến tranh Pháp
– Việt và sau này ông còn học chữ Hán, tiếng Anh. Những
công cụ ngôn ngữ này hẳn đã giúp ông nhiều trong việc
thẩm thấu văn hóa cổ truyền Đông – Tây và tiếp thụ những
tri thức hiện đại. Và trong sáng tác, ông không bỏ lỡ
những cơ hội đưa vào những tri thức một cách hợp lý và
bổ ích, như niềm vui của một người thầy khi giảng những
bài vở mới lạ cho học sinh. Như những tri thức về ma túy
trong TĐƠTC chẳng hạn. Tóm lại, Võ Hồng là một trong số
không nhiều người hiểu rất rõ rằng, nhà văn trước hết
phải là một trí thức, một đại trí thức, bởi nếu chỉ có
vốn tri thức ít ỏi, nhà văn khó lòng làm tròn thiên chức
của mình trước xã hội, trước cuộc sống.
Song Võ Hồng có một bộ lọc khá
tốt để nhiều tri thức đông tây kim cổ thẩm thấu vào ông
mà ông không bị choáng gục, như ta thường thấy ở một số
trí giả khác. Tôi mời thuốc, ông từ chối. Thấy tôi
ngạc nhiên, ông bảo: Trước tôi cũng có ghiền. Ghiền
nhiều?. Ông nói: Trong đời tôi, không có cái gì là quá
mức cả. Tôi liền nghĩ đến tri thức của ông. Lối sống
chừng mực, vừa phải của ông chừng như là để cân bằng,
hòa trộn những cái không dễ hợp nhau: giữa các triết
thuyết Đông – Tây, giữa truyền thống và hiện đại, giữa
những dục vọng và sự thánh thiện, giữa cái đẹp với cái
bi và cái hài… Để cuối cùng, ông vẫn là một người Việt
đậm chất. Nhưng ông sống chừng mực chớ không phải làng
nhàng. Làm sao một người sống không đam mê lại có thể
viết văn, vốn là công việc đầy khổ lụy! Ông bỏ qua biết
bao cám dỗ để dồn sức vào hai (hay một) đam mê duy nhất
của ông: dạy và viết.
Thật may cho tôi, ngay từ
buổi sơ giao này, Võ Hồng đã không ngại thổ lộ đời riêng
của ông. Ông quê ở Ngân Sơn, huyện Tuy An của Phú Yên
tốt lúa từng dấn thân vào cuộc kháng Pháp trường kỳ.
Góa vợ từ năm 35 tuổi, ông đã gánh trên vai nỗi khổ của
cảnh gà trống nuôi con. Hơn thế, ông đã dốc sức cho
người con trai ông đi du học tự túc bên Tây, để tránh
quân địch. Cũng có thời, nhà văn được mời vào Hội đồng
văn hóa giáo dục của phủ tổng thống chính quyền cũ. Giữa
những nhà văn chống cộng hoặc trung lập, ông thuộc hạng trên núi xuống. Té ra, chính phủ Việt Nam cộng hòa hồi
đó, đã đánh giá ông khá cao, cũng cần đến ông. Về phần
mình, được một dịp giúp dân, ông đã không từ chối. Nhưng
có sự cám dỗ nào có thể biến đổi được ông! Thi thoảng
ông đáp máy bay từ Nha Trang vào Sài Gòn, vào Dinh Độc
Lập, để họp Hội đồng. Gặp người quen có ai hỏi, ông chỉ
nói ông đi thăm con. Tánh ông vốn thế!
Giờ thì tất cả đã trôi qua.
Con cái ông đều ở những phương trời xa tít. Chỉ còn một
mình ông, tuổi đã cao, bình thản ở lại thành phố biển
thân yêu của ông.
Khi nhớ rằng ông đã bước qua
tuổi thất thập, tôi hỏi ông đã chuẩn bị gì cho tuyển
tập cả đời văn chưa. Ông ngập ngừng rồi thở dài không
đáp. Có lẽ câu hỏi này chính ông cũng không trả lời
được.
Trong đời có những người mà
Chỉ cần nghĩ đến một con người như vậy là ta lại cảm
thấy yêu đời, trí óc ta lại trở nên tỉnh táo. Đó không
chỉ là cảm giác của Gorky trước Tchekhov, còn là cảm
giác chung của nhiều bạn đọc, bạn văn khi tiếp xúc với
Võ Hồng. Riêng tôi, khi được diện kiến ông, tôi bỗng
thấy những bả vinh hoa trong đời không còn nghĩa lý gì
nữa và chỉ thấy thuần một lòng kính ngưỡng ông. Tôi
những muốn thốt lên: đúng là một người thầy, một văn sĩ!
Có lẽ không cần một hình dung từ nào khác, với Võ Hồng,
bấy nhiêu thôi, cũng vừa đủ.
(*)Thiên đường ở trên cao.
|