Võ Hồng
viết văn từ thời Tiền chiến. Mãi đến năm 1959, ông mới thực sự gia
nhập vào làng văn hậu chiến bằng văn phẩm đầu tay Hoài cố nhân
(Ban Mai xuất bản – Saigon 1959 gồm hai truyện Hoài Cố Nhân
và Ngày Xưa). Văn phẩm này không có gì đặc sắc để
đủ tin tưởng một Võ Hồng tiến xa hơn. Nhưng vốn là người trì
chí cần mẫn lại sẵn chất liệu phong phú ở ngay trong cuộc đời khởi
từ một dĩ vãng xa xôi, từ đó Võ Hồng đã vươn lên mãi đến nay thì ông
là một nhà văn có đủ kích thước của hai chiều sâu rộng. Một nhà văn
lớn từ tác phẩm của mình, phát xuất từ cái vốn sáng tạo của riêng
mình. Tiểu thuyết của ông mang một khuôn mặt đặc biệt Việt Nam –
tiếng nói của một tâm tưởng trong một bản sắc của tình tự con người
sống động trên phần sống của mình keo sơn với phần sống thực của quê
hương qua từng chặng đường lịch sử. Hiện nay, Võ Hồng đã hoàn thành
được 9 văn phẩm vừa truyện dài vừa truyện ngắn: Hoài Cố Nhân, Lá Vẫn
Xanh, Vết Hằn Năm Tháng, Con Suối Mùa Xuân, Khoảng Mát, Hoa Bươm
Bướm, Người Về Đầu Non, Bên Kia Đường, Gió Cuốn.
Võ Hồng
có sở trường về loại truyện vừa (một thứ trung thiên tiểu
thuyết). Những truyện ngắn mức trung (như Mẹ và Em.
Đôi chim bồ câu) ông không thành công. Phàm những truyện ngắn
như vậy phải đạt được giá trị toàn vẹn ít nhất như một bài thơ vì nó
đòi hỏi ở người viết một giòng cảm xúc liên tục, một sự trỗi bật độc
đáo nhằm vào một tình tự hoặc sống động cho riêng một chủ điểm để
làm nổi một bản sắc. Một truyện ngắn hay tương đối cũng phải đạt
được như vậy.
Truyện dài của Võ Hồng: dòng tâm tưởng trên từng
chặng đường của lịch sử đất nước.
Về truyện dài,
Võ Hồng có ba truyện: Hoa bươm bướm, Người về đầu non, Gió Cuốn.
Tôi thích nhất truyện Người về đầu non. Một loại thuật sự tâm
tưởng qua chuỗi dài kỷ niệm sống của ký ức. Văn phẩm này lộ diện một
cách rõ rệt bút pháp của Võ Hồng qua một nội dung tâm tưởng. Bút
pháp tức là cái thuật riêng của mỗi nhà văn trong cách xây dựng ngôn
ngữ và cấu tạo hình ảnh. Người về đầu non, tác giả đã đạt
được cho riêng ông một nghệ thuật cấu tạo hình ảnh. Một thứ hình ảnh
có nhịp độ rung động và bén. Một thứ hình ảnh nói lên và
gửi gấm nơi người đọc một điều gì đặc biệt khó phai
1 - Hoa Bươm
Bướm
(truyện dài – Lá Bối xuất bản – Saigon 1966 – 265
trang).
Truyện chia
thành 18 chương – Đalạt là khung cảnh của truyện cắm mốc từ thời
gian Nhật đảo chánh (9-3-45) cho đến ngày kháng chiến toàn quốc.
Truyện chứa đựng vô số những dấu tích lịch sử trong một giai đoạn
lịch sử trọng đại của Việt Nam. Những nhân vật trong truyện đã ít
nhiều tham dự vào lịch sử tại một thị trấn vốn êm ả, bình an
như Đalạt. Những Quỳ, Thức, Cần, Thanh, Hiệp, Luân, Hoàng, Mậu, Mai
Trang, Sáu Thiềng… đều trở thành dấu tích sống của một giai đoạn
sống trong phiến động.
Truyện
khởi đầu từ một khí thế bừng bừng của tuổi trẻ lúc bấy giờ “Giai
đoạn này là giai đoạn của thế hệ chúng ta (…). Ban xã hội của tổ
chức sinh viên hoạt động đắc lực trong việc cứu đói. Các tổ chức
chính trị lớp công khai lớp bí mật làm sôi nổi của không khí thủ đô”
(tr.8).
Những
Thanh, Hiệp, Quỳ, Luân, Thức từng sống trong không khí hào hùng này
với bao nhiêu ước ao “Cuộc đảo chánh mồng 9 tháng 3 là cái dịp
tốt để dân tộc ta giải quyết lấy vận mệnh của mình. Vận mệnh của
mình không phải do quân đội Nhật giải quyết” (tr.8). Người dân
Việt lúc ấy những tưởng đã nắm được vận mạng của mình, làm chủ được
đất nước mình sau khi Nhật thắng Pháp. Thái độ của ông già Thức đã
nói lên một phần nào “Ông về hay kể những câu chuyện lính Nhật
đánh Tây, đánh
Đầm, đánh Tây văng gương đứt cà vạt, đánh
Đầm văng xắc rơi giầy. Những bữa có truyện hào hứng để kể ông
ăn dôi một bát cơm” (tr.10). Nhưng tình trạng vong nô của đất
nước có gì thay đổi khác hơn. Điểu đó Luân thấy rõ hơn ai. Luân
chứng kiến đầy đủ với tư cách viên chức của Tổng đốc Việt nam tại
Đalạt: Quê hương thì vẫn tiếp tục đổ vỡ trước mắt “Báo động tản
cư bom nổ người chết những khung cảnh đó đã thâm nhập vào đời sống
của người dân, biến thành một nề nếp sinh hoạt quen thuộc bình
thường mặc dù họ vẫn ý thức mơ hồ rằng cuộc chiến tranh này không
phải của họ, rằng họ chỉ là nạn nhân phi lý không hy vọng được hưởng
gì hết ”. (tr.43). Thế rồi…. chiến tranh cũng phải chấm dứt.
Những ngày huy hoàng của tướng tá Nhật ở thị trấn cũng tàn mau như
hoa anh đào sau mùa đông lộng lẫy “tin đồn Việt Minh cướp chính
quyền ở nhiều tỉnh ngoài Bắc, ngoài Trung. Trong thành phố, không
khí làm ăn trở nên uể oải ngượng ngập. Có một sự bí mật lảng vảng
đâu đó, một cái gì trọng đại đang thành hình (…) Ở các ngã
phố chợ tuyệt nhiên không có bóng một xe nhà binh Nhật. Không có
bóng dáng một người lính Nhật nào ” (tr.66).
Thị trấn nhỏ bé bắt đầu giao
động rồi chẳng bao lâu bỗng bùng dậy xáo trộn rồi hoang mang với một
chút tin tưởng " Anh Tư gác dan cũng đã xung vào đoàn dân quân tự
vệ. Ngày đêm anh cầm súng gỗ, tập đi, tập bắn, tập bò ". Ở Sài
gòn súng đã nổ. Không khí hoang mang nghi kỵ trầm trọng . Trong lúc
ấy Luân làm gì ? " Cả ngày Luân theo hết đọc sách đến ra vườn
săn sóc những bồn hoa tử dương đang độ nở hoa " (tr.79). Luân
trở thành kẻ đứng ngoài lề. Mặc dù anh tiêu biểu cho tuổi trẻ cho
một giai tầng trí thức thành thị. Song anh đã hiện diện như một sự
buông tay bất lực. Tại sao ? Ðó là dấu hỏi của người đọc. Luân vẫn
lơ lững như không bám víu vào đâu cả và nằm dài trên sự tê liệt
choáng váng. " Những ngày đầu khởi nghĩa người dân bỡ ngỡ thấy
mình vụt nhiên lớn lên. Làm chủ lấy đất nước mình, công nhiên tuyên
bố đánh Pháp đuổi Nhật, họ choáng váng như vừa uống ly rượu mạnh
chưa quen " (tr.149). Giữa không khí choáng váng đó Luân vẫn yên
lặng câm nín - Quân ta đang đồn trú ở phía này - đàng kia là
Fimmom quân Nhật vẫn phòng thủ cẩn mật. Một bãi máu của người lính
Nhật bị quân ta bắn chết. Luân thấy tanh lờm lợm . Một sự im vắng
pha trộn đe dọa nào đang đè nặng lên chàng. Ðây cũng là phản ảnh
một phần cái mặt trái của một thời khí thế cách mạng. Luân như một
chứng nhân bất đắc dĩ cuả thành phố trong những tháng ngày đầy phiền
muộn. Bao nhiêu biến cố xoáy trước mặt chàng, trải dài trên phận
chàng với một trọng lượng như chừng có thể sờ mó được. Chàng thúc
thủ trong đó. Cuối cùng chàng cũng phải xung vào Ủy Ban để được sống
trong những giờ phút thấp thỏm " Số phận của mình tùy thuộc ở
một chiến trường cách xa ba mươi cây số , ở sức cầm cự của một đại
đội chưa thiện chiến và thiếu hẳn khí giới" (tr.187). Chiến
tranh mỗi lúc một lan rộng. Bấy giờ thì không còn hình bóng người
lính Phù tang nào. Bọn Pháp đã tiến chiếm khắp nơi, "... tiếng
súng nổ dội lại từ dẫy núi cao trước mặt. Tiếng trung liên lại nổ
tiếp một tràng, hai tràng rồi nổ liên miên. Tiếng súng lớn giả đì
đùng. Có tiếng la: Pháp tấn công ... (tr.262)
Luân vẫn như kẻ bộ hành trên
con đường kháng chiến . Con người trí trức thành thị như Luân đã quả
là con người khó hiểu. Riêng về phần truyện tôi thấy nhân vật này
không có chiều sâu, thiếu cả ánh sáng do đó truyện cũng thiếu ánh
sáng.
Bây giờ thì anh đã bị lôi vào
guồng máy nhưng tâm tư anh thì vẫn bâng khuâng phía ngoài lề và cũng
vẫn như ngày nào anh trang trọng trong bộ nỉ đen ngồi cạnh viên tổng
đốc Nam triều. Buổi ấy Luân cũng chỉ là kẻ ngoài lề. Cái còn lại,
đáng ghi là cái bằng hữu, là tình yêu. Thì ra con người trí thức tư
sản thành thị như Luân thật mâu thuẫn, thật phức tạp và cũng chất
đầy phản động tính với một chút ý thức mơ hồ lãng mạn.
.......
Thì ra
con người trí thức tư sản thành thị như Luân thật mâu thuẫn, thật
phức tạp và cũng chất đầy phản động với một chút ý thức mơ hồ lãng
mạn.
Từ hôm
ấy, khi người Nhật đang làm chủ thành phố này, Luân đã lọt vào cặp
mắt xanh của một giai nhân – Nàng tên Quỳ Qua bao nhiêu thăng trầm,
tình yêu ấy vẫn trong sương nguyên vẹn. Và Quỳ vẫn chỉ là Quỳ nạn
nhân của thời cuộc. Mới hôm nào nhà bị niêm phong (thời Nhật) nay
chủ quyền về ta. Ủy Ban lại giam nàng như một tên “Việt gian”. Cả
hai biến cố, Quỳ vẫn có Luân bên cạnh nhưng tình yêu thì vẫn mơ hồ.
“Hôm lên Cầu Đất với anh chị đội trưởng Luân ghé lại thăm Quỳ. Từ
ngày bị giam cầm ở đây, không có ai thăm hỏi nàng cả nên khi thấy
Luân đến nàng vui mừng ngơ ngác. Luân không chỉ là một người.Luân là
hiện thân của một quá khứ là Hảo, là Mai Trang, là Đàlạt là cuộc đời
êm đềm có hoa nở và có nắng” (tr.129). Cho đến một ngày kia,
giữa cảnh loạn ly tan tóc, Luân gặp lại Quỳ. Nàng vẫn sống trong một
ám ảnh kinh hoàng
“Em đã bị tình nghi. Em đã nằm ở Sở Trà”
(tr.234). Quỳ không thể nào theo đuổi kháng chiến. Nàng có ý định
hồi cư về thành. Luân thì muốn giữ Quỳ ở lại, cho đến hôm ấy, tình
yêu giữa hai người mới có dịp tay trong tay “Chàng ôm mạnh Quỳ
vào lòng, hôn lên đôi mắt đôi má”.
Em không thể về Đalạt được. Hiểm nguy đợi em ở đó.
Chúng ta không thể rời xa nhau được. Em không thể. Em không…
Chàng
ghì chặt Quỳ giữa vòng tay và hai cánh tay Quỳ cũng lần lần quấn lấy
cổ chàng như những dây leo như những rễ phụ, quần xiết mạnh hơn,
không mỏi, không rời”
(tr.235 tr.236). Lúc ấy, một bóng đen hiện ra, đi nhẹ rồi đứng yên
giây lâu “rồi thẫn thờ bước lui, hai tay bấu víu vào bờ tường”.
Đó là Mai Trang, một bông hồng của Đalạt hôm nào mà Quỳ đã một lần
đến cầu cạnh để Mai Trang can thiệp với người Nhật “Bà ấy quen
thân với các ông bên tòa sứ Nhật” (tr.51) – Trang đã có một thời
làm ngây ngất bao nhiêu người. Song dư luận cũng đã dị nghị Trang
không ít về sự quảng giao của nàng đối với người Nhật “Trang biết
ở trong thành phố người ta đồn đãi Trang đi lại với bọn tướng tá
Nhật” (tr.81). Tóm lại so với Quỳ còn trong trắng ngây thơ bao
nhiêu thì Trang đã từng trải, chin muồi bấy nhiêu. Song nàng vẫn chỉ
là người không hạnh phúc. Có lúc Trang muốn đi tu. Thật bất hạnh.
Trang lấy chồng, sáu năm không con và chồng thì lấy vợ lẽ “Bỗng
nhiên hạnh phúc bị bẻ gẫy như một que diêm bị bẻ gẫy dễ dàng giữa
hai ngón tay. Như que diêm bật sáng rồi tắt ngấm” (tr.8A). Hạnh
phúc không còn nữa nhưng Trang vẫn còn lại một tình yêu cho Luân.
Tình yêu của một kẻ chin mùi, khát sống, khát yêu. Trong đời Trang
đã bị mọi người lợi dụng. Trang biết như thế nhưng vờ đóng kịch –
chỉ còn lại có Luân nàng chỉ còn lại có một tình yêu để tạm quên tất
cả, tạm xóa đi trong giây phút nỗi khổ riêng tư. “Mai
Trang ngẩng mặt lên. Đôi mắt nàng ướt đẫm:
- Anh hôn Trang đi. Hôn cho rõ dài.
Luân cúi xuống hôn lên đôi môi. Mai Trang rùng mình bấu sát vào
người Luân, mắt nhắm nghiền lại. Hai giòng nước mắt chảy lặng lẽ
xuống má” (tr.87).
Tình yêu của Luân dành cho
Trang cũng chỉ như những que diêm bật sáng rồi tắt ngang. Cuối cùng,
tình yêu ấy chỉ còn thuộc về kỷ niệm, một ảo vọng xa xôi. Quỳ mới là
kẻ chiếm đoạt được Luân, với Mai Trang thì tình yêu chỉ bừng lên.
Đốt cháy nụ cười. Đốt cháy mơ mộng. Mỗi người trở lại sống riêng cho
phần đời của mình. Thế là hết – Trang và Luân đều phải lựa chọn “Bốn
giờ chiều thì Luân và Quỳ được lệnh mang ba lô lên ghe. Quỳ nắm hai
tay Mai Trang mà nghen ngào không nói được” (tr.259). Họ đã gặp
nhau, quen nhau trong một giai đoạn, một hoàn cảnh không có gì vui,
toàn là bom đạn, trốn tránh ruồng bắt. Tình yêu của Quỳ lên men nồng
trong hoàn cảnh đó. Tình yêu của Trang mất đi cũng trong cũng trong
hoàn cảnh này.
“Luân
bắt tay Mai Trang và chỉ nói được mấy tiếng:
- Chị ở lại
khỏe mạnh.
Giọng trả lời
của Mai Trang phảng phất như một hơi thở:
- Anh đi đường
bình yên.
Mai Trang thấy
bóng tối như sa sầm chung quanh mình”
(tr.260).
* Đây có thể coi
như dấu “chấm hết” của Hoa Bươm Bướm. Có thể nói, truyện mở
đầu như một tình cờ bắc nhịp với những tình cờ lịch sử và đứng lại
qua sự kết hợp trong tình yêu của Luân và Quỳ. Còn Mai Trang? Một
nỗi buồn phiền kéo dài…Mai Trang mang theo “dấu còn lại” của tháng
năm cô đơn hiu quạnh…
Truyện có một kết cấu uyển
chuyển linh động và bắt nhịp theo cơn dài biến cố của thời cuộc.
Thời cuộc tựa như cái trục và nhân vật của truyện xoay tròn theo cho
đến choáng váng. Nhờ vậy Hoa Bươm Bướm đã thể hiện vừa đủ một
hoàn cảnh lịch sử trên khuôn mặt một thị trấn bình an. Cùng với bão
táp quê hương thị trấn này cũng đổi thay tận gốc ngọn và cùng tất cả
quay tròn theo một nhịp độ chóng mặt. Người trong cuộc đã có dịp
chứng kiến tận mắt những biến thái và đổi thay trên một phần đất bé
mọn Sàigòn báo động từ ngày một Máy bay Mỹ dội bom. Ảnh thống chế
Pétain đã bị hạ xuống tạm chấm dứt một thời vàng son của thực dân da
trắng. Những Papa những Jean những Jacques lùi lại
dĩ vãng. Bây giờ là thời của những Kem-pei-tai những Joso
những sanoraya. Rồi cách mạng vụt bùng dậy. Và đây là một hình
ảnh “não nề” của Cách mạng qua cuộc hành quyết của “nhân dân”.
Im lặng một lát. Có tiếng bật lửa đánh xẹt
xẹt nhiều lần.. Tiếng môi bập bập vào điếu thuốc.
- Ngon
há.
- Tất cả
quỳ xuống nhắm. Thằng Việt gian thì cứ khóc than xin
Chính-Phủ tha tội xin đồng bào cứu dùm. Nó đang kêu khóc thì bên này
tiểu đội trưởng giơ tay ra hiệu. Súng nổ đoàng đoàng. Nó ngoẻo đầu
xuống. Tiểu đội trưởng lại bắn thêm một phát súng lục vào mang tai.
Cả sân vận động im lặng mình thấy ngộp thở. Mình không ngờ đồng bào
hăng thế. (tr.127).
Việt gian, chỉ hai tiếng đó
một thời đã trở thành cái bóng ma khủng khiếp. Và Cách mạng đã ám
ảnh người ta bằng những cái bóng ma như vậy.
Hoa Bươm Bướm đã làm
nổi bật được một số hình ảnh đơn sơ như thế. Nhưng tiếc rằng, tình
tự trong truyện thì thiếu gắn bó, đôi lúc rời rạc. Chất truyện tuy
có, tuy phát xuất từ một hoàn cảnh trung thực nhưng lại thiếu hẳn
chiều sâu, và không đạt được bản sắc rõ rệt. Truyện có quá nhiều sự
việc, tình tiết lại thiếu liên hệ và đôi lúc trở nên xáo trộn khiến
người đọc phải khổ công mới nhận rõ được sự liên hệ của sự việc này
với sự việc kia.
Nhân vật của truyện tuy
không nhiều nhưng xuất hiện quá phồn tạp. Đã thế lại chỉ được trình
diễn như những quân cờ theo
từng ván cờ thời cuộc. Không một nhân vật nào
trỗi bật vì thiếu một bản sắc cá biệt và đứng một cách mơ hồ
trong vị thế mơ hồ của truyện theo chu vi sẵn có. Hầu hết nhân vật
của truyện đều thuộc giai tầng trưởng giả thành thị. Song đã không
bóc trần được phần căn bản của đời sống thành thị chỉ vì tác giả đã
cho họ sống một cách hồi hộp. Bản sắc của người này so với người kia
không khác xa bao nhiêu, không phản ánh rõ khuôn mặt của từng người
trong đời sống thực tại.
Luân, Quỳ, Mai Trang có thể
coi như ba nhân vật chính của truyện. Luân chỉ là một thanh niên tư
sản thành thị, mệt mỏi và già nua trước tuổi. Tâm hồn chàng không hề
được chiếu rọi được một niềm tin nào. Chàng chỉ là kẻ bị cuốn tuôn
vào biến cố và bất lực trong biến cố rồi đành chịu câm nín thúc thủ.
Mối tình giữa bộ ba Luân, Trang, Quỳ cũng không có gì đặc biệt đã
thiếu sự tươi mát, lại thiếu cả phần cảm
năng.
Tôi thấy, Hoa Bươm Bướm
đã vắng mặt một giọng văn thiết tha chân thực của Người về đầu
non. Văn phẩm này chỉ như một thuật sự nhằm trình bày lại một
giai đoạn lịch sử cùng những con người sống bên trong song nó
chỉ vẫn đứng bên lề. Truyện không đạt được một tác dụng truyền cảm
cao và đậm chỉ vì trước hết mỗi nhân vật xuất hiện như con cờ
trong những sự việc rối rắm. Từ Luân, Quỳ đến Mai Trang chỉ là những
hình ảnh mờ nhạt, không
trỗi bật được vai trò trong vị thế của truyện. Tuy trong một
không khí biến động và đấu tranh song lại không đạt được không khí
như vậy, trái lại truyện có vẻ uể oải gượng ép.
|