Những bài cùng tác giả
Thời đi học tôi luôn luôn là
người bé nhất lớp và cũng được cưng chiều nhất lớp. Thế hệ chúng tôi có rất
nhiều người thành danh trong các lĩnh vực khác nhau. Họ là những thầy giáo
đầu tiên sau ngày giải phóng Thủ đô dạy ở các Trường Đại học và nay đều đã
về hưu hết cả, mặc dầu nhiều người vẫn còn đang tham gia các hoạt động xã
hội hoặc hướng dẫn các cán bộ trẻ trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên trở thành nhà văn tài hoa có lẽ chỉ có một người. Đó là Ma Văn
Kháng. Gần đây Kháng bị bệnh tim phải vào điều trị tại Viện tim mạch trung
ương, nơi em trai tôi làm Viện trưởng. Tôi giao cho Lân Việt phải chăm sóc
Kháng, vậy mà một tháng sau mới tìm thấy ông nhà văn bạn thân của anh mình.
Hóa ra Kháng lấy tên khai sinh ghi trong Y bạ là Đinh Trọng Đoàn nên Lân
Việt không thấy có bệnh nhân nào tên Ma Văn Kháng nhập viện.
Tôi nhớ năm 1954 sau khi tốt nghiệp Sư phạm trung cấp tại Khu học xá Nam
Ninh (Trung Quốc) tôi vì ít tuổi quá nên được cử về học tiếp tại Đại học Sư
phạm khoa học Hà Nội, còn Kháng hơn tôi 2 tuổi thì được cử về tiếp quản Thủ
đô. Đấy là vinh dự lớn mà chỉ rất ít bạn được lựa chọn. Tuy nhiên Kháng lại
từ chối và xin về dạy học ở Lào Cai. Tôi tưởng Kháng quê ở Lào Cai nhưng
Kháng bảo: Quê mình chính là ở làng cổ Kim Liên Hà Nội, chả quen ai ở Lào
Cai cả . Nhưng mình muốn viết văn thành ra dám liều mạng lên miền biên ải
một phen xem sao.Kháng về dạy cấp II ở Lào Cai và bắt đầu xung phong
tham gia nhiều hoạt động xã hội. Đáng nhớ nhất là những ngày đi làm thuế
nông nghiệp ở thôn người Giáy Tùng Tung huyện Bảo Thắng. Tại đây Kháng bị
sốt rét ác tính, may mà có anh Ma Văn Nho là Phó bí thư huyện ủy Bảo Thắng
cứu sống cho nhờ kiếm được mấy mũi tiêm. Thế là kết nghĩa anh em và đổi luôn
tên là Ma Văn Kháng. Buồn cười ngay anh Nho cũng là người Kinh, họ thật là
Mè (quê Hạ Hòa , Phú Thọ) nhưng trên này nhiều người họ Ma nên cũng đổi luôn
họ của mình. Kháng vào Đảng năm 1959 và lấy vợ năm 1962. Năm 1961 Kháng gừi
truyện ngắn đầu tay Phố Cụt về báo Văn học (tiền thân của báo Văn
nghệ) và được đăng ngay. Ban biên tập chắc sướng lắm vì phát hiện ra một
anh người Tày biết viết văn (!) và nhờ có đà động viên ấy mà Kháng sau
đó gửi liên tiếp nhiều truyện ngắn khác. Tôi từ Hà Nội ngược sông Hồng lên
thăm Kháng vào dạo ấy. Tại một gian phòng nhỏ vào tối thứ bảy tôi gặp rất
nhiều người yêu văn thơ từ rất xa về tụ tập quanh Kháng để nghe Kháng
thuyết giảng như một bậc thầy văn chương. Tại đấy lần đầu tiên tôi gặp Hoàng
Thu Phòng, cô công nhân xinh đẹp của Nhà máy điện Lào Cai. Phòng rất mê văn
chương và tình nguyện chép lại các bản thảo dập xóa lằng nhằng của Kháng.
Rất tiếc ngày Kháng lấy Phòng tôi không lên dự được vì đường xá quá xa xôi.
Sau đó ít lâu Kháng được cử về học Đại học Sư phạm Hà Nội, khi tốt nghiệp
lại một lần làm mọi người ngạc nhiên vì trong khi nhiều Bộ môn muốn giữ
Kháng ở lại trường thì Kháng vẫn một mực đòi về Lào Cai để dạy cấp III. Sau
đó Kháng chuyển sang làm thư ký cho đồng chí Bí thư Tỉnh Ủy, rồi làm Phó
Tổng biên tập tờ báo của Đảng bộ Tỉnh. Mãi đến năm 1976 Kháng và cả gia đình
mới chuyển về công tác tại Hà Nội. Cuộc đời rất phong phú và sôi nổi của
Kháng được anh gần đây ghi lại trong hai cuốn: Hồi ký-Năm tháng nhọc
nhằn,năm tháng nhớ thương (NXB Hội nhà văn, 2009) và tiểu thuyết Một
mình một ngựa (NXB Phụ nữ, 2009).
Tôi đã đọc rất kỹ
một loạt các tác phẩm của Kháng ( Đồng bạc trắng hoa xoè (1979); Vùng biên
ải (1983);Trăng non (1984); Mưa mùa hạ (1982);
Mùa lá rụng trong vườn (1985);Võ sĩ lên đài (1986); Côi cút giữa cảnh đời
(1989 );Đám cưới không giấy giá thú (1989 ); Chó Bi, đời lưu lạc (1992);
Ngày đẹp trời (1986);Vệ sĩ của Quan Châu (1988), Trái chín mùa thu
(1988);Heo may gió lộng (1992);Trăng soi sân nhỏ (1994);Ngoại thành (1996);
Truyện ngắn Ma Văn Kháng (1996);Vòng quay cổ điển (1997); Đầm sen (1997);
Một chiều giông gió (1998); Ngược dòng nước lũ (1999); Gặp gỡ ở La Pan Tẩn
(2001)....Tôi không đủ khả năng bình luận về văn tài của Kháng vì nghe nói
đã có không ít luận văn Cử nhân,Thạc sĩ, Tiến sĩ lấy làm đề tài rồi. Giả
thưởng Hội Nhà văn (1986), Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn
(1995), Gỉải thưởng Văn học Đông Nam Á (1998) cũng đã xác định vị trí của
Kháng trên văn đàn nước ta.
Cũng như đối với các
nhà văn đàn anh như Tô Hoài, Nguyễn Tuân, Nam Cao, tác phẩm của Ma Văn Kháng
để lại cho tôi một ấn tượng sâu đậm về ngôn từ tiếng Việt. Hóa ra không phải
chúng ta ai cũng biết hết tiếng Việt. Đây là tôi nói tới tiếng Việt phổ
thông chứ chưa nói đến các phương ngữ (như trong văn của Nguyễn Ngọc Tư). Có
lần trả lời phỏng vấn Kháng đã nói: Tôi có thói quen quan sát và ghi chép
tỉ mỉ. Chính những vùng đất tôi đã sống và đã đi qua, những con người hiền
hậu, trong trẻo, hồn nhiên, giàu tình cảm đã thôi thúc tôi viết... Tôi luôn
tâm niệm sống rồi mới viết, quan trọng là sự trải nghiệm của bản thân, của
suy ngẫm trước cuộc sống. Cuộc sống mà Kháng đã từng trải rất gần gũi
với người dân quê ở các địa phương miền Bắc và ngôn ngữ của anh thật phong
phú cũng nhờ vào việc biết lắng nghe và ghi nhớ tiếng nói hàng ngày của quần
chúng. GS Phong Lê đã nhận xét rất xác đáng: “Nếu muốn tìm đến sự phong
phú của ngôn ngữ- áp cận được vào thì hiện tại, tôi nghĩ cần đọc Ma Văn
Kháng. Và trước đó-Tô Hoài. Đó là hai trong số ít người viết có được cả một
kho chữ thật rủng rỉnh để tiêu dùng. Và do có cả một cái kho, nên anh là
người không ưa dùng những chữ mòn; và ít khi làm cho mòn chữ. Dẫu là quen
hoặc lạ, chữ nghĩa khi qua tay Ma Văn Kháng là cứ ánh chói lên cái nội lực
bên trong của nó”
Tâm sự với tôi, Kháng viết:
Mình sinh ra không ở nông thôn. Chẳng được thừa hưởng chút nào lời ăn tiếng
nói của làng quê, chẳng được tiếp nhận cái hay cái đẹp của dòng văn học dân
gian. Mình cũng chỉ như bao nhiêu anh em ta là có được một bà mẹ xuất thân
con gái một làng ngoại ô Hà Nội, có được một lượng ngôn ngữ dồi dào phong vị
ca dao,tục ngữ giầu hình tượng, với nhiều tích chuyện cổ mà thôi. Thành ra
khi quàng vào cổ cái ách văn chương rồi thì đành phải lấy sự tự học để bù
đắp vào cái thiệt thòi, kém cỏi của mình vậy. Có thói quen do lâu ngày mà
hình thành là mình rất nhạy cảm với sự mới lạ của ngôn ngữ. Đọc một trang
sách, nghe một người nói chuyện. Sức hấp dẫn với mình ngay lúc đó chưa hẳn
đã là nội dung đâu,mà trước hết, có khi lại là ngôn ngữ. Thấy có cách diễn
đạt, kiểu câu, từ ngữ lạ, hay, chính xác, nghĩa là đi đến tận cùng của ý tứ,
là mình ghi chép, găm vào trí nhớ liền. Sách phổ biến khoa học mà Lân Dũng
tặng là những kho tàng chữ mới, mình không bao giờ bỏ qua. Ở thành phố mình
hay chú ý tới ngôn ngữ giao tiếp ở các ngõ xóm, nơi đời sống xa lạ với tính
quan phương, nơi cuộc sống trần thế đa tạp, đa sắc, nơi lưu hành một thứ
ngôn ngữ sống động tràn trề. Góp nhặt nó, đặt nó đúng chỗ, gia thêm cho nó
hàm lượng văn hóa, làm nó sang trọng lên là việc của anh nhà văn. Mình cũng
rất thích trò chuyện, gần gũi với các bà, các chị. Phụ nữ là đời sống tự
nhiên, là cái thường ngày. Ngôn ngữ của họ là tiếng nói đời sống, sống động,
đầy khía cạnh, sắc sảo, giàu biểu tượng, chứ không thẳng bẹt như cánh đàn
ông đâu. Ấy thế, phụ nữ đẹp, ngoa ngoắt, đáo để lợi khẩu là cái kho ngôn ngữ
giàu có lắm.Học chữ là việc ngày ngày, học mãi vẫn thấy chưa đủ của cánh nhà
văn bọn mình...”
Ví dụ thì vô vàn, tôi chỉ xin
trích dẫn ít câu trong mấy chương đầu của tập Hồi ký mới xuất bản của
Kháng. như thế đã thấy là quá nhiều rồi. Chẳng hạn như:
-Ở đó ngần ngật ảnh
tượng Phật tổ,các chư phật và các đồ thờ lúc này đang mờ mờ khói hương và
phăng phắc những ngọn bạch lạp cháy dựng đứng hình búp đa.
-Khối vàng đinh đứt dây,
tung tở từng thoi lem lém cùng hai con ngựa, chiếc ti vi, cái xe
máy bát lửa lòe cháy đùng đùng, phát tiếng ù ù như reo vui.
-Nẩy nhẹ hai rảnh đùi,
tiếp tục dòng ký ức đầy vẻ khoái hoạt, ông Cát cao giọng vừa định
tiếp thì chị Nứa từ mâm dưới đã quát với lên: Này, ông râu rậm, bô lô ba
la mãi thôi, không để bà nói à?
-Mỗi lần từ Kim Liên lên thăm
cậu em tức ba tôi,bác Cả Tre, mẹ chị Nứa tôi đều chân xỏ dép lá đa đi
bộ từ sớm bửng đến tối mịt thì tới.
-Hay đây
chỉ là cái trò bày đặt ra cốt để dọa dẫm, đe loi của người Nhật?
-Ấy ,
cái anh thuốc phiện lúc đầu hút thấy nó ngài ngài rất khó chịu...
-Đang rầm
rì, bỗng nổi lên tiếng một ông già khan re.
-Tôi
nói thế là chết mất nửa ruột rồi đây.
-Cầy đất
ải, đặt bừa xuống, trâu kéo, bừa nẩy tâng tâng đau ngực lắm. Bừa
san cũng mệt lắm.
-Ông chủ
tịch Chung đứng trên bờ bắt quyết, rồi đun 15 ống nứa đổ xuống suối.
năm sáu chục con người nhong nhóng bên bờ suối.
- Không có
ăn thì cố với gắng làm sao được.
-Có chăng
còn lại là một nỗi buồn, một niềm thương, một nỗi nhớ vương vương
-Dưới
kia ,dòng sông Nậm Thi liu riu chảy.
-Còn vương
vương một chút buồn vì một phen thay đổi sơn hà, mảnh thân chiếc lá
biết là về đâu.
-Chăn tằm
một tháng một lứa, vất vả vì chăm chút tỷ mỷ, từ công đoạn lấy ngài
đến lúc sang tằm, khi tằm ngái ngủ, rồi ngủ đều, giai
đoạn này phủ lá dâu thái chỉ nhỏ như sợi thuốc lào chủ yếu đẻ cho tằm
ngửi, ba tiếng một lần phải ra xem...
-Là con
phải giữ lấy nghề cha mới ra người hiếu hĩ.
-Thày
đọc nhiều thơ lắm. Giọng thày trầm ấm và cao sang. Những bài
thơ thể ngôn chí, thuật hứng, tức cảnh. Cuối cùng thày pha một ấm trà
mới, trà móc câu tuyết san.
-Chờ
tôi thưởng trà xong, thày mới mở cuốn sổ tay nhỏ, cất giọng thật
thanh sảng đọc bài thơ thày mới làm.
-Ra về
thày bảo tôi: Ông Tuân nói, tôi không phải là đảng viên, nheng Đảng coi tôi
dục tâm sáng như vầng nhật nguyệt.
-Thày nói
cho ông người Anh đó hiểu thế nào là tay cưa, đốc cưa, thế nào là
cưa đã rửa.
-Thày
sợ thói đời thông tục: đã ghét thì ghét cả tông ty họ hàng.
-Trong
tôi, một sức sống mới đang nẩy mầm,cựa động.
-Tôi
trở về Lào Cai với nghề làm báo, với bao bồi hồi và dự cảm.
-Tôi
cảm hội được sự thành công và niềm vinh dự này.
-Mỏi mệt
thì giải lao bằng hớp nước đun sôi và tự thưởng bằng một điếu thuốc
lào hút hết khói say lơ mơ.
-Cả đêm ấy
tôi không sao chợp mắt được.Nỗi vui râm ran làm thao thức cả nhà.
-Mà
ông Tạo thì biết đâu mà lần. Cái quay búng sẵn trên trời. Số
phận mỗi con người là từ bên trong họ bước ra hay từ bên ngoài họ
bước vào, nào ai mà biết đươc?
-Toàn
những tuấn mã máu me ngửi thấy mùi đồng cỏ cao nguyên là cất tiếng
hí, đòi cất vó lên đường cả. Có gì ngăn trở được nỗi hăm hở trước cái
vẫy gọi của vùng đất lạ.
-Đi để trở
về với thân hình gầy gùa, xanh xao, mệt nhọc rã rời, thậm chí
ốm đau lử lả, nhưng phục sức một chút, mắt đã lại ngóng về
phía trời xa.
-Đêm trong
rừng, mắt con nhện ăn đèn đỏ chóe, mắt nai xanh xếch chéo.
-Xa rồi
những thôn bản, những con suối, eo đồi, mom núi.
-Tôi
ngùi ngùi tự bảo mình: phải viết nốt những gì đã ấp ủ về mảnh đất
này.
-Vào ngõ,
qua mấy ngăn hố xí thùng, rẽ phải, qua một căn hộ, lại ngoặt phải,
qua ba căn buồng nhỏ của ba hộ, một cái sân chung lầy lội than bùn,
mặt tiền của hai hộ nữa, thì đến căn buồng kiệt cùng, đó là
nơi ở của chúng tôi.
-Ngày hè,
màn xô bí hơi, muỗi như ong, vậy mà sáng dậy mặt mũi, chân tay
ai cũng lấm chấm như lên sởi.
-Bế con ra
vườn hoa Canh nông cho nó chơi ở đó, nhìn những ngôi biệt thự, những cặp vợ
chồng, con cái người ta sởn sơ vui vẻ mà đau tủi.
-Nhiều lúc
thấy con nằm vắt trên vai bà nội như cái dải khoai héo mà
đứt ruột, đứt gan.
-Cơm
gạo càng ít càng phải phân miêng.
-Miếng
ăn quả là miếng nhục.
Nhưng người ta không thể sống mà không ăn.
-Đồng tiền
cháy ngay trên lòng bàn tay người tiêu dùng. Người nội trợ đi chợ, có
cảm giác như bị ăn cắp giữa ban ngày.
-Thì
cũng phải bới đất nhặt cỏ, tìm thêm công việc để làm chứ còn thế nào!
-Phòng là
người cơ chỉ, dè sẻn trong chi tiêu, mẫu mực trong lối sống của một
người mẹ, người vợ hiền thục, nhịn nhường.
-Ngồi
trong căn buồng chật hẹp mùa hè như cái lò thiêu,tôi viết, được trang
nào lại dúi xuống cất giấu ở dưới gầm giường cùng lũ nồi niêu sông
chảo nhọ nhem.
-Ở
đây lũ gà vịt ngan ngỗng lấm lem làm chủ. Chúng được thả rông. Con
nào con nấy đều ngược ngạo, táo tợn, chúng đá nhau, mổ nhau loạn xạ,
chúng bay vù vù để mổ thóc ngô trên các kiêu gạch , các mái gẩy.
-Cái
ngõ như kẻ mắc bệnh động kinh, hơi một tý là lên cơn sài giật.
-Cậu
nên nhớ thế giới người ta cho vay, nhưng còn xem giỏ bỏ thóc nhé...
Nhà văn, nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng viết: “ Ma Văn Kháng
là nhà văn có ý thức chăm chút câu chữ và đó cũng chính là sức hấp dẫn có
được của tác phẩm” Tôi nghĩ, chúng ta nếu muốn tự làm giàu
thêm kho tàng tiếng Việt của mình thì tốt nhất nên đọc sách của các nhà văn
trong đó đặc biệt là của nhà văn Ma Văn Kháng. Đọc sách của Kháng, qua những
ngôn từ mà Kháng đã dày công gạn lọc từ dân chúng, nhất là dân quê và dân
nghèo thành thị,chúng ta sẽ thấy cuộc sống phong phú , tinh tế, thú vị thêm
biết nhường nào!
|