|
4
- Khoảng Mát
Khoảng mát
– tác phẩm thứ năm của Võ Hồng
(An Tiêm xuất bản – Sàigòn 1966) – 198 trang – Gồm 7
truyện: Mẹ và Em, Đôi chim bồ câu,
Đụng độ, Dốc hiểm nghèo, Con đường gai, Khoảng mát, Chuyện
cái răng.
*
Mẹ và em
trước
hết cái tên truyện đã không phản ảnh được nội dung truyện. Lẽ tự
nhiên tên truyện cũng chỉ là một cái tên không nhất thiết phải thể
hiện nội dung truyện. Có thể tác giả đặt tên cho truyện như một sự
tình cờ hay nhằm vào một ý chính hoặc chủ đích. Ở đây thì mẹ và em
không phản ảnh một ý nghĩa nào của truyện và nếu là sự tình cờ thì
sự tình cờ trên rất gượng ép, gò bó. Đâu là mẹ, đâu là em và khởi từ
một chất liệu nào hàm dưỡng từ một ý nào tác giả đã dùng hai chữ Mẹ
và Em đặt tên cho truyện? Chúng tôi chỉ thấy một sự gượng ép. Trước
hết, Mẹ và Em chỉ là truyện của một chàng thanh niên tên Lưu. Chàng
không có một cá tính nào đặc biệt, mẫu đời của chàng ở một nhiệm sở
mới cũng không có nét nào tương đối đáng cho ta ghi nhớ. Lưu hoàn
toàn là một cái bóng mờ nhạt. Sao tác giả lại gắn bó cho Lưu một số
giá trị. Thứ giá trị được Nhìn ngắm trên những ý tưởng mệt mỏi và vô
căn. Chẳng hạn “Con người nuôi dưỡng quá nhiều thù hằn dưới một
lớp kính xã giao quá mỏng và trong suốt. Lưu mỏi mệt trong cái không
khí nóng bỏng những tranh giành thù hận đó” (tr.13). Nhân vật
Lưu sống và suy tư đầy gượng ép. Suy tư của Anh chỉ là những gì đóng
khung trong một số tư tưởng vụn vặt. Lưu cũng đã từng mệt mỏi, la
cà hết phòng trà này qua phòng trà khác, rồi bất chợt “Lòng Lưu
thấy phấn khởi vui vẻ. Anh thấy tin tưởng ở sức mạnh cần lao và lòng
thiện” (tr.19). Nhân vật Lưu ta thấy có vẻ na ná như chàng Duy
trong Con Đường Sáng của Hoàng Đạo. Song Lưu lại không có gì đặc
biệt cả trong cá tính. Anh ta cũng không có lấy một nét nào trỗi bật
trong nếp nghĩ và nếp sống. Tuy nhiên, Võ Hồng thì như muốn lý tưởng
hóa chàng như một mẫu người điển hình cho sự thức tỉnh tư duy. Tác
giả đã không thành công trong chủ đích như vậy. Và Lưu chỉ là một
nhân vật khô cứng không thể cựa quậy trong một chu vi hạn hẹp mà
chính tác giả đã vạch ra để nhốt chàng.
* Đôi chim bồ câu
(tr.31 –
tr.50) là một truyện thường. Ở đây, đôi chim bồ câu như chỉ là một
cái cớ để tác giả trình bày một số ý nghĩ của ông về Tình yêu – Tình
yêu của loài chim và Tình yêu của loài người. Tác giả viết: “Trong
các giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu (…). Tôi
yêu mối tình đằm thắm của chúng đối với nhau. Những buổi nắng đẹp
chim đực đi xung quanh người yêu, miệng rầm rì những lời thiết tha”
(tr.31). Còn tình yêu của loài người thì sao? – Theo tác giả “Tôi
nhớ rằng khi yêu, con người có thể hạ mình làm những việc tầm
thường, thậm chí có thể làm những việc ngu si được. Nhưng khi đã
không yêu thì họ tàn nhẫn lắm” (tr.43). Tác giả hoài nghi và
nhàm chán tình yêu của loài người? Có lẽ vì thế, ông tìm thú nuôi
chim bồ câu, tìm sự an vui trong tình tự thương yêu của loài chim
này. Ông đã thất bại. Vĩnh, cô bạn gái của ông cũng thất bại như
thế. Nhờ đó, tác giả tìm được an ủi qua sự thất bại của cô bạn. Cũng
nhờ đó mà hai người tìm được cơ hội cảm thông nhau “Chúng tôi
cùng một tâm trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi tương
tự như tôi” (tr.49). Chủ đích của truyện nhằm vào một chiều sâu
và từ đó tác giả muốn nói lên một điều gì cao hơn cái lẽ thường tình
của lòng ưa thích nuôi chim bồ câu. Điều đáng tiếc là tác giả đã
không làm nổi bật được. Truyện diễn tả một cách nặng nề, khô cứng
nên khó đạt được yếu tố truyền cảm để đủ nói lên cái chủ đích nhắm
về chiều sâu và chiều cao của truyện. Khi tả về đời sống của đôi
chim, tác giả thiếu hẳn sự quan sát linh hoạt nên tác động của chúng
rất khô cứng và tựa hồ như một bức tranh vẽ đã không khéo lại được
làm bản kẽm in trên nền giấy tốt. Nền giấy tốt ấy chính là chủ đích
và một ý thức muốn nói lên một điều gì của tác giả qua truyện.
*
Đụng độ
(tr.53
– tr.76) truyện ghi lại những kỷ niệm vui ít buồn nhiều của giới
thầy giáo đi chấm thi. Truyện được mô tả khá sống động và hoạt. Từ
một việc thí sinh uy hiếp giám thị, hành hung giám khảo đến chuyện
thí sinh ném súng lên bàn… Thôi thì đủ mọi trò “cười ra nước mắt” mà
giới thầy đã phải đưa vai gánh chịu. Nếu độc giả từng là một nhà
giáo từng đi coi thi chấm thi thì truyện trên tựa hồ như một cuốn
phim rất thực quay từ một thực tại bội phần cay đắng. Tác giả đã
quan sát một cách linh động nên hoạt cảnh vừa rõ vừa sống.
Đoạn tả
ông Chánh chú khảo thì đúng quá rõ quá. Ông ta quả là công chức
gương mẫu, một nhà giáo chân phương mực thước vốn nhút nhát, có hàng
tram mối lo sợ. “Nhà giáo mẫu mực, lo xa lúc nào cũng tự vạch cho
mình những ranh giới và nhất định chỉ đi trong ranh giới đó. Đối lập
với chính quyền đó là
điều không bao giờ Cụ nghĩ tới” (tr.66). Ông Chánh chủ
khảo có thể là đại diện cho một lớp công chức già nua bất lực. Hôm
hội đồng giám khảo họp để bày tỏ thái độ vụ học sinh hành hung giám
khảo. Ông Chánh thực là một người đáng thương. Vì một mặt ông phải
bênh đồng nghiệp. Mặt khác, ông lại sợ chính quyền chỉ vì là công
chức. Song cái xót xa đáng thương hơn cả là ông Chánh đã phải đương
đầu với bọn trẻ cùng một nghề nhưng “tim phổi thì còn căng đầy nhựa
sống”.
Đọc xong
truyện trên, bỗng dưng thấy hoàn toàn nản. Với Đụng độ thì tự
nó đã phơi trần tình cảnh tan
rã giữa một già một trẻ, giữa trò và thầy trong đó giới thầy
giáo chỉ như một kẻ bất lực chung thân. Đặc biệt trong truyện tuy sự
việc thì rất nhiều song lời lại đơn giản, tình tự diễn biến theo một
nhịp tuần tự mực thước, mỗi sự việc đều tương quan theo một mạch
chung. Rồi mỗi sự việc tự nó lại tỏ bày một góc cạnh trong hoàn cảnh
riêng. Điều đáng tiếc, có lẽ tác giả bị ám ảnh quá nhiều về nội dung
chứa đựng cho thích hợp với con đường chung thủy cho nên
“đoạn kết” (mà đáng lẽ không nên có vì chỉ làm giảm sút nồng cảm
khích của truyện) đã làm cho truyện có vẻ chắp vá gượng ép qua đoạn
cuối khi “tả” cảnh trò cũ gặp thầy tay bắt mặt mừng để như là để….tỏ
ra ở tình đời vẫn còn đẹp. Cái “cổ” rất cũ là ở chỗ gượng ép như
vậy.
* Dốc hiểm nghèo
(tr.79 –
tr.97) một truyện thường khác trong Khoảng Mát. Đọc cho hết truyện,
thật không thể tìm ở đâu ra một con dốc hiểm nghèo nào. Truyện thiếu
chất sống và quá nhẹ nếu không muốn nói là nhạt. Truyện lại cơ hồ
chất đầy một thứ trưởng giả và ảo giác thoát. Nhân vật tôi
lãng đãng như muốn bay bổng tâm hồn vào chốn phù du của hoa bướm tựa
hồ như một dịp giải thoát trong thoáng chốc. Nhưng vì nó không xuất
hiện từ một nguồn sáng tạo theo nhịp điệu thực của cảm tính nên văn
thiếu hẳn chất truyền đạt. Sự dựng truyện có
vẻ trình diễn có nghệ thuật song không nắm vững được nghệ
thuật của tương ngộ nhân vật trong một hình tượng sống.
Sau
Dốc hiểm nghèo là hai truyện Con đường gai và Khoảng
mát. Hai truyện này, độc giả có cảm tưởng Võ Hồng như cạn đề
tài, nên không đạt được sắc thái rõ rệt. Tuy Khoảng mát có
nói lên được một vài sinh hoạt hồn nhiên và cảm động giữa khung cảnh
gia đình cha con, song nó vẫn khô khan thiếu cảm tính. Nếu Khoảng
mát đặt bên một Lạnh tuổi thơ người đọc sẽ ngỡ ngàng
trước một Võ Hồng – cái tôi chân thật của đồng hoa cỏ nội và một Võ
Hồng khô khan nặng phần trình diễn gượng ép (qua Khoảng Mát) chỉ vì
nguồn nước trong đã bị tát cạn.
Trong
tập truyện Khoảng Mát, truyện Cái răng có phần trỗi bật hơn
cả. Câu truyện tuy tầm thường nhưng từ sự tầm thường của một cái
răng gẫy Võ Hồng đã làm nổi bật được sự độc đáo. “Văn có những kỷ
niệm không mấy êm đềm về những cái răng của mình”. Từ đó, ký ức
của Văn được viết ra theo diễn tiến của thời gian khách quan qua một
thứ ngôn ngữ của đời sống, tươi trẻ và bình dị mộc mạc. Chuyện
Cái răng của Văn gắn liền với đời sống của Văn, tương quan với
cả biến thái và tiến trình của thời đại.
* Chuyện cái răng.
Răng của
Văn trở như cái mốc ghi dấu chân của một đoạn đường kỷ niệm. Hồi nhớ
lại ngày anh còn ở trọ cắp sách đến trường, một cái răng đau khiến
Văn phải năm im ôm má đưa mắt lên nhìn cảnh xum họp vui vầy của nhà
trọ rồi mường tượng đến cảnh quê nhà ở Xóm Lò Gốm “Ôi! Bao nhiêu là
đầm ấm thế mà nó phải nằm một mình ở đây, ôm một cái răng nhức”.
Bẵng đi một thời gian, cuộc sống không còn ghi dấu bởi những cơn
nhức răng. Năm 19, 20 khi chàng ở Hà Nội – xa quê hương cả ngàn cây
số - Văn lại bị ám ảnh về một cái răng hàm có chấm đen. Cái răng lại
thêm một lần nữa ghi dấu kỷ niệm của Hà Nội (từ tiệm trồng răng Minh
Sinh đến trường Thuốc. Và đã bao lần chàng phải thuyết trình về tiểu
sử của nó cho Nha sĩ do thám rồi rọi hình kềm cặp). Cái răng cứ như
thế đuổi theo chàng như thân phận chàng từ năm 19, 20 đến khi trưởng
thành rồi già nua theo năm tháng. Cái răng vẫn là một ám ảnh. “Văn
thấy đầu mình choáng váng như vừa nhìn phải một cái chớp giật”.
Sự đau đớn của thân xác chỉ do cái răng đã cho đời chàng nhiều kỉ
niệm khó quên , đã làm tâm hồn chàng càng thêm phong phú, sâu sắc,
và đồng thời cũng do cái răng. Như chừng nó đã giúp chàng khám phá
ra bao điều tốt đẹp để thấy rằng đời sống rất khó sống như cái răng
rất khó nhai, khó nói khó phát âm nhưng đời sống thật rất đáng sống
cũng như cái răng. Không thể tách rời thân xác và tự nó giúp cho ta
tìm thấy rõ thực những nhu cầu của thân xác tương quan với tâm thức
và tâm thức như một nhu cầu cảm thông giữa người và người. Cái răng
quan trọng là vậy. Dù bình thường không ai nghĩ đến nó – Không ai
ngờ cái răng lại tác dụng sâu xa đến tâm hồn như vậy.
Nhà văn
chỉ là nhà văn khi chàng không đóng vai trò một người thuật truyện.
Qua truyện Cái Răng cũng như Thế giới của Năm Nhiều,
Dấu chân sa mạc…Võ Hồng xuất hiện như một người thuật truyện.
Ông đã biết dựa vào kinh nghiệm đời sống, một hiểu biết rõ rệt trong
từng quãng đời và từng môi trường sống để từ đó ông tự tôi luyện và
tập thành một nguyên chất sáng tạo. Chất sáng tạo thể hiện qua chữ
viết một tiếng nói bình thường để thuật truyện do chính mình đã sáng
tạo ra nó. Qua những truyện vừa kể trên, ta có thể nói Võ Hồng đã
thành công một cách đặc biệt trước hết chỉ vì ông đã không tiểu
thuyết hóa nhân vật của truyện. Truyện như cơn thức dậy của hoài
niệm. Mỗi nhân vật được lồng trong một biến cố. Mỗi biến cố được mô
tả như sự xuất hiện tình cờ của ký ức và ở đó – ta có thể nhìn một
cách rõ rệt từng con người trong một con người sáng tạo giữa không
gian và thời gian. Một khuyết điểm dễ nhận thấy là thường thường ,
sau mỗi tác động của nhân vật, sau mỗi biến cố trong bối cảnh thời
đại. Võ Hồng như có thói quen hay tô điểm bằng những lời bình phát
xuất từ một suy tưởng của riêng ông. Song chính những lời bình bằng
suy tưởng đó đã chỉ làm cho truyện trờ thành nhiều lời và làm loãng
cả chất truyện vốn hàm dưỡng đủ cái tôi chân thực trong nguồn sáng
tạo của tác giả. Giá trị của truyện không bao giờ tùy thuộc ở một
vài đoạn suy tưởng dễ dãi như vậy. Hơn nữa nó chỉ là sự tỏ bày nặng
phần trình diễn và khó lòng tác động đến trí tưởng tượng của người
đọc.
Đứng
trong khuôn khổ và nếp sinh hoạt của Văn học hiện đại mà nhận xét,
tôi thấy tiểu thuyết Võ Hồng thể hiện rõ một bản chất Việt Nam đặc
biệt. Từ đó ta dễ dàng cảm thấy cái dân tộc tính đã bén sâu từ nền
gốc tiểu thuyết Võ Hồng. Cái dân tộc
tính đó bàng bạc trong tiểu thuyết của ông như ánh sáng và
khí lành. Ta chỉ cảm mà thấy. (Dấu chân sa mạc, Thế giới của Năm
Nhiều, Tình yêu Đất, Người về đầu non...) Tiểu thuyết của ông còn
ẩn giấu một tình yêu quê hương và ta cũng chỉ cảm mà thấy như
một khẳng định không hề biện giải.
Hầu hết
văn phẩm của Võ Hồng đã gắn liền với bối cảnh xã hội và lịch sử hiện
đại. Song nếu tìm ở văn phẩm của ông về thái độ tiếp nhận của nhà
văn trước hai bối cảnh trên trong một nội dung thời đại, ta sẽ chỉ
thấy một Võ Hồng lúng túng, mờ nhạt. Ông lại có thói quen hay phô
diễn một số tư tưởng nhằm biện giải về một sự kiện, một biến thái
trong một hình tượng. Sự phô diễn ấy không có gì đặc biệt và chỉ làm
tác động của mỗi nhân vật dễ bị chìm lặng. Tác giả chỉ nên để nhân
vật nói và tiếng nói như thế nào sẽ theo tùy trường hợp, tùy hoàn
cảnh. Lời nói của Văn còn có thể cảm được qua sự yên lặng, bằng một
tác động hay một hình ảnh, nhờ thế người đọc mới có cơ hội cảm thông
trực tiếp qua hoạt cảnh và ấn tượng của truyện.
Song có
điều rõ rệt nhất là tiểu thuyết của Võ Hồng luôn luôn như một nỗ
lực, một thực của chính nhà văn hay đúng hơn là khát vọng của một
con người muốn vươn lên, được nói lên, và truyền đạt gửi gấm một cái
gì từ tấm lòng và nguồn sáng tạo của mình cho Quê hương trong con
người. Tiểu thuyết của Võ Hồng nhằm bao quát về Con người trước đã.
Ông không nhằm khám phá nó hay phân tách nó (như lối phân tâm mà
Nguyễn Mạnh Côn đã ảnh hưởng sâu đậm). Con người trong tiểu thuyết
Võ Hồng chỉ là một con người
có đấy, nó hiện diện trong phần đời sống của chính nó, tác
giả mô tả lại và bằng thiện tâm trả lại giá trị sẵn có của nó chứ
không phải chỉ nhằm đặt nó vào trong một số giá trị của riêng nhà
văn. Cũng vì vậy, nếu tìm một thái độ tiếp nhận cuộc đời trong toàn
bộ tiểu thuyết của ông sẽ là điều không có được hay nếu có thì đã
rất mờ nhạt, lúng túng. Mỗi nhân vật của ông là một thái độ riêng và
gửi gấm riêng nơi người đọc mỗi thái độ đôi khi đã mâu thuẫn nhau
một cách lạ lung chỉ vì mỗi nhân vật đã luôn luôn tự tại trong một ý
nghĩa của sự sống. Bản sắc chung của tiểu thuyết Võ Hồng đại đề là
vậy.
Nhân vật
của Võ Hồng chỉ là những con người bình thường trong đời sống bình
thường của xã hội cho dù xã hội có thay đổi biến thái như thế nào
thì con người vẫn là con người
có đấy nó đang hiện diện. Tác giả bắt nhịp với nó tri giao
cùng nó qua sự đơn giản, bình thường. Nó sống như để mà sống, băn
khoăn dày vò trong sự chấp nhận rồi lầm lũi phấn đấu trong tình cảnh
chung quanh và trước mặt. Hầu hết nhân vật của ông xuất hiện theo
những mảnh vụn của đời sống, xuất hiện tự nhiên không hề có sự giả
hình hay do những ám ảnh bóp méo. Tuy rằng, nó vẫn thiếu sự phản
kháng. Một sự phản kháng ở ngay những câu thúc trói buộc của đời
sống riêng mình. Song điều rất đặc biệt đáng nói là nhân vật trong
tiểu thuyết của ông đã rất gần với mọi người. Nhờ vậy tiểu thuyết
của Võ Hồng đạt tới một tinh thần nhân bản lồng trên căn bản thực
chất của con người trong quê hương của nó. Nông thôn và tập tục,
đồng lúa xanh sông dài và con người sống động trong đó như bao giờ
cũng là đối tượng cho lòng say mê của nhà văn họ Võ Ngân Sơn.
|