Võ Hồng
viết văn từ thời Tiền chiến. Mãi đến năm 1959, ông mới thực sự gia
nhập vào làng văn hậu chiến bằng văn phẩm đầu tay Hoài cố nhân
(Ban Mai xuất bản – Saigon 1959 gồm hai truyện Hoài Cố Nhân
và Ngày Xưa). Văn phẩm này không có gì đặc sắc để
đủ tin tưởng một Võ Hồng tiến
xa hơn. Nhưng vốn là người trì chí cần mẫn lại sẵn chất liệu phong
phú ở ngay trong cuộc đời khởi từ một dĩ vãng xa xôi, từ đó Võ Hồng
đã vươn lên mãi đến nay thì ông là một nhà văn có đủ kích thước của
hai chiều sâu rộng. Một nhà văn lớn từ tác phẩm của mình, phát xuất
từ cái vốn sáng tạo của riêng mình. Tiểu thuyết của ông mang một
khuôn mặt đặc biệt Việt Nam – tiếng nói của một tâm tưởng trong một
bản sắc của tình tự con người sống động trên phần sống của mình keo
sơn với phần sống thực của quê hương qua từng chặng đường lịch sử.
Hiện nay, Võ Hồng đã hoàn thành được 9 văn phẩm vừa truyện dài vừa
truyện ngắn: Hoài Cố Nhân, Lá Vẫn Xanh, Vết Hằn Năm Tháng, Con Suối
Mùa Xuân, Khoảng Mát, Hoa Bươm Bướm, Người Về Đầu Non, Bên Kia
Đường, Gió Cuốn.
Võ Hồng
có sở trường về loại truyện vừa (một thứ trung thiên tiểu
thuyết). Những truyện ngắn mức trung (như Mẹ và Em.
Đôi chim bồ câu) ông không thành công. Phàm những truyện ngắn
như vậy phải đạt được giá trị toàn vẹn ít nhất như một bài thơ vì nó
đòi hỏi ở người viết một giòng cảm xúc liên tục, một sự trỗi bật độc
đáo nhằm vào một tình tự hoặc sống động cho riêng một chủ điểm để
làm nổi một bản sắc. Một truyện ngắn hay tương đối cũng phải đạt
được như vậy.
Truyện dài của Võ Hồng: giòng tâm tưởng trên từng
chặng đường của lịch sử đất nước.
Về truyện dài,
Võ Hồng có ba truyện: Hoa bươm bướm, Người về đầu non, Gió Cuốn.
Tôi thích nhất truyện Người về đầu non. Một loại thuật sự tâm
tưởng qua chuỗi dài kỷ niệm sống của ký ức. Văn phẩm này lộ diện một
cách rõ rệt bút pháp của Võ Hồng qua một nội dung tâm tưởng. Bút
pháp tức là cái thuật riêng của mỗi nhà văn trong cách xây dựng ngôn
ngữ và cấu tạo hình ảnh. Người về đầu non, tác giả đã đạt
được cho riêng ông một nghệ thuật cấu tạo hình ảnh. Một thứ hình ảnh
có nhịp độ rung động và bén. Một thứ hình ảnh nói lên và
gửi gấm nơi người đọc một điều gì đặc biệt khó phai.
* Hoa
Bươm Bướm (truyện dài – Lá Bối xuất bản – Saigon 1966 – 265
trang).
Truyện chia
thành 18 chương – Đalạt là khung cảnh của truyện cắm mốc từ thời
gian Nhật đảo chánh (9-3-45) cho đến ngày kháng chiến toàn quốc.
Truyện chứa đựng vô số những dấu tích lịch sử trong một giai đoạn
lịch sử trọng đại của Việt Nam. Những nhân vật trong truyện đã ít
nhiều tham dự vào lịch sử tại một thị trấn vốn êm ả, bình an
như Đalạt. Những Quỳ, Thức, Cần, Thanh, Hiệp, Luân, Hoàng, Mậu, Mai
Trang, Sáu Thiềng… đều trở thành dấu tích sống của một giai đoạn
sống trong phiến động.
Truyện
khởi đầu từ một khí thế bừng bừng của tuổi trẻ lúc bấy giờ “Giai
đoạn này là giai đoạn của thế hệ chúng ta (…). Ban xã hội của tổ
chức sinh viên hoạt động đắc lực trong việc cứu đói. Các tổ chức
chính trị lớp công khai lớp bí mật làm sôi nổi của không khí thủ đô”
(tr.8).
Những
Thanh, Hiệp, Quỳ, Luân, Thức từng sống trong không khí hào hùng này
với bao nhiêu ước ao “Cuộc đảo chánh mồng 9 tháng 3 là cái dịp
tốt để dân tộc ta giải quyết lấy vận mệnh của mình. Vận mệnh của
mình không phải do quân đội Nhật giải quyết” (tr.8). Người dân
Việt lúc ấy những tưởng đã nắm được vận mạng của mình, làm chủ được
đất nước mình sau khi Nhật thắng Pháp. Thái độ của ông già Thức đã
nói lên một phần nào “Ông về hay kể những câu chuyện lính Nhật
đánh Tây, đánh Đầm, đánh Tây
văng gương đứt cà vạt, đánh Đầm
văng xắc rơi giầy. Những bữa có truyện hào hứng để kể ông ăn dôi một
bát cơm” (tr.10). Nhưng tình trạng vong nô của đất nước có gì
thay đổi khác hơn. Điểu đó Luân thấy rõ hơn ai. Luân chứng kiến đầy
đủ với tư cách viên chức của Tổng đốc Việt nam tại Đalạt: Quê hương
thì vẫn tiếp tục đổ vỡ trước mắt “Báo động tản cư bom nổ người
chết những khung cảnh đó đã thâm nhập vào đời sống của người dân,
biến thành một nề nếp sinh hoạt quen thuộc bình thường mặc dù họ vẫn
ý thức mơ hồ rằng cuộc chiến tranh này không phải của họ, rằng họ
chỉ là nạn nhân phi lý không hy vọng được hưởng gì hết ”.
(tr.43). Thế rồi…. chiến tranh cũng phải chấm dứt. Những ngày huy
hoàng của tướng tá Nhật ở thị trấn cũng tàn mau như hoa anh đào sau
mùa đông lộng lẫy “tin đồn Việt Minh cướp chính quyền ở nhiều
tỉnh ngoài Bắc, ngoài Trung. Trong thành phố, không khí làm ăn trở
nên uể oải ngượng ngập. Có một sự bí mật lảng vảng đâu đó, một cái
gì trọng đại đang thành hình (…) Ở các ngã phố chợ tuyệt
nhiên không có bóng một xe nhà binh Nhật. Không có bóng dáng một
người lính Nhật nào ” (tr.66).
Thị trấn nhỏ bé bắt đầu giao
động rồi chẳng bao lâu bỗng bùng dậy xáo trộn rồi hoang mang với một
chút tin tưởng " Anh Tư gác dan cũng đã xung vào đoàn dân quân tự
vệ. Ngày đêm anh cầm súng gỗ, tập đi, tập bắn, tập bò ". Ở Sài
gòn súng đã nổ. Không khí hoang mang nghi kỵ trầm trọng . Trong lúc
ấy Luân làm gì ? " Cả ngày Luân theo hết đọc sách đến ra vườn
săn sóc những bồn hoa tử dương đang độ nở hoa " (tr.79). Luân
trở thành kẻ đứng ngoài lề. Mặc dù anh tiêu biểu cho tuổi trẻ cho
một giai tầng trí thức thành thị. Song anh đã hiện diện như một sự
buông tay bất lực. Tại sao ? Ðó là dấu hỏi của người đọc. Luân vẫn
lơ lững như không bám víu vào đâu cả và nằm dài trên sự tê liệt
choáng váng. " Những ngày đầu khởi nghĩa người dân bỡ ngỡ thấy
mình vụt nhiên lớn lên. Làm chủ lấy đất nước mình, công nhiên tuyên
bố đánh Pháp đuổi Nhật, họ choáng váng như vừa uống ly rượu mạnh
chưa quen " (tr.149). Giữa không khí choáng váng đó Luân vẫn yên
lặng câm nín - Quân ta đang đồn trú ở phía này - đàng kia là
Fimmom quân Nhật vẫn phòng thủ cẩn mật. Một bãi máu của người lính
Nhật bị quân ta bắn chết. Luân thấy tanh lờm lợm . Một sự im vắng
pha trộn đe dọa nào đang đè nặng lên chàng. Ðây cũng là phản ảnh
một phần cái mặt trái của một thời khí thế cách mạng. Luân như một
chứng nhân bất đắc dĩ cuả thành phố trong những tháng ngày đầy phiền
muộn. Bao nhiêu biến cố xoáy trước mặt chàng, trải dài trên phận
chàng với một trọng lượng như chừng có thể sờ mó được. Chàng thúc
thủ trong đó. Cuối cùng chàng cũng phải xung vào Ủy Ban để được sống
trong những giờ phút thấp thỏm " Số phận của mình tùy thuộc ở
một chiến trường cách xa ba mươi cây số , ở sức cầm cự của một đại
đội chưa thiện chiến và thiếu hẳn khí giới" (tr.187). Chiến
tranh mỗi lúc một lan rộng. Bấy giờ thì không còn hình bóng người
lính Phù tang nào. Bọn Pháp đã tiến chiếm khắp nơi, " tiếng súng
nổ dội lại từ dẫy núi cao trước mặt. Tiếng trung liên lại nổ tiếp
một tràng, hai tràng rồi nổ liên miên. Tiếng súng lớn giả đì đùng.
Có tiếng la: Pháp tấn công ... (tr.262)
Luân vẫn như kẻ bộ hành trên
con đường kháng chiến . Con người trí trức thành thị như Luân đã quả
là con người khó hiểu. Riêng về phần truyện tôi thấy nhân vật này
không có chiều sâu, thiếu cả ánh sáng do đó truyện cũng thiếu ánh
sáng.
Bây giờ thì anh đã bị lôi vào
guồng máy nhưng tâm tư anh thì vẫn bâng khuâng phía ngoài lề và cũng
vẫn như ngày nào anh trang trọng trong bộ nỉ đen ngồi cạnh viên tổng
đốc Nam triều. Buổi ấy Luân cũng chỉ là kẻ ngoài lề. Cái còn lại,
đáng ghi là cái bằng hữu, là tình yêu. Thì ra con người trí thức tư
sản thành thị như Luân thật mâu thuẫn, thật phức tạp và cũng chất
đầy phản động tính với một chút ý thức mơ hồ lãng mạn.
.......
Thì ra
con người trí thức tư sản thành thị như Luân thật mâu thuẫn, thật
phức tạp và cũng chất đầy phản động với một chút ý thức mơ hồ lãng
mạn.
Từ hôm
ấy, khi người Nhật đang làm chủ thành phố này, Luân đã lọt vào cặp
mắt xanh của một giai nhân – Nàng tên Quỳ Qua bao nhiêu thăng trầm,
tình yêu ấy vẫn trong sương nguyên vẹn. Và Quỳ vẫn chỉ là Quỳ nạn
nhân của thời cuộc. Mới hôm nào nhà bị niêm phong (thời Nhật) nay
chủ quyền về ta. Ủy Ban lại giam nàng như một tên “Việt gian”. Cả
hai biến cố, Quỳ vẫn có Luân bên cạnh nhưng tình yêu thì vẫn mơ hồ.
“Hôm lên Cầu Đất với anh chị đội trưởng Luân ghé lại thăm Quỳ. Từ
ngày bị giam cầm ở đây, không có ai thăm hỏi nàng cả nên khi thấy
Luân đến nàng vui mừng ngơ ngác. Luân không chỉ là một người.Luân là
hiện thân của một quá khứ là Hảo, là Mai Trang, là Đàlạt là cuộc đời
êm đềm có hoa nở và có nắng” (tr.129). Cho đến một ngày kia,
giữa cảnh loạn ly tan tóc, Luân gặp lại Quỳ. Nàng vẫn sống trong một
ám ảnh kinh hoàng
“Em đã bị tình nghi. Em đã nằm ở Sô Trà”
(tr.234). Quỳ không thể nào theo đuổi kháng chiến. Nàng có ý định
hồi cư về thành. Luân thì muốn giữ Quỳ ở lại, cho đến hôm ấy, tình
yêu giữa hai người mới có dịp tay trong tay “Chàng ôm mạnh Quỳ
vào lòng, hôn lên đôi mắt đôi má”.
Em không thể về Đalạt được. Hiểm nguy đợi em ở đó.
Chúng ta không thể rời xa nhau được. Em không thể. Em không…
Chàng
ghì chặt Quỳ giữa vòng tay và hai cánh tay Quỳ cũng lần lần quấn lấy
cổ chàng như những dây leo như những rễ phụ, quần xiết mạnh hơn,
không mỏi, không rời”
(tr.235 tr.236). Lúc ấy, một bóng đen hiện ra, đi nhẹ rồi đứng yên
giây lâu “rồi thẫn thờ bước lui, hai tay bấu víu vào bờ tường”.
Đó là Mai Trang, một bông hồng của Đalạt hôm nào mà Quỳ đã một lần
đến cầu cạnh để Mai Trang can thiệp với người Nhật “Bà ấy quen
thân với các ông bên tòa sứ Nhật” (tr.51) – Trang đã có một thời
làm ngây ngất bao nhiêu người. Song dư luận cũng đã dị nghị Trang
không ít về sự quảng giao của nàng đối với người Nhật “Trang biết
ở trong thành phố người ta đồn đãi Trang đi lại với bọn tướng tá
Nhật” (tr.81). Tóm lại so với Quỳ còn trong trắng ngây thơ bao
nhiêu thì Trang đã từng trải, chin mùi bấy nhiêu. Song nàng vẫn chỉ
là người không hạnh phúc. Có lúc Trang muốn đi tu. Thật bất hạnh.
Trang lấy chồng, sáu năm không con và chồng thì lấy vợ lẽ “Bỗng
nhiên hạnh phúc bị bẻ gẫy như một que diêm bị bẻ gẫy dễ dàng giữa
hai ngón tay. Như que diêm bật sáng rồi tắt ngấm” (tr.8A). Hạnh
phúc không còn nữa nhưng Trang vẫn còn lại một tình yêu cho Luân.
Tình yêu của một kẻ chin mùi, khát sống, khát yêu. Trong đời Trang
đã bị mọi người lợi dụng. Trang biết như thế nhưng vờ đóng kịch –
chỉ còn lại có Luân nàng chỉ còn lại có một tình yêu để tạm quên tất
cả, tạm xóa đi trong giây phút nỗi khổ riêng tư. “Mai
Trang ngẩng mặt lên. Đôi mắt nàng ướt đẫm:
- Anh hôn Trang đi. Hôn cho rõ dài.
Luân cúi xuống hôn lên đôi môi. Mai Trang rùng mình bấu sát vào
người Luân, mắt nhắm nghiền lại. Hai giòng nước mắt chảy lặng lẽ
xuống má” (tr.87).
Tình yêu của Luân dành cho
Trang cũng chỉ như những que diêm bật sáng rồi tắt ngang. Cuối cùng,
tình yêu ấy chỉ còn thuộc về kỷ niệm, một ảo vọng xa xôi. Quỳ mới là
kẻ chiếm đoạt được Luân, với Mai Trang thì tình yêu chỉ bừng lên.
Đốt cháy nụ cười. Đốt cháy mơ mộng. Mỗi người trở lại sống riêng cho
phần đời của mình. Thế là hết – Trang và Luân đều phải lựa chọn “Bốn
giờ chiều thì Luân và Quỳ được lệnh mang ba lô lên ghe. Quỳ nắm hai
tay Mai Trang mà nghen ngào không nói được” (tr.259). Họ đã gặp
nhau, quen nhau trong một giai đoạn, một hoàn cảnh không có gì vui,
toàn là bom đạn, trốn tránh ruồng bắt. Tình yêu của Quỳ lên men nồng
trong hoàn cảnh đó. Tình yêu của Trang mất đi cũng trong cũng trong
hoàn cảnh này.
“Luân
bắt tay Mai Trang và chỉ nói được mấy tiếng:
- Chị ở lại
khỏe mạnh.
Giọng trả lời
của Mai Trang phảng phất như một hơi thở:
- Anh đi đường
bình yên.
Mai Trang thấy
bóng tối như sa sầm chung quanh mình”
(tr.260).
* Đây có thể coi
như dấu “chấm hết” của Hoa Bươm Bướm. Có thể nói, truyện mở đầu như
một tình cờ bắc nhịp với những tình cờ lịch sử và đứng lại qua sự
kết hợp trong tình yêu của Luân và Quỳ. Còn Mai Trang? Một nỗi buồn
phiền kéo dài…Mai Trang mang theo “dấu còn lại” của tháng năm cô đơn
hiu quạnh…
Truyện có một kết cấu uyển
chuyển linh động và bắt nhịp theo cơn dài biến cố của thời cuộc.
Thời cuộc tựa như cái trục và nhân vật của truyện xoay tròn theo cho
đến choáng váng. Nhờ vậy Hoa Bươm Bướm đã thể hiện vừa đủ một hoàn
cảnh lịch sử trên khuôn mặt một thị trấn bình an. Cùng với bão táp
quê hương thị trấn này cũng đổi thay tận gốc ngọn và cùng tất cả
quay tròn theo một nhịp độ chóng mặt. Người trong cuộc đã có dịp
chứng kiến tận mắt những biến thái và đổi thay trên một phần đất bé
mọn Sàigòn báo động từ ngày một Máy bay Mỹ dội bom. Ảnh thống chế
Pétain đã bị hạ xuống tạm chấm dứt một thời vàng son của thực dân da
trắng. Những Papa những Jean những Jacques lùi lại
dĩ vãng. Bây giờ là thời của
những Kem-pei-tai những Joso những sanoraya. Rồi cách mạng vụt
bùng dậy. Và đây là một hình ảnh “não nề” của Cách mạng qua cuộc
hành quyết của “nhân dân”. Im lặng một lát.
Có tiếng bật lửa đánh xẹt xẹt nhiều lần.. Tiếng môi bập bập vào điếu
thuốc.
- Ngon
há.
- Tất cả
quỳ xuống nhắm. Thằng Việt gian
thì cứ khóc than xin Chính-Phủ tha tội xin đồng bào cứu dùm. Nó đang
kêu khóc thì bên này tiểu đội trưởng giơ tay ra hiệu. Súng nổ đoàng
đoàng. Nó ngoẻo đầu xuống. Tiểu đội trưởng lại bắn thêm một phát
súng lục vào mang tai. Cả sân vận động im lặng mình thấy ngộp thở.
Mình không ngờ đồng bào hăng thế.
(tr.127).
Việt gian, chỉ hai tiếng đó
một thời đã trở thành cái bóng ma khủng khiếp. Và Cách mạng đã ám
ảnh người ta bằng những cái bóng ma như vậy.
Hoa Bươm Bướm đã làm nổi
bật được một số hình ảnh đơn sơ như thế. Nhưng tiếc rằng, tình tự
trong truyện thì thiếu gắn bó, đôi lúc rời rạc. Chất truyện tuy có,
tuy phát xuất từ một hoàn cảnh trung thực nhưng lại thiếu hẳn chiều
sâu, và không đạt được bản sắc rõ rệt. Truyện có quá nhiều sự việc,
tình tiết lại thiếu liên hệ và đôi lúc trở nên xáo trộn khiến người
đọc phải khổ công mới nhận rõ được sự liên hệ của sự việc này với sự
việc kia.
Nhân vật của truyện tuy
không nhiều nhưng xuất hiện quá phồn tạp. Đã thế lại chỉ được trình
diễn như những quân cờ theo từng ván
cờ thời cuộc. Không một nhân vật nào
trỗi bật vì thiếu một bản sắc
cá biệt và đứng một cách mơ hồ trong vị thế mơ hồ của truyện theo
chu vi sẵn có. Hầu hết nhân vật của truyện đều thuộc giai tầng
trưởng giả thành thị. Song đã không bóc trần được phần căn bản của
đời sống thành thị chỉ vì tác giả đã cho họ sống một cách hồi hộp.
Bản sắc của người này so với người kia không khác xa bao nhiêu,
không phản ánh rõ khuôn mặt của từng người trong đời sống thực tại.
Luân, Quỳ, Mai Trang có thể
coi như ba nhân vật chính của truyện. Luân chỉ là một thanh niên tư
sản thành thị, mệt mỏi và già nua trước tuổi. Tâm hồn chàng không hề
được chiếu rọi được một niềm tin nào. Chàng chỉ là kẻ bị cuốn tuôn
vào biến cố và bất lực trong biến cố rồi đành chịu câm nín thúc thủ.
Mối tình giữa bộ ba Luân, Trang, Quỳ cũng không có gì đặc biệt đã
thiếu sự tươi mát, lại thiếu cả phần cảm
năng.
Tôi thấy, Hoa Bươm Bướm
đã vắng mặt một giọng văn thiết tha chân thực của Người về đầu
non. Văn phẩm này chỉ như một thuật sự nhằm trình bày lại một
giai đoạn lịch sử cùng những con người sống bên trong song nó
chỉ vẫn đứng bên lề. Truyện không đạt được một tác dụng truyền cảm
cao và đậm chỉ vì trước hết mỗi nhân vật xuất hiện như con cờ
trong những sự việc rối rắm. Từ Luân, Quỳ đến Mai Trang chỉ là những
hình ảnh mờ nhạt, không trỗi
bật được vai trò trong vị thế của truyện. Tuy trong một không khí
biến động và đấu tranh song lại không đạt được không khí như vậy,
trái lại truyện có vẻ uể oải gượng ép.
Quê
hương – đất và tình người.
Vết Hằn Năm Tháng, tập
truyện (Lá Bối xuất bản-Saigon 1965)
gồm 6 truyện: Những bí mật của anh Đỗ Cúc – Người thứ ba – Tình yêu
đất – Lạnh tuổi thơ – Vết hằn năm tháng – Thế giới của Năm Nhiều.
Vết hằn năm tháng
so với Hoài Cố Nhân, Võ Hồng quả đã vượt qua một đường bước dài về
phương diện kỹ thuật viết. Ở Hoài Cố Nhân kỹ thuật viết cũng như
dựng truyện còn quá non tay vì nặng phần trình diễn kể lể cho nên
thiếu thanh thoát, tự nhiên. Tác phẩm thứ ba của Võ Hồng đã vươn lên
hẳn, đã cao hơn hẳn và tự nó đã chuyên chở riêng một kỹ thuật viết
có thể nói là đặc biệt. Võ Hồng từ kết cấu truyện đến cách
sử dụng ngôn ngữ và một cú pháp
của riêng Võ Hồng tuy mực thước trang trọng nhưng vẫn có vẻ mới. Nói
là mới vì chữ và nghĩa trong Vết hằn năm tháng (cùng
những tác phẩm sau này) luôn luôn tương quan với vị thế của mỗi nhân
vật trong truyện – giữa người nói và người nghe, giữa
cái bên trong và cái ngoài lề, giữa thực tại và tiểu thuyết – Đọc 8
tác phẩm của ông khởi từ Vết hằn năm tháng đến Gió Cuốn, kỹ thuật
viết của ông hầu như luôn luôn được đặt trên một tiến trình mạch lạc
và trong đó ta sẽ tìm ra một kiến trúc ngôn ngữ như kiến trúc của
căn nhà Việt Nam. Và ở đó ta tìm thấy sự tương hợp và hòa diệu một
cách phân minh giữa từ (termes) và ý. Võ Hồng
sử dụng cú pháp và ngôn ngữ một
cách chừng mực và thận trọng. Khi chưa tự tìm được một cái Mới hoàn
toàn tất thị chưa thể phá. Nếu phá sẽ chỉ đưa đến sự
xáo trộn và trở thành lập dị ngây ngô. Võ Hồng qua Vết Hằn Năm
Tháng có thể nói ông biết nương theo những biến thái mới của
thời đại rồi phối hợp với cái đã có để uyển chuyển tập thành
một kỹ thuật viết riêng rẽ Võ Hồng. Nhờ vậy, kỹ thuật viết của ông
có mực thước, thận trọng một cách phải chăng nhưng vẫn đạt được khả
năng thông đạt của ngôn ngữ. Ngôn từ trong văn ông-lớp người mới có
thể cho là cổ song không ai có thể phủ nhận nó vẫn đủ ngữ ý
(signifié) vụ về sự điển hình.
Nhờ thế, văn ông tuy có phần mộc mạc mà vẫn dễ dàng cảm xúc nhờ tác
dụng qua những ký hiệu tạo hình của ngôn ngữ. Những ngôn ngữ ấy
không phải là những gì cao xa, bí hiểm, lập dị. Nó có ở ngay trong
thế giới ngôn ngữ đời sống nghĩa là thứ ngôn ngữ bình dị của anh Đỗ
Cúc, của dân cầu Thị-Lạc, của Làng Ngân Sơn, của lão Túc, của Năm
Nhiều…Nhờ thế, cũng như thế giới của Năm Nhiều, Lạnh tuổi thơ, Tình
yêu đất…Vết hằn năm tháng đã thành công trong một phần hình thức
phát hiện từ khả năng thực. Hình thức ấy không phải một sự choáng
lộn làm dáng hay hàm hồ nói để mà nói (verbalement). Hình thức của
một tương quan giữa chữ viết và người sáng tạo do kỹ thuật và nghệ
thuật là một phối hợp và từ đó truyện có đủ khả năng chuyên chở chất
liệu đời sống. Vết hằn năm tháng, Lá vẫn xanh, Con suối mùa xuân
có đủ ưu điểm độc đáo như vậy.
Vết hằn năm tháng
có ba
truyện đặc sắc hơn cả: Người thứ ba – Tình yêu đất – Lạnh tuổi thơ.
Nhưng Tình yêu đất nổi bật nhất và là một trong mấy truyện hay của
Võ Hồng.
* Truyện Anh Đỗ Cúc, là một
truyện vừa (trung thiên tiểu thuyết – 41 trang). Truyện này không có
gì đặc sắc điển hình có lẽ cũng chỉ vì đời anh Đỗ Cúc đã không có gì
đặc sắc. Một cuộc đời bình dị như anh Đỗ Cúc đã sống và sẽ chết như
một cam chịu bất lực trải dài trên nỗi thăng trầm của thời đại. Nếu
chỉ đọc đời anh như đời một người trong cái thông thường mờ nhạt
nhất thì cuộc đời ấy không nói lên được một ý nghĩa nào để có thể
tạo nên một điển hình rung động đáng cho ta cảm và nghĩ. Anh sống
theo mực thước đã có rồi cuộn tròn đời sống trong sự đã có
như vậy. Đời anh chỉ là chuỗi dài những chấp nhận và toa rập theo
khuôn thước (như thuở anh đi học thì bắt chước thầy làm văn mô tả
theo mẫu mực của một cuốn tiểu thuyết. Và lớn lên lấy vợ sinh con đẻ
cái cũng vẫn cuộn tròn thân thể trong cái vòng tròn của thân thể đã
cam chịu như anh). – Anh là một người cẩn thận. Nên anh đã cẩn
thận đặt vào cuộc đời anh trên những ô vuông và đường kẻ thẳng do
thông lệ và quy ước sẵn có đã tập thành cho anh. Tóm lại, đời anh Đỗ
Cúc thu gọn trong giòng vănayfcc “Anh dường như lúc nào cũng tự
quên mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng
của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm anh chịu ảnh
hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành
phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại
của vợ con anh: anh chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ một
số những tên húy của tổ tiên” (tr.49-50).
Cuộc đời khuôn thước và rất
mực bình thường của Đỗ Cúc không có một nét nào đáng cho ta rung
cảm. Song cái khuôn thước rất mực bình thường của nhân vật này ta có
thể tìm thấy bất cứ ở đâu và bất cứ trong thời nào vì nó là cái phổ
biến thông thường của một đời sống con người. Võ Hồng thành công về
một điểm đó và chỉ có một điểm đó thôi. Nghĩa là, ông đã khéo
sử dụng giòng ký ức của một
người cũng những tế nhận trong
tâm thức của một người để vẽ lại một người bình thường như anh Đỗ
Cúc. Từ đó, ta thấy rằng, mỗi người dù là một người tầm thường cũng
vẫn có một cái gì khác ta, khác kẻ khác. Vì thế, nên nhân vật tôi
trong truyện cho dù cố gắng đến mức nào vẫn không thể phỏng theo và
bắt chước như kiểu cách cùng lối sống của anh Đỗ Cúc. Nét chính ở
truyện thể hiện ở điểm này “không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ
nào hết mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động
ngẫu nhỏ ở đâu đây” (tr.50).
Nếu truyện kết thúc ở ngay
giòng văn này thì thật khéo. Nó vừa bộc lộ được chú ý của tác giả,
nó vừa làm nổi sự hiện diện của Đỗ Cúc trong giòng sinh tồn như cánh
lá trên con sông bình lặng. Song tác giả đã cố kéo dài thêm một đoạn
nữa như vậy quả là thừa vì nó dài dòng và chỉ như một lời bình thêm
thắt thiếu hẳn nghệ thuật.
* Vết hằn năm tháng(tr.149-188)
truyện ghi những kỉ niệm trong dòng đời một người – trong đời Doãn –
Những kỷ niệm đó như chất men ấp ủ trong tâm hồn Doãn, kỷ niệm nho
nhỏ và êm mát như mây thu. Nhờ nó Doãn cảm thấy sự sống thật đáng
sống dù có bao điều phiền muộn náo động đổi thay, biến dạng, duy chỉ
có kỷ niệm vẫn còn lại và người ta nuôi dưỡng tâm hồn bằng kỷ niệm
đó. Cuộc đời thầy giáo của Doãn trước hết đã không hơn cái vòng tròn
hạn hẹp và rất khuôn thước như cuộc đời Đỗ Cúc. Nhưng trong và từ
cái vòng tròn đời sống nhỏ bé của riêng chàng Doãn cảm thấy yêu đời
đáng sống và chàng thấy rằng không phải chàng sống cho kẻ khác mà
sống cùng kẻ khác. Nhờ vậy, Doãn tri giao với thế giới nhỏ bé của
mình một cách thân mật bằng thứ thân mật quê nhà anh em. Tuy Doãn
không thể cởi bỏ được đời sống trong những ý tưởng đóng khuôn nhưng
anh cũng không thể bịt kín con mắt trước những biến thái và dao động
trong cuộc đời thực tại. Doãn là một người. Doãn biết rõ chàng là 1
người. Một người chân thực giữa những mâu thuẫn ràng buộc một đằng
muốn vươn lên một đằng đành thất thủ. Rồi con người ấy nằm dài trên
sự im vắng và chỉ còn lại một vùng kỷ niệm. Đôi lúc trở mình thức
dậy cùng với khắc khoải muốn phá bỏ những ràng buộc đâu đây. Song
Doãn vẫn chỉ là Doãn bất lực như một con người đâu đây, và đành cam
chịu bị cuốn tung vào thực tế mà ở đó chỉ còn lại những trái ngược
với tâm tư và ước vọng. Trước sau Doãn vẫn còn lại một miền ước vọng
tha thiết đi tìm kiếm cho được một người bạn nào ở đâu đây.
“Doãn mỉm cười với mọi
người, hò hẹn với mọi người. Chàng biết sự vui vẻ bồng bột chỉ nhất
thời, rồi sau đó sẽ trở lại cuộc sống quen thuộc bình thường như con
ngựa của anh đánh xe đi lại thuộc lòng trên con đường mòn, trên lối
cũ. Dự định cho hả, mơ mộng cho hả, vì họ biết rằng chỉ đến bấy
nhiêu đó rồi hết. Cuộc đời sẽ kéo họ lại đúng vào con đường bình
nhật của họ” (tr.187). Đấy là hình ảnh Doãn – hình ảnh của một
con người bị phân thây giữa thực tại và ước mơ. Song Doãn vẫn còn
lại một nụ cười, còn lại lại một hò hẹn. Với Doãn, sống ở đời như
lúc nào cũng băn khoăn về một điều ẩn ức ẩn ức cần nói ra, cần ước
mơ, cần hò hẹn để được chia sẻ trước khi bị khuấy động. Với Võ Hồng
qua Vết hằn năm tháng qua nhân vật Doãn là những hi vọng cần
được nói ra cho một điều cần nói, cần ước mơ, cần hò hẹn…
Doãn xuất hiện như một tri
giác tìm đến tha nhân trong cuộc kiếm tìm trò chuyện để nói và được
nghe. Song cuộc đời chàng thì vẫn chỉ tròn vo, lăn như một hòn bi.
Con người lạc lõng chân thân của mình từ đó. Rồi nó ám ảnh Doãn, bóp
méo cả tâm tư Doãn – “Cứ như thế mỗi mùa thi đến, làm xáo trộn
tâm hồn của họ, trong 15 ngày: gặp gỡ mơ mộng, nhớ nhung chia ly…Rồi
sau đó ngày tháng chồng chất lên ngày tháng, kỷ niệm bị phủ bụi ngày
một dày thêm cho đến hè năm sau những cuộc gặp gỡ khác, mơ mộng nhớ
nhung ly biệt khác sẽ tiếp diễn, cũng sâu đậm, tha thiết, xót xa”
(188). Cái hay cái đẹp trong truyện này là ở những điều thông thường
dễ cảm trong đời sống. Doãn thể hiện có một cái tôi chung: chân thực
tuy tầm thường nhưng là sự tầm thường chân thực và rất người.
* Thế giới của Năm Nhiều,
tôi cho là một truyện hay nhất của Võ Hồng về phương diện thực tả
(mà vẫn như không thực tả). Đọc Năm Nhiều có cảm tưởng như đang sống
với một hạng người Việt Nam chân chất trong chốn bùn lầy nước đọng ở
nông thôn. Mới đọc qua, ta sẽ tưởng rằng, Năm Nhiều chỉ là một nông
dân u mê ám muội. Nhưng không, không phải thế. Đời sống của Năm là
cả một ý nghĩa – “Những bữa có giỗ thì nhà Năm Nhiều tấp nập khỏi
phải nói. Anh lục đục nấu nướng đầu tắt mặt tối dù cho nhà anh có dư
đàn bà để lo việc ấy (…) Nhưng họ chỉ được anh sai bảo vặt.
Việc nấu nướng xôi thịt, đơm đĩa anh đều tự đảm nhiệm hết. Xong rồi
cũng chính anh lo sắp dọn bàn. Rồi rửa mặt thay áo dài, đội khăn,
anh châm hương, châm đèn đứng lầm thầm khấn. Về điểm này, anh có
khác mẹ anh. Bà cụ thì khấn to như đang nói chuyện với khách. Mà bà
cụ đang nói chuyện thật. Lúc giỗ chồng bà thì bà kể lể những lúc ông
đi binh cách” (tr.201-202). Năm Nhiều coi việc giỗ tết cúng kỵ
là một giá trị thiêng liêng. Giá trị thiêng liêng đó tự nó đã hàm
chứa một nền tảng triết lý giữa con người và thần linh, giữa sự sống
và sự chết trong cảm thông tương giao giữa người và người. Một con
người tìm thấy trong giá trị thần linh và quê hương. Năm Nhiều có tư
cách như một vị chủ tế trước đấng cao cả của Anh tuy mơ hồ mà có
thực.
“Khi rót rượu, anh cũng
lễ độ đúng mực. Tay phải cầm bình rượu chúc xuống còn tay trái vòng
ngang để giữ vạt áo dài” (tr.209).
Phong cách ấy là phong cách
thực của bản chất nông dân Việt Nam. Khi nói sự giỗ chạp cúng tế của
Năm Nhiều tự đã mang một nền tảng triết lý tuyệt nhiên không thể là
một sự gán ghép chữ nghĩa cho Năm Nhiều. Thứ triết lý kia Năm Nhiều
không hề suy cảm thấy vì nó vượt ra ngoài khả năng chất phát của
anh. Song nó đã tự tại trong anh, và hàm dưỡng và ẩn giấu trong tìm
thức của anh và xuất hiện qua cử chỉ, phong cách anh như một thói
quen của tập tục lề thói. Và cuộc đời sống động trong đó tin yêu để
tìm kiếm Hạnh Phúc cũng ở trong đó. Và quả nhiên nó là thứ triết lý
tự tại trong anh “Tối hôm trước ngày ra trường là buổi cúng khai
lâm. Con gà luộc nằm trong cái dĩa lớn ngửng mặt nhìn trời. Mình nó
vàng bóng loáng như mỡ. Hai bên là hai dĩa xôi trắng. Anh Năm tắm
cho tôi rồi bắt mặc quần áo mới. Anh đẩy tôi lại gần con gà, nơi cha
tôi đang đứng lầm rầm khấn” (tr.123). Nếu quan sát như một nhà
dân tộc học thì thái độ và cử chỉ trên của Năm Nhiều đều bao trùm
một ý nghĩa thâm trầm đủ nói lên niềm khát vọng minh mẫn của một con
người trước những huyễn tượng thần bí. Năm Nhiều đã tìm được đời
sống của anh trong đó. Vậy thì, khi miêu tả thái độ và cử chỉ của
Năm Nhiều, tác giả đã tạo cho ta một số ý nghĩ sâu xa hơn, khác hơn
về điều mà ta có thể cho là Năm Nhiều mê tín dị đoan.
Nhân vật Năm Nhiều thật dễ
thương và sống động như một con người xương thịt trước mắt ta. Trước
hết Võ Hồng đã đạt được một thứ văn ngay thẳng nói về một con người
như Năm Nhiều và bằng thứ ngôn ngữ của tiếng nói. Trước hết, Năm
Nhiều hiện diện rõ rệt như một sự nói thẳng và nói rõ những gì muốn
nói. Từ đó nếu Năm Nhiều có mê tín dị đoan thì tự nó đã mang bản
tính con người vì Năm Nhiều là con người thực cái trình của Năm
Nhiều có thể tìm thấy qua một đoạn tả thật hay:
Một anh bạn hỏi:
- Chị ba sống một
mình không biết buồn à?
- Buồn chứ. Nhưng
biết sống với ai cho có hai mình?
- Để tôi làm mối
anh Năm Nhiều cho chị.
- Em nghèo lại tản
cư mà. Anh Năm Nhiều đâu có
thèm em.
Năm Nhiều cười húp
hai con mắt, không biết nói sao.Tối đó anh trằn trọc không ngủ được.
Hôm sau bần thần không làm gì được. Cứ hay mỉm cười một mình và lát
lát nhìn vào chiêc gương soi” (tr.224).
Đọc Thế giới của Năm
Nhiều, ta dễ dàng tìm lại được quê hương trong dĩ vãng. Thứ quê
hương được xây dựng trên nền tảng của lòng thành qua
một tin yêu……..Năm Nhiều thương
chị Ba qua tình yêu của nền tảng quê hương lòng thành đó. Sự không
biết nói sao của Năm Nhiều đã là sự nói không thể hết lời của anh
nông dân thuần chất này. Cũng như khi anh cung kính dâng lễ vật lên
tổ tiên ông bà, ở đó là một sự hiệp nhất. Tình yêu của anh với
chị Ba cũng là một sự hiệp
nhất.
Một đàng đi tìm sự hiệp
nhất giữa kẻ sống và người chết giữa vô hình và hữu hình. Đằng khác
tìm đến sự hòa diệu làm một của một người nam và một người nữ đặt
trên sự thuận lòng, tin yêu và tương kính.
Đã lâu rồi, người ta thường
nhìn người nông dân Việt Nam qua con mắt của của nền văn minh đô
thị. Hay khác hơn bằng cái lăng kính của sự tiến bộ khoa học. Nếu
nhìn bằng con mắt như vậy thì Năm Nhiều chỉ là kẻ u mê kém cỏi, và
mắt vẫn còn nhắm chặt trước ánh sáng của tiến bộ. Nếu như vậy thì
quả rằng Võ Hồng đã không soi sáng được một thực chất tiến bộ nào
qua văn chương và đồng thời ông đã đồng lõa với sự mê tín dị đoan.
Nhưng không phải thế, Năm Nhiều rõ rệt là một con người Việt Nam
thuần hành.
Võ Hồng qua thế giới của
Năm Nhiều là sự trở về cội nguồn. Năm Nhiều qua sự tôn sung cúng
kỵ rất tôn nghiêm bằng một lòng thành nhất của anh chính là giềng
mối nền gốc nông thôn Việt Nam. Thiết tưởng, những cuộc kháng chiến
thần thánh chống ngoại xâm của dân tộc ta đều xuất phát từ giềng mối
đó và thúc đẩy mãnh liệt cũng từ căn bản của lòng tin nhiệt thành
nhuốm mùi tôn giáo như vậy qua một Năm Nhiều. Nông thôn Việt Nam bao
giờ cũng là một thành trì chống xâm lăng vũ lực và văn hóa thì chính
những người như Năm Nhiều đã tạo nên bức thành trì này. Họ thì khiêm
tốn bé nhỏ như 1 viên gạch. Cuộc đời của Năm Nhiều đã gắn liền với
nông thôn nên cho dù Năm Nhiều phiêu lạc lên chốn thị thành để mưu
sinh song anh vẫn không thể nào quên nơi chôn nhau cắt rún – quê
hương đích thực của anh. Bởi vậy dù nghèo túng dù phải vay công mắc
nợ Năm Nhiều vẫn cam chịu một cách thỏa lòng miễn sao anh được trở
về quê vào những ngày cúng kỵ những ngày thiêng liêng nhất đối với
anh – Năm Nhiều nói “tốn thì tốn mà không về không được chẳng lẽ
ngày kỵ ngày giỗ mà lại…”
(tr.245).
Điều đáng tiếc là Võ Hồng
đã mô tả Năm Nhiều một cách không khéo nên anh dễ trở thành một kẻ
mê tín dị đoan. Tôi đọc truyện này đến ba lần và nếu bỏ qua sự mô tả
không khéo như vậy thì Năm Nhiều phải là một nông dân đáng kính. Văn
Võ Hồng trong truyện này như có vẻ phảng phất ảnh hưởng một Lỗ Tấn
qua AQ chính truyện. Nếu như tác giả để Năm Nhiều xuất hiện như một
thực chất Năm Nhiều tại nông thôn Việt Nam thì nhân vật này quả là
sự hiện diện độc đáo trong thế giới nhân vật lạc loài của tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại. Người nông dân Việt Nam ngày nay hay ngày
mai tuy không còn một khuôn mặt Năm Nhiều nhưng anh ta vẫn còn lại
một thứ tin yêu như thế tin yêu đến độ cuồng tín và thần thánh hóa
và đó cũng là thực chất trong tâm hồn của tầng lớp nông dân Việt.
Cái gốc không thể nào hủy diệt của dân tộc ta cũng vẫn là những Năm
Nhiều – Võ Hồng đã làm nổi bật và sáng rõ về điểm này.
* Dấu chân sa mạc
(tr.131 – tr 170) – mô tả lại đời cô Ba Hường, lấy chồng Tàu và
chồng chết năm cô 30 tuổi. Đời cô Ba từ đó đã in sâu trong trí nhớ
tuổi thơ của tác giả (qua nhân vật tôi). Đây có thể gọi là một trang
sử nhỏ về đời một người đàn bà có nhan sắc có sản nghiệp song vẫn
không sao tránh thoát được định mệnh khắc nghiệt như đã dành riêng
cho khách hồng nhan. Lúc còn thời, còn xuân, cô Ba trở thành cái
đích cho mọi người ao ước, ngưỡng trông.
“Cô Ba Hường thật đã
tượng trưng cho nếp sống thong thả phong lưu mà mẹ tôi và tôi đều
ước ao” (tr.133).
Trước sau, cô Ba dù giàu có
vẫn chỉ là một kẻ lạc loài và như hoàn toàn xa cách với mọi người
chung quanh. Tòa nhà của Cô tuy đồ sộ
nhưng chính nó chỉ là một ôc đảo và Cô đã tự giam mình trong đó.
Gia đình tác giả ở kế cận
nhà Cô Ba cho nên đời cô như đã tham dự vào một phần trong đời sống
tuổi thơ của tác giả. Mà đời sống của chàng từ năm lên mười đã chỉ
thấy bàng bạc một mầu buồn như
vô hạn.
“Năm tôi lên 10 thì mẹ
tôi qua đời. (…) Cùng với sự vắng mặt của mẹ tôi, trong nhà
ngoài sân, sau vườn cũng càng ngày càng vắng thêm” (tr.135).
Tuổi thơ của chàng chỉ còn lại những kỷ niệm của đổ vỡ trong sa sút.
Mà những đổ vỡ kia không to lớn không phũ phàng mà nó tựa hồ như
từng đám mây tan mau. Một thứ đổ vỡ trong cơn thơ mộng – Truyện còn
vẽ ra trước mắt ta một người cha thật đẹp và tình thơ. Cái đẹp và
tình thơ trên phận một người đàn ông góa bụa chất đầy một tấm lòng
yêu dấu. Ta không khỏi cảm động đến mủi lòng trước cảnh cô quạnh hiu
hắt của một gia đình đã vĩnh viễn mất người nội trợ. Thì ra, những
thân yêu chỉ khi nào vĩnh viễn mất đi ta mới nhận ra sự hiện diện
cần thiết của họ như nhu cầu không thể thiếu. Người cha trong dấu
chân sa mạc phảng phất như một mơ hồ tang thương. Nói là tang
thương vì từ ngày vợ chết sống cùng với đứa con côi thì người cha đã
chỉ như một lữ khách đơn độc cuộn tròn trong tâm tư câm nín. Từng
chuỗi thở dài của ông, từng những khi ông ngồi im lặng thẫn thờ rồi
một ngày nào đó, ông vác ô đi… có lần đi suốt cả ngày. Thì ra, ông
đã lặng lẽ đi tìm dấu chân hạnh phúc đi tìm một người vợ kế để chia
sẻ yêu thương.
Câu chuyện cô Ba còn được
lồng trong khung cảnh bình dị êm đềm của thôn xóm, nhưng vẫn không
thiếu những eo xèo, dị nghị, không thiếu những tị hiềm, ác tâm. Hình
ảnh của người cha góa bụa lại gắn liền với câu chuyện cô Ba. Và tuổi
thơ của tác giả đã sống động trong vùng bão táp tình cảm đó. Duy có
một điều, tuổi thơ vẫn còn nguyên vẹn tuổi thơ nhờ tấm lòng yêu dấu
của người cha, của bà Ngoại, của người Dì. Tác giả đã làm sống lại
một cách cảm động qua một vài nét đơn giản đủ nói lên mối tình thầm
kín của người Dì đối với cha chàng. Tuy Dì đã có chồng – cam chịu
lấy một anh chồng xấu song Dì đã không
giấu nổi tình cảm đối với người anh rể góa bụa.
“Em cực tâm lắm…chán
lắm…chị Tư mất…Anh khổ…Phải như em…” (tr.137) – Giọng thật cảm
động. Mà trong toàn truyện ta đều bắt gặp những giọng cảm động thấm
thía như vậy. “Phải như em…” nghĩa là phải như em chưa có
chồng em sẽ lấy anh. Lời nói biết bao nhiêu luyến tiếc, bao nhiêu
tình nhớ. Thứ nữa, cái mối cảm tình thầm kín của cô Ba Hường đối với
người đàn ông góa cũng thật cảm động. Tác giả đã không dùng nhiều
lời để mô tả nhưng qua một vài cử chỉ, một vài giọng điệu ta có thể
cảm được một cách rõ rệt trong mơ hồ, và luyến tiếc theo.
“Sau khi cha tôi lấy vợ,
nét mặt cô Ba Hường chừng như già đi” (tr.144) chỉ bằng ấy lời
cũng đủ nói lên tình cảm của cô Ba đối với cha chàng như thế nào.
Nhưng cuối cùng chỉ vì xa cách không chịu tìm cách lại gần nhau, chỉ
vì tự ái nên cả hai đành dang dở. Người cha chàng đi lấy vợ thì từ
bấy lại càng làm tăng nỗi cô đơn và thất vọng của cô Ba. Từ đó cô Ba
sống day dứt theo niềm luyến tiếc chạy dài trên đoạn đường lỡ dở.
Tự chung thủy, Tác giả là
nhân chứng giữa những đổ vỡ trong cuộc đời cô Ba từ sản nghiệp đến
tình cảm. Cũng chỉ vì sự giàu có nên cô Ba trở thành con mồi ngon
trước bao nhiêu con mắt của bọn đàn ông “cú vọ” háo hức. Năm cô 45
tuổi thì đời cô trải qua một cơn sóng gió rồi từ đó cô đi dần đến sự
khánh tận. Tác giả nhớ mãi cái đêm hôm ấy, Thủ Phò làm cả xóm náo
động vì một kẻ vô danh lọt vào nhà cô Ba “Nó đi vào nhà cô Ba,
của ngõ cô Ba để ngỏ” (tr.161). Dân làng nghi ngờ cho thằng
Thằng Xược – một đứa con trai 20 tuổi đêm đêm vẫn lọt vào nhà cô Ba
như vậy. Ít lâu sau, Thằng Xược bỏ đi Cần Thơ. Rồi cô Ba cũng bỏ đi
Quy Nhơn một dạo. Người ta đồn rằng cô Ba đi Phan Thiết và sanh được
một đứa con trai. Thừa dịp này, đã có bao nhiêu câu chuyện dựng lên
và thiên hạ tha hồ đàm tiếu về đời cô về cuộc sống âm thầm của cô.
Sau ngày đi Quy Nhơn về, cô
Ba sa sút trông thấy. Nhan sắc tàn tạ thật mau. Ruộng đất bán dần
rồi đến vàng bạc trang sức cũng hết, sau cùng cô phải bán cả đến tủ
đến giường. Kết cục, cô Ba chết trong một tuổi già đầy oan trái. Cô
chết không ai hay biết và không một tiếng khóc, trong tay không còn
một sản vật nào.
Dấu chân sa mạc được
viết bằng một giọng đặc biệt bi hoài phảng phất
màu buồn của một Chateaubriand.
Truyện lại có nhiều cái bất ngờ, tình tự chuyển biền linh động cũng
một cách bất ngờ. Dấu chân sa mạc hay đúng hơn một nỗi tiêu
sầu trong đời một người chịu sự khắt khe của định mệnh. Đời cô Ba
như một tấm gương phản ánh đủ tấn bi hài kịch của cành
giàu sang mấy nỗi tuyệt nhiên
nó không đem lại cho con người một hạnh phúc nào.
Dấu chân sa mạc có
thể coi là một truyện tâm tưởng tuy tác giả chưa đi sâu vào được tâm
tư của mỗi nhân vật song ông đã thành công khi thu gọn được đời cô
Ba trong khung cảnh của một thôn xóm và vùng ký ức tuổi thơ của
chính tác giả. Giọng văn của ông ở đây vừa thành thật vừa cảm động
đôi lúc bâng khuâng một cách nghẹn ngào và rõ ràng đã phản ảnh đúng
tâm tưởng của riêng một người xuất phát từ xúc động theo kỷ niệm dĩ
vãng.
* Người thứ Ba
(tr.53-73) – Là một truyện tình giữa ba người:
Long, Phú và Nguyệt – Nguyệt yêu Long nhưng nàng đã chọn Phú làm
chồng vì gia đình ép buộc “Như mọi người gái Huế, Nguyệt chỉ
khóc. Và nói với người yêu chiến bại: Em không bao giờ quên anh”
– Trước sự thể như vậy, Long biết làm thế nào, chàng đành tạm nhận
lời như một an ủi: “Anh cũng thế” (tr.57). Từ đó, Long ghét
những mẩu hoa phượng vì ngày xưa khi yêu nhau hai người thường đi
dưới bóng phượng. Song cho dù đã vô vọng, Long vẫn ấp ủ một sự ngẫu
nhiên nào sẽ đến với anh. Anh vẫn tin rằng cuộc đời vốn dành cho con
người nhiều sự bất ngờ (tr.65). Long và Phú còn một tình bạn nữa
nhưng đã yêu thì nó không còn là 1 điều cản trở. Tình bạn kia tất
không đủ xóa nhòa một hình ảnh mà Long đã khắc sâu trong tâm tư. Anh
vẫn còn yêu Nguyệt như ngày nào thì anh vẫn có quyền vẫn còn mơ
ước một sự bất ngờ sẽ đến với anh. Sự bất ngờ bỗng thành sự thật
– Phú đã chết. Long vẫn ước mơ một sự bất ngờ như vậy. Nhưng vẫn mâu
thuẫn. Long không thấy vui “Long bàng hoàng như người say sóng –
Anh không thể ngờ rằng Phú có thể chết nhanh như vậy mặc dù vài hôm
trước anh cũng đã từng nghĩ : “Nếu Phú chết” (tr.67). Phú
đã chết thực. Tấm tình xưa giữa Long và Nguyệt không có một trở ngại
nào. Nhưng Long lại bắt đầu lúng túng, hoài nghi: “Từ hôm nay hai
người đột nhiên rơi vào một mối tình dễ dàng tầm thường, anh thấy
mình nhẹ nhõm một cách chán ngắt khi không còn phải vận dụng trí óc
phải đối phó” (tr.73).
Đã 6 năm rồi, sáu năm
Nguyệt làm vợ Phú, sáu năm chàng vẫn mơ ước được gặp lại Nguyệt. Bây
giờ thì Phú đã chết “Thực tế thì sáu năm đã ghi lại những nét quá
đậm, trong tâm hồn của Nguyệt của anh. Lấy gì để xóa đi được?”
(tr.17). Bây giờ sự hiện diện của bộ ba không còn nữa. Phú đã trả
Nguyệt cho Long. Nhưng tuổi thơ hôm nào đã không còn nữa. Một ảo ảnh
thoáng qua. Anh chỉ thấy chua xót “Có thật là mình bắt gặp lại
tuổi thơ đâu?” (tr.71). Từ đó, Long chỉ còn phảng phất một cái
bóng trong tình yêu xưa “tuy không mất không bao giờ mất”
nhưng Long thì vẫn thơ thẩn một mình trong bóng mờ của tình cũ. Phú
chết rồi. Nhưng Long vẫn không còn tìm được Nguyệt trong hình bóng
cũ.
Truyện người thứ ba hay
đúng hơn cái tình mộng của một người đã yêu bằng đam mê đã đuổi theo
bằng cả một chân thành của tuổi trẻ. Anh chỉ là một người chiến bại.
Sáu năm trường chiến bại chính là thời gian Long vẫn gặp được Nguyệt
trong tuổi thơ anh vẫn được yêu trong cơn thầm vọng. Tình tiết trong
truyện và cái bản sắc riêng của Long làm người đọc có cảm tưởng tình
yêu của Long vẫn phảng phất cái màu lãng mạn của một Đợi Chờ (Khái
Hưng). Nỗi buồn tình yêu ở đây phảng phất một cách bâng khuâng trên
cái nền lãng mạn. Chất truyện nhẹ và trong ẩn dưới một lớp của tình
cờ theo sự day dứt bâng khuâng cùng với một cảm giác nửa vời lơ
lửng. Đọc lên ta cảm thấy buồn một cách thích thú và êm nhẹ như làn
gió thu. Truyện tình viết được như thế đã là cao độ đạt vừa đủ bản
chất của một nguồn lãng mạn suối trong. Cái đẹp của truyện chính là
nỗi buồn phảng phất trong yêu và yêu trong lơ lửng. Khiến ta cảm mới
thấy và đã cảm được rồi thì nỗi buồn len nhẹ và thấm sâu ngay vào
tâm thức mình. Hồ Dzếch từng ca ngợi một tình yêu chỉ là tình yêu
khi còn dang dở. Long đã yêu bằng tình yêu đó. Chất truyện trong nhẹ
đã diễn ra theo sự tình cờ như lời kể và sự tình cờ ấy lại làm cho
người đọc khó quên hình ảnh Nguyệt và mối tình của Long như từng đã
có một thời tuổi thơ chạy đuổi theo cơn tình mộng như vậy.
Trong thế giới truyện ngắn
Võ Hồng thì đây là truyện tình thứ nhất ông đã thành công. Điểm
thành công đáng kể là đọc xong truyện ta có cảm tưởng như vừa sống
qua một mẩu đời cùng với trạng thái yêu. Truyện diễn ra trôi chảy
theo một giòng cảm xúc nguyên vẹn, thuần khiết và liên tục.
Trong Vết Hằn Năm Tháng,
truyện Tình yêu đất vẫn là truyện hay hơn cả - thấm đậm sâu
sắc và đủ nói lên cái ý nghĩa sâu xa trong tương quan giữa người,
quê hương và cuộc kiếm tìm một đời sống thực.
Lão Túc (nhân vật chính của
truyện) cũng chỉ như trăm ngàn nông dân Việt Nam, sinh ra để sống
một cuộc đời bình thường giản dị và như sinh ra chỉ để sống với đất,
với thôn xóm với tình người, mộc mạc nhưng không thiếu một lòng chân
thành kín đáo. Hình ảnh Lão Túc gắn liền với hình ảnh thôn xóm Việt
Nam, đẹp một cách đơn sơ phản ảnh đủ sự hồn hậu và lòng nhiệt thành
yêu Đất như yêu người như yêu quê hương. Lão Túc dù phải cam go
chiến đấu để tạo nên mảnh đất cho mình nhưng tâm hồn ông vẫn trong
như pha lê cũng không vẩn một chút tị hiềm.
Đối với Lão, đất mới là
nguồn sống thực, như một chiếc nôi nuôi trẻ thơ, nuôi chính lão. Đất
là người bạn tâm tình của Lão. Đất là tất cả. Đất cho tất cả: “Khi
vào tháng hai lưỡi cuốc của lão bổ xuống từng nhát mạnh để cuốc cỏ
mía, nơi vết thương của lòng đất vừa mở, hơi nóng tỏa nhẹ lên làm
lão ngây ngất và khiến lão nghĩ rằng đất là thứ da thịt có cảm xúc”
(tr.77). Đất đối với lão là một giá trị thiêng liêng không một quyền
uy nào có thể xúc phạm. Một điều thật dễ hiểu, chính thửa ruộng này,
mảnh đất này đã in sâu vết chân lão, lão đã đổ mồ hôi sức lực mới
có. Hy vọng của lão ở đó, hiện tại và tương lai của lão ở đó. Đất là
nơi gửi gấm cả thân xác lão mồ hôi và sức lực. Cho nên khi con lão –
thằng Lột trót xúc phạm đến mảnh đất của lão thì lão đã không nén
được cơn giận: “Mày nói sao? Đất sao lại mồ mả? Công tao khai
phá, đốt từng cái gai, dời từng ngôi mộ đổ mồ hôi cục mồ hôi hòa
xuống đó” (tr.85). Mỗi khi đi làm về, nếu ai hỏi lão: “ở dưới
đất về đó hả” lão dạ một cách hân hoan – bốn tiếng “ở dưới
đất về” như làm mát một nơi nào trong bụng lão, tận trong tâm
can lão. Mụ vợ thì vẫn thường chê bai mảnh đất của lão “có một
vại đất bằng bàn tay mà cũng làm rộn”. Lão vẫn cười hề hề với
một niềm kiêu hãnh “Một bàn tay cũng là đất, năm sở bây giờ cũng
là đất. Tao có một bàn tay thì tao rộn theo một bàn tay”
(tr.99). Lão bằng lòng với điều mình có do sức lực và mồ hôi tạo
thành.
Đất, chỉ một tiếng ấy đã
truyền cảm bao nhiêu và nuôi sống ước mơ của lão. Đọc nhân vật Lão
Túc, người đọc bỗng liên tưởng đến những nông dân Trung Hoa, cần cù
cam chịu trong thế giới tiểu thuyết Pearl Buck. Nhưng họ là những
con người thực. Con người sống bằng lương năng và hồn nhiên trong
nỗi cam chịu cơ cực. Nhân vật của Lão Túc phảng phất khuôn dáng của
một con người rất mực và đầy khí thế đối kháng với thiên nhiên trong
thế giới truyện ngắn của Tchékhov. Thực vậy, Lão Túc cũng như phần
lớn nhân vật của Tchékhov đã rất tầm thường, sống trong sự quên lãng
của đời, sống chơi vơi ngoài lề cuộc đời. Lão tựa hồ như loài cây cỏ
dại, không ai tri giao với lão. Lão hoàn toàn trơ trọi và bị áp chế
mọi đàng. Cả vợ lão cũng áp chế lão. Lão chỉ như một tiếng nói đơn
âm. Lão sống ở đời như chỉ còn đất tương quan với lão, thân mật hòa
cảm với lão. Đất không áp chế lão. Đất bằng lòng cho lão chinh phục,
bằng lòng nằm trong tay lão. Trong lão Túc còn hàm dưỡng cái tính
chất đặc biệt Việt Nam. Lão hồn hậu và chung thủy. Lão chung thủy.
Lão cần cù nhẫn nhục, như một con trâu. Lão Túc chính là sự hiện
diện của một thực chất nông dân sống động. Chính cái thực chất đó
qua lối văn đơn giản mộc mạc của Võ Hồng đã làm cho tình yêu đất trở
thành một nghệ phẩm tức là truyện đã đạt được bản chất và kích thước
của nghệ thuật.
Một đặc điểm khác, tác giả
đã để cho lão Túc xuất hiện một cách tự nhiên tức là ông đã thoát
được sự gán ghép cho lão một nhãn hiệu, khuôn mặt tạo hình lão xuất
hiện trong toàn truyện để rồi từ sự xuất hiện này qua chủ quan của
người đọc sẽ nhận chân ra con
người lão Túc.
Con người ấy trước hết đã
tiềm ẩn một ý chí phấn đấu. Lão Túc đổ mồ hôi sức lực trên mảnh đất
hoang đầy mồ đầy mả. Nhưng từ lòng yêu đất, từ sự cần cù sắt đá của
một nông dân lão đã chiến thắng được tất cả và tự tay lão tạo nên
một gia tài sản nghiệp cho lão. Rồi lão vẫn tiến lên, không bao giờ
đứng lại một chỗ. Lão đã được Trời trả công. Bây giờ thì lão đã trở
thành một nghiệp chủ trên mảnh đất hoang mà lão phải dày công phá
vỡ. Nhưng bao giờ cũng như bao giờ lão vẫn trung thực với con đường
đi tới của lão “nhát cuốc của lão giáng xuống mạnh hơn những nhát
rựa chém xuống mạnh hơn. Lão thêm tình yêu đối với đất, đồng thời dự
tính của lão cũng nhiều hơn” (tr.118). Còn thằng Lột, con của
lão tuy bỏ quê hương ra thành phố nhưng rồi lại lê chân què trở về
đất cũ. Bây giờ thì Lão túc có thể yên tâm “Nó sẽ luôn ở bên cạnh
lão trên mảnh đất này. Có bị thành phố hắt hủi nó mới chịu an phận
trên luống cày” (tr.119). Song giấc mộng của lão Túc vừa thành
thì lão Túc bị rắn hổ mang cắn rồi chết vì nọc rắn. Phút lâm chung,
lão vẫn cố lấy hơi thở tàn dối dăng: “miếng đất Gò Đình…thằng…”
(tr.126).
* Truyện Lạnh tuổi thơ
(tr.129 – 146) cảm động một cách chân thành tuy chỉ là một truyện
đơn giản tả lại đời sống của cảnh gà trống nuôi con. Một người cha
trẻ góa bụa đành lòng ở vậy nuôi con. Lạnh Tuổi thơ có thể coi là
một thứ tự truyện được viết lên bằng một cái tôi chân thật. Cái tôi
của một cảnh gà trống nuôi con tựa như tấm thảm xanh gợi lên bao
luyến tiếc tự cảm.
Truyện dí dỏm và vui một
cách cảm động, thành thực một cách đơn sơ. Đọc xong bỗng dưng người
ta dễ dàng lạc vào một vùng sương mờ và ở đó chỉ còn lại một linh
hồn băng giá.
Những mảnh vụn trong đời sống.
Con Suối mùa xuân – Văn
phẩm thứ tư của Võ Hồng (Lá Bối xuất bản – Saigon 1966).
Gồm 7 truyện: Tháng năm sương mù – Hai
người đàn ông – Trả thù – Khoảng trống sau lưng – Mùa hoa soan – Con
suối mùa xuân – Dấu chân sa mạc.
* Tháng Năm sương mù
(tr.9 – tr. 23) Truyện không có gì đặc sắc để vượt trên mức trung
bình. Tôi có thể nói đây là một truyện ngắn thưởng tẻ nhạt. Nếu đã
đọc Vết hằn năm tháng với nhân vật Doãn với những Hồ Đình Chiến, Thu
Hà thì Tháng năm suong mù quả là một truyện không có gì đáng nói.
Thiếu sự tha thiết, thiếu cả một nồng độ xúc cảm cho nên tác giả
không làm nổi được cái bình thường trong đời sống rất bình thường
của nhân vật trong truyện. Quanh quẩn truyện vẫn chỉ được khai triển
từ cái mẫu mực trong một chu vi hạn hẹp “…Cuộc đời nặng nhọc và
tầm thường níu kéo tôi trở lại, đè bẹp tôi xuống. Tôi không thoát
khỏi nanh vuốt của nó (…). Người ta vạch sẵn những con đường
cho tôi đi. Những nghị định, những quy
chế, những thể lệ bao phủ tôi mỗi ngày một dày thêm và tôi loay hoay
đụng chạm vào chúng thường xuyên như đi giữa khu rừng rậm phải chạm
vào những thân cây” (tr. 21).
* Trả thù (tr.47 –
63) cũng không hơn bao nhiêu so với Tháng Năm sương mù, chỉ
là một điệp khúc buồn tẻ nhắc lại một mẫu đời bình thường nào đó đã
từng thể hiện một cách có nghệ thuật qua Vết hằn năm tháng.
Cái nhạt nhẽo của truyện cũng tựa như cây kim và tiếng tích tắc đồng
hồ không gây ra một sự chú ý nào vì nó không tạo nên một dư âm trong
thời gian và không gian.
* Truyện Khoảng trống
sau lưng (tr.68 – 82) tuy không đạt được một bản sắc nào rõ, tuy
chất truyện cũng chỉ là sự rút tỉa từ cái bình thường không đáng
nói, tuy vậy tác giả đã làm nổi bật được một vài băn khoăn về hạnh
phúc. Hạnh phúc ở đâu? Và như thế nào mới là hạnh phúc trong tình
yêu?
Tình yêu ở đây không phải
là sự kiếm tìm, không mang một dấu hiệu nào tra hỏi. Và tình yêu tựa
hồ như một thầm lén phiêu lưu để được dâng hiến. “Hạnh phúc, niềm
tin sự an ủi trong hồn…em đâu có ngờ được chút chi…” (tr.75).
Nàng vẫn là sự trống rỗng.
Nàng bơi lội trong khoảng trống đó. Trước mặt sau lưng nàng thảy đều
là vô bổ nhàm chán. Và cả chàng nữa. Tình yêu cũng chỉ đem lại cho
chàng trong một thoáng chốc hò hẹn. Và tình yêu thực có phải là một
cuộc hò hẹn không? “Buổi trưa đó chúng tôi ít nói trong bữa ăn.
Tôi có cảm tường người nào cũng cố giữ một giọt nước mắt của mình.
Tình yêu không phải là những cái hôn. Nó còn là sự im lặng. Tôi tin
trong khoảng cách giữa tôi và Tuyết nó làm tình yêu của chúng tôi
trở thành xót xa và cao quý” (tr.76). Đúng như thế, tình yêu của
chàng và nàng chỉ có nghĩa trong sự xa cách cao
quý. Tuyết đã lừa dối Bình đến
đây cùng chàng? Chàng thì băn khoăn không ít. “Em không hối hận
khi lừa dối Bình mà đến đây?” – Tuyết thản nhiên: “một chút
ít thôi, Bình lừa em trước, Bình đi Hồng Kông một tháng và có lén
đem theo người tình nhân của hắn. Vợ của bạn hắn đó. Tụi thượng lưu
ngày nay học đòi lối chim vợ của nhau”. Bình hỏi: “Em không
ghen?”. “Vô ích. Vừa mang tiếng là quê mùa. Tốt hơn hết là
tiễn Bình lên phi cơ xong, em mang va li đến anh. Ít nhất chúng ta
cũng còn cao thượng hơn bọn nó. Vì ờ đây chỉ có một người bị lừa dối”
(tr.77).
Sự xa cách và câm nín có
thực đem lại hạnh phúc tình yêu không? Tuyết không mặc cảm lừa dối
chồng. Bình thản nhiên chấp nhận. Nhưng cả hai cũng vẫn chỉ là đôi
mắt chân thực của tình yêu song cuối cùng họ vẫn chỉ còn lại một
khoảng trống.
* Mùa hoa soan (tr.86 – tr.101). Câu chuyện
tâm tư của một cô giáo tỉnh lẻ. Niềm tâm tư theo tháng năm cùng nghề
nghiệp, thân thế nàng cuộn tròn trong kích thước của chu vi đời
sống. Một đời sống nhạt nhẽo, buồn tênh. Niên khóa này qua, niên
khóa khác lại tiếp tục, và cứ như thế này “Cuộc đời của Liên lại
được gắn liền với cuộc đời của những học trò của mình. Nàng nhẫn nại
làm việc, âm thầm cố gắng” (tr.99). Song Liên vẫn chỉ là Liên
của từng ngày dài khắc khoải “Mình chỉ có giá trị của một cuốn
băng nhựa magnétophone” (tr.94).
Trong
thành phố bãi biển này, Liên đã phải ép thân vào mực thước của
trường học, tuy thế Nàng vẫn còn một niềm vui mơ hồ. Niềm vui ấy là
đôi mắt Phúc – một đồng nghiệp của Liên – là một chiều thứ Bảy cùng
Phúc xem phim “Les
canons de Navarone”. Nhưng bây giờ thì
Phúc đã đi. Liên chỉ còn lại một niềm vui bâng khuâng khi tưởng nhớ
đến Phúc. “Ở Phan Thiết cũng có một bãi biển như đây. Không chừng
vào giờ này Phúc cũng ra ngồi ở bãi biển nhìn lằn bọt trắng ngầu,
nhìn con sóng nhấp nhô mà nhớ đến Nha Trang, nhớ đến nàng cũng nên”
(tr.101).
Khoảng mát – tác phẩm thứ năm của Võ Hồng (An Tiêm xuất bản –
Sàigòn 1966) – 198 trang – Gồm 7 truyện:
Mẹ và Em, Đôi chim bồ câu,
Đụng độ, Dốc hiểm nghèo, Con
đường gai, Khoảng mát, Chuyện cái răng.
Mẹ và em trước
hết cái tên truyện đã không phản ảnh được nội dung truyện. Lẽ tự
nhiên tên truyện cũng chỉ là một cái tên không nhất thiết phải thể
hiện nội dung truyện. Có thể tác giả đặt tên cho truyện như một sự
tình cờ hay nhằm vào một ý chính hoặc chủ đích. Ở đây thì mẹ và em
không phản ảnh một ý nghĩa nào của truyện và nếu là sự tình cờ thì
sự tình cờ trên rất gượng ép, gò bó. Đâu là mẹ, đâu là em và khởi từ
một chất liệu nào hàm dưỡng từ một ý nào tác giả đã dùng hai chữ Mẹ
và Em đặt tên cho truyện? Chúng tôi chỉ thấy một sự gượng ép. Trước
hết, Mẹ và Em chỉ là truyện của một chàng thanh niên tên Lưu. Chàng
không có một cá tính nào đặc biệt, mẫu đời của chàng ở một nhiệm sở
mới cũng không có nét nào tương đối đáng cho ta ghi nhớ. Lưu hoàn
toàn là một cái bóng mờ nhạt. Sao tác giả lại gắn bó cho Lưu một số
giá trị. Thứ giá trị được Nhìn ngắm trên những ý tưởng mệt mỏi và vô
căn. Chẳng hạn “Con người nuôi dưỡng quá nhiều thù hằn dưới một
lớp kính xã giao quá mỏng và trong suốt. Lưu mỏi mệt trong cái không
khí nóng bỏng những tranh giành thù hận đó” (tr.13). Nhân vật
Lưu sống và suy tư đầy gượng ép. Suy tư của Anh chỉ là những gì đóng
khung trong một số tư tưởng vụn vặt. Lưu cũng đã từng mệt mỏi, la
cà hết phòng trà này qua phòng trà khác, rồi bất chợt “Lòng Lưu
thấy phấn khởi vui vẻ. Anh thấy tin tưởng ở sức mạnh cần lao và lòng
thiện” (tr.19). Nhân vật Lưu ta thấy có vẻ na ná như chàng Duy
trong Con Đường Sáng của Hoàng Đạo. Song Lưu lại không có gì đặc
biệt cả trong cá tính. Anh ta cũng không có lấy một nét nào trỗi bật
trong nếp nghĩ và nếp sống. Tuy nhiên, Võ Hồng thì như muốn lý tưởng
hóa chàng như một mẫu người điển hình cho sự thức tỉnh tư duy. Tác
giả đã không thành công trong chủ đích như vậy. Và Lưu chỉ là một
nhân vật khô cứng không thể cựa quậy trong một chu vi hạn hẹp mà
chính tác giả đã vạch ra để nhốt chàng.
* Đôi
chim bồ câu (tr.31 – tr.50) là một truyện thường. Ở đây, đôi
chim bồ câu như chỉ là một cái cớ để tác giả trình bày một số ý nghĩ
của ông về Tình yêu – Tình yêu của loài chim và Tình yêu của loài
người. Tác giả viết: “Trong các giống chim nhà, tôi yêu nhất
những con bồ câu (…). Tôi yêu mối tình đằm thắm của chúng
đối với nhau. Những buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người yêu,
miệng rầm rì những lời thiết tha” (tr.31). Còn tình yêu của loài
người thì sao? – Theo tác giả “Tôi nhớ rằng khi yêu, con người có
thể hạ mình làm những việc tầm thường, thậm chí có thể làm những
việc ngu si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn lắm”
(tr.43). Tác giả hoài nghi và nhàm chán tình yêu của loài người? Có
lẽ vì thế, ông tìm thú nuôi chim bồ câu, tìm sự an vui trong tình tự
thương yêu của loài chim này. Ông đã thất bại. Vĩnh, cô bạn gái của
ông cũng thất bại như thế. Nhờ đó, tác giả tìm được an ủi qua sự
thất bại của cô bạn. Cũng nhờ đó mà hai người tìm được cơ hội cảm
thông nhau “Chúng tôi cùng một tâm trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang
cần một sự an ủi tương tự như tôi” (tr.49). Chủ đích của truyện
nhằm vào một chiều sâu và từ đó tác giả muốn nói lên một điều gì cao
hơn cái lẽ thường tình của lòng ưa thích nuôi chim bồ câu. Điều đáng
tiếc là tác giả đã không làm nổi bật được. Truyện diễn tả một cách
nặng nề, khô cứng nên khó đạt được yếu tố truyền cảm để đủ nói lên
cái chủ đích nhắm về chiều sâu và chiều cao của truyện. Khi tả về
đời sống của đôi chim, tác giả thiếu hẳn sự quan sát linh hoạt nên
tác động của chúng rất khô cứng và tựa hồ như một bức tranh vẽ đã
không khéo lại được làm bản kẽm in trên nền giấy tốt. Nền giấy tốt
ấy chính là chủ đích và một ý thức muốn nói lên một điều gì của tác
giả qua truyện.
*
Đụng độ (tr.53 – tr.76) truyện ghi lại những kỷ niệm vui ít buồn
nhiều của giới thầy giáo đi chấm thi. Truyện được mô tả khá sống
động và hoạt. Từ một việc thí sinh uy hiếp giám thị, hành hung giám
khảo đến chuyện thí sinh ném súng lên bàn… Thôi thì đủ mọi trò “cười
ra nước mắt” mà giới thầy đã phải đưa vai gánh chịu. Nếu độc giả
từng là một nhà giáo từng đi coi thi chấm thi thì truyện trên tựa hồ
như một cuốn phim rất thực quay từ một thực tại bội phần cay đắng.
Tác giả đã quan sát một cách linh động nên hoạt cảnh vừa rõ vừa
sống.
Đoạn tả
ông Chánh chú khảo thì đúng quá rõ quá. Ông ta quả là công chức
gương mẫu, một nhà giáo chân phương mực thước vốn nhút nhát, có hàng
trăm mối lo sợ. “Nhà giáo mẫu mực, lo xa lúc nào cũng tự vạch cho
mình những ranh giới và nhất định chỉ đi trong ranh giới đó. Đối lập
với chính quyền đó là điều
không bao giờ Cụ nghĩ tới” (tr.66). Ông Chánh chủ khảo có thể là
đại diện cho một lớp công chức già nua bất lực. Hôm hội đồng giám
khảo họp để bày tỏ thái độ vụ học sinh hành hung giám khảo. Ông
Chánh thực là một người đáng thương. Vì một mặt ông phải bênh đồng
nghiệp. Mặt khác, ông lại sợ chính quyền chỉ vì là công chức. Song
cái xót xa đáng thương hơn cả là ông Chánh đã phải đương đầu với bọn
trẻ cùng một nghề nhưng “tim phổi thì còn căng đầy nhựa sống”.
Đọc xong
truyện trên, bỗng dưng thấy hoàn toàn nản. Với Đụng độ thì tự
nó đã phơi trần tình cảnh tan rã
giữa một già một trẻ, giữa trò và thầy trong đó giới thầy giáo chỉ
như một kẻ bất lực chung thân. Đặc biệt trong truyện tuy sự việc thì
rất nhiều song lời lại đơn giản, tình tự diễn biến theo một nhịp
tuần tự mực thước, mỗi sự việc đều tương quan theo một mạch chung.
Rồi mỗi sự việc tự nó lại tỏ bày một góc cạnh trong hoàn cảnh riêng.
Điều đáng tiếc, có lẽ tác giả bị ám ảnh quá nhiều về nội dung chứa
đựng cho thích hợp với con đường chung thủy cho nên “đoạn
kết” (mà đáng lẽ không nên có vì chỉ làm giảm sút nồng cảm khích của
truyện) đã làm cho truyện có vẻ chắp vá gượng ép qua đoạn cuối khi
“tả” cảnh trò cũ gặp thầy tay bắt mặt mừng để như là để….tỏ ra ở
tình đời vẫn còn đẹp. Cái “cổ” rất cũ là ở chỗ gượng ép như vậy.
* Dốc
hiểm nghèo (tr.79 – tr.97) một truyện thường khác trong
Khoảng Mát. Đọc cho hết truyện, thật không thể tìm ở đâu ra một
con dốc hiểm nghèo nào. Truyện thiếu chất sống và quá nhẹ nếu không
muốn nói là nhạt. Truyện lại cơ hồ chất đầy một thứ trưởng giả và ảo
giác thoát. Nhân vật tôi lãng đãng như muốn bay bổng tâm hồn vào
chốn phù du của hoa bướm tựa hồ như một dịp giải thoát trong thoáng
chốc. Nhưng vì nó không xuất hiện từ một nguồn sáng tạo theo nhịp
điệu thực của cảm tính nên văn thiếu hẳn chất truyền đạt. Sự dựng
truyện có vẻ trình diễn có nghệ
thuật song không nắm vững được nghệ thuật của tương ngộ nhân vật
trong một hình tượng sống.
Sau
Dốc hiểm nghèo là hai truyện Con đường gai và Khoảng
mát. Hai truyện này, độc giả có cảm tưởng Võ Hồng như cạn đề
tài, nên không đạt được sắc thái rõ rệt. Tuy Khoảng mát có
nói lên được một vài sinh hoạt hồn nhiên và cảm động giữa khung cảnh
gia đình cha con, song nó vẫn khô khan thiếu cảm tính. Nếu Khoảng
mát đặt bên một Lạnh tuổi thơ người đọc sẽ ngỡ ngàng
trước một Võ Hồng – cái tôi chân thật của đồng hoa cỏ nội và một Võ
Hồng khô khan nặng phần trình diễn gượng ép (qua Khoảng Mát) chỉ vì
nguồn nước trong đã bị tát cạn.
Trong
tập truyện Khoảng Mát, truyện Cái răng có phần trỗi bật hơn
cả. Câu truyện tuy tầm thường nhưng từ sự tầm thường của một cái
răng gẫy Võ Hồng đã làm nổi bật được sự độc đáo. “Văn có những kỷ
niệm không mấy êm đềm về những cái răng của mình”. Từ đó, ký ức
của Văn được viết ra theo diễn tiến của thời gian khách quan qua một
thứ ngôn ngữ của đời sống, tươi trẻ và bình dị mộc mạc. Chuyện
Cái răng của Văn gắn liền với đời sống của Văn, tương quan với
cả biến thái và tiến trình của thời đại.
|