Nhà văn Võ Hồng vừa tạ thế ngày
31/3/2013 tại nhà riêng ở Nha Trang (51 Hồng Bàng),
hưởng thọ 92 tuổi.
Giờ đây tôi bồi hồi nhớ lại những kỷ
niệm về Võ Hồng.
Năm 1976, tôi, nhà báo Hai Khuynh,
nhà văn Vũ Hạnh (kiêm lái xe)… đã ra Nha Trang thăm Võ
Hồng. Mới giải phóng, nhiều tâm trạng lắm. Võ Hồng lúc
đó hình như còn đi dạy, còn làm hiệu trưởng một trường
trung học ở Nha Trang. Dáng ông mô phạm thấy rõ. Trước
đó, tôi đã đọc vài tác phẩm của ông (có tiểu thuyết của
ông đã được Giáo sư người Nga N.I.Nikulin nhắc đến trong
luận văn nghiên cứu về văn học Việt Nam). Lần này, ông
đưa tôi đọc bản thảo tiểu thuyết Thiên đường ở trên
cao. Đối với tôi, một người đã ở lâu Hà Nội, thì
những chất liệu tiểu thuyết, những con người trong tiểu
thuyết này là một cái gì đó đã bị “gián cách”, tuy không
phải “xứ lạ”. Tôi bị cuốn hút vào cuốn tiểu thuyết, phần
khác vì tình thương yêu mà ông đã gởi vào nhân vật
Thérèse Băng Trinh, một nữ sinh, một nạn nhân của ma
túy. Sau đó mấy năm, tôi mới tìm cách xuất bản được cuốn
tiểu thuyết này cho Võ Hồng, rồi sau đó sách được in
lại… Từ đó bắt đầu một sợi dây liên lạc tình cảm giữa
ông và tôi – một người đọc “tri âm” những tác phẩm của
ông. Có lần thấy trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà
văn Việt Nam in một truyện ngắn của ông về thời ông ở
Bình Định, tôi xúc động viết thêm một thiên “vĩ thanh”,
gởi cho ông và cho báo. Cũng là tình cảm trân trọng đối
với những tình cảm mà ông thể hiện trong truyện, một mối
tình với một cô gái quê không lời…
Tôi nhận thấy Võ Hồng có mấy đặc điểm
đáng ghi nhận sau đây:
1. Ông là một nhà văn xuất hiện trên
văn đàn khá sớm (từ 1939?), trên tuần báo Tiểu
Thuyết Thứ Bảy.
2. Ông giỏi tiếng Pháp (thầy giáo
trung học thời ông là như thế) nên tiếp nhận ảnh hưởng
của văn hóa văn học Pháp sâu nặng, chủ yếu là ở tính
nhân văn, “lãng mạn” tích cực của văn học Pháp.
3. Ông đã làm hiệu trưởng một trường
trung học trong kháng chiến chống Pháp ở Phú Yên (trường
Lương Văn Chánh) và sống thời kháng chiến đó ở quê hương
anh dũng mà nghèo miền Trung. Võ Hồng luôn nhớ lại và
viết về những nhân vật trí thức trong kháng chiến sau
này, khi mà miền Nam đã ở dưới thời chiến tranh của Mỹ…
Và đó là những hoài niệm trung thực, xúc động, quý hiếm
về một giai đoạn lịch sử đáng nhớ.
4. Võ Hồng có lần nói với tôi, một
trong những đặc điểm của văn ông là ông đã góp phần nâng
tiếng nói của miền Nam Trung Bộ thành một thứ tiếng văn
học, bên cạnh tiếng Bắc Bộ và Nam Bộ.
5. Suốt đời, Võ Hồng yêu quý nghề
giáo và sống trong sạch, mẫu mực, thế nhưng ông vẫn có
đầy đủ tình cảm nồng nàn để hóa thân vào tình yêu của
những nhân vật của mình.
6. Và sau cùng, vợ ông – một nghệ sĩ
piano, một cô giáo tiếng Anh xinh đẹp – đã mất nửa chừng
xuân, để lại cho ông mấy đứa con côi cút. Ông yêu bà,
đợi chờ bà trở về như trong cổ tích, và ở vậy cho đến
khi lìa đời. Đối với một nhà văn, điều đó là một điều
không tưởng tượng nổi. Võ Diệu Hồng, con gái ông ở Paris
về chăm nuôi bố trong những năm cuối cùng của bố, có lần
nói đùa với tôi: “Có bóng phụ nữ vào phòng thăm ông, là
ông “sinh động” hẳn lên”. Thế nhưng cả đời ông đã ở vậy,
viết văn, làm thầy dạy học…, một người thanh khiết và
đẹp biết bao nhiêu!
Ông ra đi, để lại cho đời nhiều trang
văn xúc động. Có cô học trò tôi, cô Trang, dạy học ở Phú
Yên, đã làm một luận án rất công phu về Võ Hồng. Ông sẽ
ở lại trong niềm nhớ thương xúc động của nhiều bạn
đọc.