Với
nhân dân miền Nam, ông vẫn giữ cho ngòi bút của
mình đứng thẳng, không thách thức nhưng vẫn ngạo
nghễ, thái độ khách quan trung thực với lương
tâm của người cầm bút. Tất cả những gì hiện ra
dưới ngòi bút của ông, trước khi biến thành mực
chảy thấm vào trang sách, đã chảy qua trái tim
yêu nước bắt nguồn từ truyền thông dân tộc,
loang thấm dần qua hai cuộc kháng chiến. Quả
thật, không gì quý bằng, trên quãng đường đi giả
nửa đời người, ông vẫn giữ được cái màu đặc sánh
máu thịt của nhân dân, không hề bị phai loãng.
Tư tưởng yêu nước của Võ Hồng, không thể hiện
được ở quan điểm chính trị khô khan, trực tiếp
mà được hiểu theo một ý nghĩa rộng hơn, nâng lên
một cấp độ cao hơn, khái quát hơn ở tấm lòng
nhân ái, tình yêu thương nồng nàn đối với con
người, bời quê hương đất nước. Đó là chủ đề đi
dọc chặng đường văn học của nhà văn.
Trở
về với ký ức sâu thẳm, nhìn lại những ngày đã
qua trong kháng chiến chống Pháp hoặc cầm ngòi
bút vào thực tại sôi động của đời sống nhân dân
vùng tạm chiếm miền Nam. Võ Hồng xoay quanh cái
trục cơ bản của tư tưởng nhà văn ấy.
Nhà
văn là nhà tư tưởng. Nhưng không phải tất cả các
nhà tư tưởng đều là nhà văn. Mục đích chính trị
của Võ Hồng lại nằm ngoài tư tưởng chính trị,
được hiểu ở nghĩa rộng hơn, ờ tầm văn hóa. Ông
đã có lần nói rằng: “Tôi chỉ nhằm mục đích văn
hóa, muốn ghi lại cho các thế hệ đàn em hiểu rõ
những nếp sống của dân tộc trong thời kỳ chống
Pháp. Hoàn toàn không có mục đích chính trị (1).
Đó chỉ là cách nói của Nhà văn, không chỉ để an
toàn chính trị, mà là để những gì ông viết ra có
cơ hội đến với bạn đọc; đồng thời thể hiện quan
điểm văn học của ông, cách làm của ông – một thứ
văn học nồng nàn hơi ấm tình người, đâm chồi ý
nghĩa nhân cách, qua cách thể hiện tự nhiên,
khách quan đến tâm hồn.
Và,
cũng là quan niệm văn học ấy, nó đã xác lập phạm
vi văn học yêu nước vùng tạm chiếm với văn học
giải phóng, khẳng định những đóng góp riêng của
Võ Hồng trong dòng văn học yêu nước, khác với
tiếng nói to đầy mạnh mẽ, tiếng thét xuống đường
quyết liệt của văn học tranh đấu của thế hệ trẻ
đang học hỏi trong các báo chí công khai thời
bấy giờ. Tinh tế, nhẹ nhàng nhưng đầy sức thuyết
phục của sự phản ánh khách quan theo kiểu riêng
của mình. Võ Hồng đã hướng những tình cảm thiết
tha tận đáy lòng mình về phía kháng chiến, về
nỗi hoài cố nhân, với sự
trầm mặc cây rừng và tìm thấy tất cả
niềm hy vọng ở lá vẫn xanh trên
vết hằn năm tháng của hoài mong.
Hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp được tiếp
tục tái hiện trong sáng tác Võ Hồng, không phải
chỉ vì đó là nguồn đề tài chưa vơi cạn mà vì ông
muốn trình bày một cách hiểu đúng đắn về cuộc
kháng chiến hào hùng của dân tộc đã đi qua.
Xuất thân trong một gia đình khá giả ở nông
thôn, những kỷ niệm của tuổi thơ êm đềm đã bước
vào tâm hồn nhạy cảm của ông một tình yêu quê
hương sâu sắc, đến tuổi trưởng thành ông lại
được chứng kiến không khí sôi động của những
ngày cách mạng Tháng Tám, trực tiếp tham gia
cuộc kháng chiến của toàn dân. Điểu ấy có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành
văn cách của Võ Hồng. Một số truyện ngắn trong
hai tập Hoài cố nhân, Trầm mặc cây rừng
và bộ tiểu thuyết liên hoàn Hoa bươm bướm,
Như cánh chim bay đã dựng lại một cách
chân thực diện mạo đời sống kháng chiến của nhân
dân các tỉnh Nam Trung Bộ. Cố nhiên, không thể
đòi hỏi ở Võ Hồng những gì mà ông không thể có
được. Võ Hồng triển khai mạch văn trên một diện
rộng, ngoặt ra nhiều ngã rẽ, hướng về nhiều vấn
đề, nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống kháng
chiến, dưới một hệ thống hình tượng nghệ thuật
đa dạng mà tập trung thể hiện các nhiệm vụ kháng
chiến chính của công tác kháng chiến: chống giặc
đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm.
Bối
cảnh làm nên cho Hoa bươm bướm và
Như cánh chim bay chỉ giới hạn
trong phạm vi một vài địa phương mà người viết
đã đi qua trong kháng chiến: Đà Lạt, Dran,
Phương Cựu, Tuy Hòa, Phú Yên… Nhưng nó có khả
năng khái quát được hiện thực kháng chiến ở
nhiều vùng, nhiều thời điểm lịch sử khác nhau
trong thời gian chin năm ấy, với những phong
trào, những sinh hoạt của nhân dân, cùng những
con người thuộc đủ mọi tầng lớp khác nhau trong
xã hội, bước vào cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm một cách hăng hái, nhiệt tình và tự giác. Đó
cũng là không khí chung của nhiều miền quê kháng
chiến trên khắp đất nước lúc bấy giờ.
Đó
là những người dân nghèo khổ, khốn cùng “ở trần
mãi da đâm chai đi, đến lúc mặc áo vào lại sinh
ra ngứa ngáy, khó chịu” như lão Tâm có cuộc đời
“gần sáu mươi hai tuổi, hồi tưởng lại, không năm
nào được thong thả, nghỉ ngơi” (tr.157, NCCB).
Dẫu cách mạng đến lâu rồi, lão vẫn nghèo, đến
nỗi không có cái cuốc để đi phá đường tiêu thổ
kháng chiến. Nhưng cái nghèo bây giờ không làm
không làm lão nhụt chí, cái nghèo càng thúc đẩy
lão lên tiếng bênh vực cách mạng, tranh cãi,
đánh lại “kẻ bề trên” đã mấy đời đè đầu cỡi cổ
dân đen, như Hương Năm Dỏn. Đó là Chị Hậu tất
bật giữa chuyện nhà, chuyện cửa, chuyện đồng áng
nhưng vẫn không xao nhãng công tác; chị Tha cán
bộ tuyên truyền thôn hát sai giọng sai nhịp
nhưng đêm phát thanh nào cũng sẵn sàng lên “giúp
vui đồng bào” một tiết mục…
Võ
Hồng tỏ ra chân thực và tinh tế khi miêu tả
người cán bộ, bộ đội. Đó là những người nông dân
mặc áo lính: “Học được mươi chữ, đánh vần ngọng
nghịu oe, oẹt, oeo…thì tiếp đến có cuộc
hành quân, bắn rát mặt, chạy hụt hơi, đến hồi
trú quân giải lao, kiểm tra lại thì chữ nghĩa
rơi rớt hết trọi. Chẳng biết rớt ở chặng đường
nào, bờ bụi nào” (Tr.102). Hiện thực cuộc kháng
chiến sôi động, dưới bút lực của Võ Hồng hiện ra
không phải chỉ toàn những điều tốt đẹp. Có cả
những thiếu sót sai lầm của bản thân từng cán bộ
phần lớn xuất thân từ thành phần lao động, ít
học hành, có nhiều hạn chế về năng lực nên có
lúc vi phạm cả chính sách (sai sót trong công
tác vận động nếp sống mới, bài trừ mê tín, cưỡng
bức bình dân học vụ, cố đông đủ chỉ tiêu tuyển
quân…).
Khung cảnh của đời sống kháng chiến hiện ra với
tất cả sự phong phú và chân thực, có ý nghĩa phổ
biến: cảnh dạy học trong những chòi lá và các
cổng gác chặn đường đố chữ, cảnh tăng gia sản
xuất tự túc, cảnh tiêu thổ kháng chiến, các
đường giao thông phải đúng goòng, cảnh làm lễ
xung phong nhập ngũ, cuộc sống thiếu thốn phải
thay xà phòng tắm bằng lá chuối non… hình như đã
từng chứng kiến, đã từng trải qua và khảm vào
trong ký ức thành kỷ niệm đẹp đẽ thời trai trẻ
của một thế hệ, hoặc từng nghe qua lời kể của
cha ông thành máu thịt cuộc đời đi qua, để lại
cho ta nên vóc nên hình. Không gian của tháng
năm kháng chiến được tái hiện trên trang sách
sôi động, như một mảng đời luôn cựa quậy, nhắc
nhở, phát ra những âm thanh thu hút mọi người.
Hạn
chế của Võ Hồng ở các tiểu thuyết này là nhân
vật trung tâm chưa được ông dụng công khắc họa
nổi bật, chưa có quá trình phát triển tính cách
một cách rõ nét và phù hợp với lôgic đời sống.
Người viết thường sa vào các chi tiết vụn vặt để
cho chất liệu đời sống ùa vào lấn áp sự phát
triển của tính cách, làm cho truyện gần với hồi
ký hơn là tiểu thuyết. Những hạn chế này được
khắc phục trong các truyện ngắn ờ hai tập
Hoài cố nhân và Trầm mặc cây rừng.
Đây là những trang đời đầy xúc động về những năm
tháng không yên trước và sau cách mạng bùng nổ.
Những trang văn đẹp, những hoài niệm trữ tình về
thời trai trẻ, có thể nói là một trong những
trang văn hay nhất viết về Hà Nội, Đà Lạt, Nha
Trang, Tuy Hòa. Đôi khi chỉ là truyện tình yêu
lứa đôi (Hoài cố nhân, Ngày xưa, Hà Vi,
Trầm mặc cây rừng…) vẫn có sức liên
tưởng, gợi lên những tình cảm lớn lao về lịch sử
oai hùng của dân tộc còn hắc sáng lên trong
khoảng sâu thẫm của tâm hồn người đọc, dội mãi
vào mai sau.
Viết về thực tại của xã hội vùng tạm chiếm miền
Nam, Võ Hồng tiếp tục ngợi ca tình yêu quê
hương, những người nông dân chân chất sống giản
dị, mộc mạc: “Quê hương được nuôi dưỡng, được
bồi đắp, được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm
của đại đa số những người sống đạm bạc, nghèo
nàn nơi thôn quê chứ đâu phải nhờ lớp thị dân
sung sướng nơi thành phố” (2). Ở truyện dài và
tiểu thuyết, Võ Hồng đã dựng được không khí xã
hội hiện thực, neo chặt vào dòng chảy của thời
gian và có dư vang trong đời sống đa chiều: chỉ
ra được con đường phát triển, đời sống nội tâm
của nhiều nhân vật điển hình, có tác dụng sâu
sắc và lâu bền trong lòng người đọc.
Qua trang viết Võ Hồng
thường biểu lộ mọi điều tốt lành cho mọi người,
mọi nhà… Thế giới nhân vật của ông là thế giới
của những con người yêu thương, độ lượng. Dưới
ngòi bút của ông nhân vật nào cuối cùng cũng có
thể trở thành con người tốt. Ông kéo tất cả
những gì tốt đẹp về phía mình, những người tốt
bụng về đứng chật tâm hồn nhân ái, ấm áp tình
người của mình. Do vậy, kết thúc của các truyện
dài thường rơi vào bế tắc, lại phải tìm đến một
giải pháp ảo tưởng với các “Thiên đường ở trên
cao” ở ngoài cuộc đời thực: Thuyên chết, Nhàn về
quê nuôi con và lập cơ quan từ thiện (Gió
cuốn); cuộc đời khốn cùng của bé Thủy
cuối cùng lại gặp được dược sĩ Uyên (Nhánh
rong phiêu bạt); bé Ngọc cũng gặp được
gia đình tốt bụng nhận làm con nuôi (Công
chúa lạc loài), James Huỳnh không trả
thù Khải và Băng Trinh mà bỗng nhiên hào hiệp
giải tán băng du đảng để làm lại cuộc đời
(Thiên đường ở trên cao). Tư tưởng nhân
ái của Võ Hồng đã giúp ông dễ dàng thành công
khi xây dựng nhân vật tích cực, chính diện,
nhưng đối với nhân vật xấu, nhân vật phản diện
ông thường rơi vào mơ hồ, giản đơn. Tâm hồn Võ
Hồng như được đúc bằng khối thủy tinh thương,
không chịu nổi những va chạm mạnh, nên đôi khi
lên án cái ác cũng hết sức ngọt ngào.
Đọc Võ Hồng, chúng ta
khó tìm thấy những tư tưởng lộ liễu, tính gây
cấn và những lời lẽ mạnh mẽ. Như một người có
nội công thâm hậu, ông chỉ nói về những việc
bình thường, những chuyện có thật trong đời sống
quanh mình, chuyện của chính bản thân và gia
đình, những chuyện không có chuyện. Tư
tưởng sâu sắc lại được biểu hiện qua những chi
tiết hết sức bình thường, người đọc không phải
truy tìm ờ nhiều tầng, nhiều lớp xa xôi cũng có
thể nhận thức được vấn đề. Biệt tài dựng truyện,
tạo không khí cho truyện và xương thịt cho tính
cách qua từng nét phát thảo cô đọng, làm cho Võ
Hồng gần gũi với Nam Cao. Ở ông có cái hóm hỉnh
sinh động của Nguyễn Công Hoan, tình cảm nhẹ
nhàng chân chất và tha thiết của Thạch Lam, lại
có cả sự sắc sảo của Nam Cao. Không phải là sự
cộng lại pha tạp, ảnh hưởng mà là sự nhất quán
của một văn cách tài hoa theo kiểu của Võ Hồng.
Võ Hồng là người thận
trọng, chăm chút, lựa chọn để đặt đúng chỗ đúng
câu, từng chữ ngôn ngữ nhân vật thể hiện đúng
trình độ, lứa tuổi, địa vị xã hội. Cách viết của
ông giản dị nhưng giàu hình ảnh, kết hợp với lối
tư duy giàu sức liên tưởng, nhờ đó mỗi hình ảnh
của ông đều có sức gợi cảm theo cấp số nhân,
những liên tưởng vừa dí dỏm và tinh tế tạo cho ý
nghĩa thẩm mỹ nhiều sắc diện đa năng. Võ Hồng là
người có vốn sống phong phú, nhạy cảm, nắm bắt
được tâm lý của nhiều loại người khác nhau: sự
sa ngã tất yếu của một người xuất thân từ tầng
lớp trên sa sút như Thuyên, cái sắc sảo của
người đàn bà góa ở nông thôn Việt Nam như cô Ba
Hường (Dấu chân sa mạc), cái chân
chất của anh Năm Nhiều (Thế giới của Năm
Nhiều), cái chập chờn khoan khoái của
những người nghiện ma túy (Thiên đường ở
trên cao), cái ngây thơ hồn nhiên của bé
Thúy (Nhánh rong phiêu bạt), bé
Ngọc (Công chúa lạc loài)…
Đến với văn học, Võ Hồng
đã đặt chân qua nhiều lĩnh vực: thơ, phê bình và
cuối cùng tìm thấy chỗ đứng của mình trong văn
xuôi. Nhưng có lẽ ở truyện ngắn ông thành công
nhiều hơn là truyện dài, tiểu thuyết. Truyện
ngắn Võ Hồng không đi sâu vào những bi kịch gia
đình để khái quát lên thành bi kịch xã hội như ở
các truyện dài, mà đi vào những mảnh đời, riêng
lẻ, những thoáng chốc chênh vênh trong tâm trạng
con người, cũng có khi gợi lên từ những phản cảm
để đưa đến đồng cảm. Kết thúc truyện ngắn luôn
chặt chẽ, phù hợp với khi đặt vấn đề theo chu kỳ
của ý đồ nghệ thuật. Những truyện ngắn xuất sắc
của Võ Hồng, sẽ còn làm say lòng nhiều thế hệ
người đọc như Lương mai, Trong vùng rêu im
lặng, những trang viết về nông thôn Việt
Nam như Tình yêu đất, Dấu chân sa mạc,
những trang miêu tả Hà Nội cổ kính lung linh qua
Hoài cố nhân, Ngày xưa, những
trang đời trĩu nặng ôm lấy số phận những con
người miền Trung hiền lành, dung dị trong
Như con chim sơn ca, Bên đập Đồng Cháy…
Hình như Võ Hồng không hề viết theo đúng nghĩa
của động tác cơ học, mà là thể hiện, trải rộng
tâm hồn mình ra trang giấy rồi gài lại, ghim lại
từng mối chỉ lóng lánh kim tuyến tạo nên truyện
một cách tự nhiên. Nhiều truyện có thể dừng lại
nhưng người đọc lại bất ngờ biết thêm một quãng
đời của nhân vật mà cũng chặt chẽ, không tản
mạn, nhàm chán (Những bí mật của
anh Đỗ Cúc, Lương Mai, Thế giới của Năm Nhiều).
Võ Hồng rất giỏi kể
chuyện. Trình tự phát triển của nghệ thuật miêu
tả thường khảm vào một cốt truyện mang tính tự
sự. Trong khoảng cách giao thoa ấy bao giờ cũng
xuất hiện âm hưởng nồng nàn của tình người.
Nhưng cũng chính lối kể chuyện trên lại làm cho
các truyện dài của ông rơi vào tản mạn thiếu tập
trung vào chủ đề, thiếu xung đột để gây những
xúc động mạnh mẽ. Truyện của Võ Hồng thường xuất
hiện ở ngôi thứ nhất – người dẫn truyện – và hẳn
cũng là từ chuyện mình, gia đình mình mà nói ra
thành chuyện người, chuyện xã hội. Tâm hồn người
viết là khối thủy tinh trong suốt, hắt ra một
thứ ánh sáng dịu dàng bao phủ lên từng số phận,
soi tỏ xâu chuỗi được tất cả những gì diễn ra
trong thực tại.
Bên cạnh đó, tuy nhận ra
sức mạnh to lớn của nhân dân, đôi khi ông tỏ ra
thiếu tin tưởng, dao động, coi thường vai trò
của quần chúng trong khi đi sâu khai thác tâm
trạng thế sự. Chẳng hạn đoạn đối thoại về vai
trò của quần chúng giữa Khải và Dung
(tr.69, Thiên đường ở trên cao), hoặc
đoạn phân tích tâm lý thế sự trong Như
cánh chim bay: “Đồng bào bao giờ cũng
tham lam, cũng chủ quan, cũng muốn vơ hết phần
lợi, phần tiện, phần khỏe về họ, bất chấp quyền
lợi của người chung quanh (tr.179). Trong khi đó
hầu hết nhân vật trung tâm mà Võ Hồng đặt tất cả
tình yêu thương của mình mà tập trung khắc họa
một cách tích cực, như Luân, Quy (HBB, NCCB),
Ngọc (CCLL), Thúy (NRPB), Băng Trinh, Khải, Kiều
Chân (TĐƠTC)… đều những người xuất thân từ tầng
lớp trên sa cơ thất thế bị đẩy vào khốn cùng.
Hạn chế này do định kiến của bản thân người
viết, là ưu điểm nổi bật của riêng ông khi đi
sâu khai thác trên thế giới của những bi kịch cá
nhân của những người thuộc tầng lớp trên gắn
liền với những thăng trầm của đất nước, của dân
tộc.
Hai mảng hiện thực lớn
được phản ánh trong sáng tác Võ Hồng bổ sung cho
nhau làm tăng thêm sức mạnh tư tưởng yêu nước
của nhà văn. Đừng đòi hỏi mọi nhà văn phải lên
gân lên cốt, đều có cách lập ngôn gân guốc, có
cái nhìn nhọn hoắc vào thực tại để có tinh thần
chiến đấu cao, trong một hoàn cảnh có nhiều hạn
chế lịch sử. Đề cao tình người, bởi những khát
vọng của nó, khẳng định cái phần tốt trong con
người để chống chọi lại những nguy cơ hiểm ác từ
bên ngoài con người, có cái nhìn bao dung đối
với sai lầm, độ lượng với phần xấu trong con
người để thức tỉnh trong họ sự hướng thiện – đó
là cách viết của Võ Hồng và ông đã có những
thành công được ghi nhận.
Điều quan trọng hơn là
những vấn đề Võ Hồng đặt ra cho đến nay vẫn chưa
hết tính thời sự, những hình mẫu con người được
nhà văn tạo ra vẫn sống mãi đến bây giờ. Bởi lẽ,
Võ Hồng đi từ con người, xoay quanh những vấn đề
của con người. Lối sống chạy theo đồng tiền chà
đạp lên tất thảy mọi giá trị, khuynh hướng vật
chất hóa con người, lãnh đạm trong mối quan hệ;
những tên cơ hội, phản bội, lợi dụng chức quyền
tham ô hối lộ thời nào cũng có; tiếng kêu thống
thiết chống chiến tranh, xây dựng tình thương
yêu con người, vì con người… bàng bạc trong từng
câu, từng chữ, khảm vào từng mạch văn làm xao
động lòng người.
Người viết văn là người
đi đường dài mà không biết mỏi – Nguyễn Tuân đã
có lần nói như vậy. Cho đến nay tuổi đời đã đi
hết hơn hai phần ba thế kỷ, Võ Hồng vẫn miệt mài
với trang giấy đang ngày càng rộng thêm ra, mênh
mông trước mặt.
(1)
Trịnh Hoài Thư – Nói chuyện với tác giả
Như cánh chim bay, Văn S.C.1968.
(2)
Giai phẩm Văn – Số đặc biệt về nhà văn
Võ Hồng, 1974. |