Năm Mậu Dần lịch sử của xứ Đồng Nai: Danh tướng
Nguyễn Hữu Cảnh với chuyến kinh lược năm Mậu Dần lịch sử
Năm 1698, trở thành một mốc lịch sử
quan trọng đối với vùng đất Nam bộ nói chung và Đồng Nai nói riêng. Đó là
khởi điểm cho một vùng đất chính thức hóa trong sự quản lý của một thể chế
nhà nước mà cụ thể là sát nhập vào xứ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn.

Tượng đài danh tướng Nguyễn Hữu
Cảnh
Những ghi chép trong tác phẩm “Gia Định
thành thông chí” của Trịnh Hoài Đức cho biết: “Mùa xuân năm Mậu Dần (1698)
đời vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu
Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh lược Cao Miên, lấy đất Nông, Nại đặt làm Gia Định
phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lập xứ Sài
Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thư, Cai
bộ và Ký lục để quản trị, nha thuộc có hai tý xá, lại để làm việc; quân binh
thì có cơ, đội, thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở
rộng 1.000 dặm, dân số hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ Bố Chính Châu trở
vào Nam đến ở khắp nơi; đặt ra phường, ấp, xã, thôn; chia cắt địa phận, mọi
người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh điền và lập bộ tịch đinh
điền. Từ đó, con cháu người tàu ở nơi Trấn Biên thì lập xã Thanh Hà, ở nơi
Phiên Trấn thì lập xã Minh Hương rồi ghép vào sổ hộ tịch”[1].
Mặc dầu sử sách ghi chép vắn tắt, song
chắc chắn rằng những công việc mà thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực thi trong
chuyến kinh lược đầy phức tạp, khó khăn, có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
thiết thực cho công việc quản lý, phát triển vùng đất mới ở Phương Nam của
đất nước. Với tầm nhìn chiến lược, định hướng phát triển bằng những cụ thể
về hành chính, kinh tế, quân sự, chính sách an dân, hòa hợp với lợi ích dân
tộc... Nguyễn Hữu Cảnh là người có công lao to lớn trong việc hoàn tất về
mặt pháp lý trước một sự thể: “Dân khai mở trước, nhà nước quản lý sau” ở
vùng Đồng Nai - Gia Định, mở mang biên cương, lãnh thổ nước Việt trong một
thời kỳ lịch sử đầy biến động vào nửa cuối thể kỷ XVII.
Vùng đất Đồng Nai - Gia Định vào thế kỷ
XVI vẫn còn hoang sơ và một số tộc người bản địa sống thưa thớt. Từ cuối thế
kỷ XVI, vùng đất này mới trở nên sôi động khi có sự xuất hiện của nhiều
luồng di dân Việt từ vùng Thuận - Quảng tìm đến. Bên cạnh sự có mặt của lưu
dân Việt, còn có sự có mặt của nhóm người Hoa do Trần Thượng Xuyên xin chúa
Nguyễn cho phép định cư vào năm 1679.
Từ khi có mặt trên vùng Đồng Nai từ thế
kỷ XVI cho đến nửa thế kỷ XVII, lưu dân Việt là một nhân tố quan trọng cùng
với sự có mặt của cộng đồng người Hoa là nhân tố tích cực góp phần tạo nên
những cơ sở kinh tế, xã hội thuận lợi cho việc thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
kinh lược, thiết lập bộ máy hành chính, phát triển vùng Đồng Nai - Gia Định.
Huyện Phước Long với dinh Trấn Biên được nhắc đến trong việc thiết lập bộ
máy của Nguyễn Hữu Cảnh vào năm 1698 là tiền thân của tỉnh Biên Hòa trước
đây và tỉnh Đồng Nai sau này. Thời bấy giờ, huyện Phước Long rộng lớn bao
gồm những phần đất của các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương,
BÌnh Phước, một phần của Tây Ninh, Bình Thuận ngày nay.
Có giả thiết cho rằng, Nguyễn Hữu Cảnh
có dụng ý chọn mỹ từ khi đặt tên cho các vùng đất mới. Huyện địa đầu Nam Bộ
là Phước Long với ý mong muốn nơi đây hưởng nhận phúc đức, vĩnh viễn sống
trong cảnh sung túc. Ngoài ra, địa danh này còn một ẩn ý nữa là tôn vinh
công ơn của các chúa Nguyễn, dòng họ Nguyễn Phúc khi chữ phước bắt đầu cho
tên gọi. Đối với đất Đồng Nai, chuyến kinh lược năm 1698 dù ngắn ngủi nhưng
những công việc mà Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện đã đem lại nhiều hiệu quả. Đất
Đồng Nai chính thức có nền hành chính trong tổng thể chung của nhà nước do
chúa Nguyễn quản lý. Việc thiết lập bộ máy hành chính đã làm thay đổi vị thế
của cộng đồng cư dân Việt tại Đồng Nai. Qua chuyến kinh lược của Nguyễn Hữu
Cảnh với việc khẳng định lãnh thổ, sắp xếp bộ máy hành chính thù di dân Việt
từ thân phận lưu dân trở thành dân chính hộ, cộng đồng kiều dân Việt trở
thành cộng đồng chủ nhân vùng đất mình đang sống. Người dân trên đất Đồng
Nai ngày càng ý thức được về trách nhiệm của bản thân trên vùng đất từ nay
đã thuộc quốc gia của mình và có ý nghĩa xây dựng và bảo vệ.
Công việc thiết lập bộ máy hành chính
đối với việc lập bộ đinh, bộ điền. Chắc chắn lần kinh lược Đồng Nai với
những nhiệm vụ quan trọng này, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện nhiều
công việc phức tạp, khó khăn như: tìm hiểu về thiên nhiên (địa lý, địa hình,
đất đai, ao hồ, đường sá...), nhân văn (dân cư, mật độ phân bố từng vùng,
thành phần dân tộc, xã hội...) để phân định ranh giới hành chính, thiết lập
các đơn vị tương ứng để quản trị và đặt dựng các đồn tuần, cửa tấn để bảo
vệ. Trước đây, người dân được tự do khai khẩn, trưng chiếm ruộng đất, chưa
lập làng xóm thì Nguyễn Hữu Cảnh tiến hành thiết lập phường ấp, xã thôn,
ranh giới địa phận được chia cắt, quy định việc khai khẩn, chuẩn định thuế
đinh, điền và lập sổ bộ, chấm dứt một thời lưu dân tự phát, tự quản đưa vào
khung quy định của pháp luật. Không những khuyến khích những người dân vốn
đã sinh sống trên vùng Đồng Nai - Gia Định khai khẩn ruộng đất, Nguyễn Hữu
Cảnh còn chiêu mộ thêm dân từ Châu Bố Chính trở vào Nam đến ở và phân chiếm
đất đai, tăng diện tích canh tác để việc vùng đất đầy tiềm năng kinh tế đi
lên, tạo điều kiện phát triển thực lực của chúa Nguyễn về phía Nam. Nguyễn
Hữu Cảnh còn xây dựng một lực lượng quân sự khá chính quy cho vùng đất mới.
Mỗi dinh đều tổ chức lực lượng tinh nhuệ gồm cơ, đội thuyền thủy bộ có quân
đội chính quy nhà Nguyễn và lực lượng địa phương để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh
thổ và chính thức quản lý.
Một điều quan trọng không thể không
nhắc đến của Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện trong chuyến kinh lược là thực hiện
chính sách an dân, hòa hợp vì lợi ích dân tộc. Trên vùng đất Đồng Nai thời
điểm lúc bấy giờ, ngoài số lượng dân Việt chiếm đông đảo còn có cả người
Hoa, một số tộc người thiểu số. Sử sách cho chúng ta biết, đối với cộng đồng
người Hoa - một thành phần dân cư đến khai khẩn sớm ở vùng Đồng Nai – Gia
Định được Nguyễn Hữu Cảnh lập ra đơn vị hành chính riêng để ổn định, tạo
thuận lợi cho họ yên tâm xây dựng cuộc sống. Ở dinh Trấn Biên, Nguyễn Hữu
Cảnh đã lập xã Thanh Hà, cộng đồng người Hoa được ghép vào sổ hộ tịch. Từ
đây, cộng đồng người Hoa trên vùng đất Đồng Nai với tư cách là một lưu dân
kiều ngụ trên vùng đất khách xa lạ trở thành công dân của một quê hương đã
bao dung họ trên hành trình đầy gian khổ để mưu cầu cuộc sống tốt đẹp. Chính
cộng đồng người Hoa cũng đóng góp nhiều nhân tài, vật lực với cư dân Việt
khai khẩn, xây dựng và bảo vệ vững chắc vùng đất Đồng Nai - Gia Định trong
những thời kỳ lịch sử.
Với cương vị và nhiệm vụ được chúa
Nguyễn giao phó kinh lược phương Nam, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đã tỏ ra là
một con người có tài thao lược, thực hiện xuất sắc ý định của chúa Nguyễn:
nhanh chóng tạo nên sự ổn định, xác lập chủ quyền với vùng đất mới Đồng Nai
- Gia Định. Những việc làm của Nguyễn Hữu Cảnh cho thấy ông là một người có
công trong việc khai sáng ra xứ Đồng Nai. Công lao to lớn ấy không chỉ là
việc “tổ chức và sắp xếp lại giềng mối” mà còn thể hiện những chính sách về
mọi mặt chính Nguyễn Hữu Cảnh thực hiện: an dân, khuyến khích khai khẩn đất
đai, ổn định xã hội... để không lâu sau đó, vùng rừng núi, sông rạch Đồng
Nai trở mình, tràn đầy sức sống với phố xá, làng mạc trù phú. Những việc làm
của Nguyễn Hữu Cảnh là những nhân tố cơ bản, cần thiết thúc đẩy sự chuyển
biến về kinh tế, xã hội, chính trị của đất Đồng Nai - Gia Định. Đồng thời,
sau khi thiết lập bộ máy cai trị, bằng các biện pháp quân sự và chính trị,
Nguyễn Hữu Cảnh đã đặt nền tảng cơ bản, biến vùng đất mới của tổ quốc thành
chỗ dựa vững chắc cho các chúa Nguyễn tồn tại và đứng vững trong cuộc tranh
chấp với Đàng Ngoài, chống lại phong trào Tây Sơn và cuối cùng thiết lập nên
vương triều Nguyễn vào đầu thế kỷ XIX.
Thực hiện chuyến kinh lược phương Nam
do chúa Nguyễn Phúc Chu sai phái vào năm 1698, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh
gắn liền tên tuổi của mình với vùng đất Đồng Nai nói riêng và Nam Bộ nói
chung. Với những công lao to lớn, chính Nguyễn Hữu Cảnh đã góp phần quan
trọng trong tiến trình Nam tiến lịch sử thời các chúa Nguyễn. Là một danh
tướng tài giỏi nhiều mặt, Nguyễn Hữu Cảnh đóng một vai trò quan trọng đối
với việc mở mang lãnh thổ Việt Nam về phía Nam. Sau những năm cống hiến cho
nước nhà, bôn ba trên trận mạc Nguyễn Hữu Cảnh mất vào năm 1700, để lại niềm
thương tiếc không nguôi cho nhân dân.
Đối với vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai,
công ơn của Nguyễn Hữu Cảnh thật sâu đậm. Ông xứng đáng được nhân dân tôn
kính là Đệ nhất công thần xứ Đồng Nai. Lịch sử khai phá của vùng đất này mãi
mãi khắc ghi công lao của ông là “tiền hiền của các bậc tiền hiền” đã khai
sáng cho một vùng đất. Người dân vùng đất Biên Hòa - Đồng Nai ngưỡng vọng,
tôn kính và ghi nhớ công lao của Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh. Tại thôn Bình
Hoành dinh Trấn Biên (nay thụôc xã Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà), người dân
đã đồng tâm lập miếu võ trang nghiêm, tôn ông như vị Thành Hoàng đầy hiển
linh, luôn giúp cho xứ sở bình yên, thịnh vượng.
Hơn 310 năm tính từ năm Mậu Dần lịch sử
ấy, vùng đất Biên Hòa – Đồng Nai nói riêng, Nam Bộ nói chung đã có nhiều
thay đổi, biến chuyển và phát triển. Trong dòng chảy lịch sử của vùng đất
phương Nam, nhân vật Nguyễn Hữu Cảnh đã để lại dấu ấn sâu đậm của mình.
Phan Đình Dũng
[1]
Trịnh Hoài Đức. Gia Định thành thông chí. NXB Văn hóa phủ quốc vụ khanh
đặc trách văn hóa. 1972. Dịch giả Tu trai Nguyễn Tạo.
|