Những bài cùng tác giả
"Nay ta hát một thiên ái quốc
Yêu gì hơn yêu nước nhà ta”
Phan
Bôi Châu
Mỗi người Việt, vì những lý do nào
đó rời quê hương đi tìm một đất mới, một cuộc sống mới, thì phải chăng như
nhà nghệ sĩ tài hoa kia đã nói về những người ra đi, họ “Như những
dòng sông nhỏ/ Ôi những dòng sông nhỏ, lời hẹn thề là những cơn mưa”.
[Trịnh
Công Sơn . “Tình xa”]
Mỗi người Việt xa xứ, định cư ở nước ngoài, liệu những lúc nào đó trong lòng
họ có quặn lên “những cơn mưa”? Những cơn mưa hay là “những
lời hẹn thề”! Hẹn thề với ai? Với quê hương đất nước, nơi chôn rau cắt
rốn, nơi ghi đậm những dấu ấn tuổi thơ.
Ở đồng đất xứ người trên thế giới
có biết bao những con sông kỳ vĩ, dài hơn nhiều, rộng hơn nhiều, với những
ghềnh thác gầm thét hay phẳng lặng trải dài theo những đồng bằng bát ngát
phì nhiêu, nhưng chắc những con sông kỳ vĩ kia sẽ khó thay thế được cho con
sông tuổi thơ mà ở đó “chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng, giữ bao
nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi. hỡi con sông đã tắm cả đời tôi”. Đó là con
sông “nước gương trong soi tóc những hàng tre, tâm hồn tôi là một buổi
trưa hè, tỏa nắng xuống dòng sông lấp loáng” khiến cho dù có đi mãi tận
chân trời góc biển “lòng tôi như mưa nguồn gió biển, vẫn trở về lưu luyến
bên sông”[Tế
Hanh. “Nhớ con sông
quê hương].
Sẽ rất khiên cưỡng để trả lời một
cách rạch ròi, võ đoán có hay không sự “trở về lưu luyến
bên sông”, có hay không những “lời hẹn thề” một cách rạch
ròi, thô thiển, hoặc nói một cách
xấc xược rằng ai đó “không hiểu hoặc cố tình không hiểu” một “lời
kêu gọi” nào đó(*),
mà chỉ có thể trân trọng để tìm cách giải mã những cảm xúc vừa rất cụ thể
nhưng cũng rất huyễn hoặc, bồng bềnh đấy bí ẩn, như tâm trạng của một người
Việt xa xứ dẫn ra đây : “…Nếu không có mái chùa
cong cong kia để tôi thấy thoang thoảng màu khói hương trên bức ảnh mẹ tôi,
nếu không có mấy sợi bông cỏ bay bay trên mộ của ông ngoại tôi phía sau đồi
Long Thọ, nếu không có Huế để tôi nghĩ rằng một ngày nào đó, tóc bạc phơ,
tôi sẽ về dầm chân trong nước sông Hương giặt áo, làm sao tôi biết được tôi
bây giờ là ai? 1
“Tôi là ai” đã là một câu hỏi từng day dứt con
người sống trên trái đất này, và để trả lời cho câu hỏi đó, đã có bao nhiêu
triết thuyết ra đời. “Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này”,
câu hỏi của người nhạc sĩ như thảng thốt mông lung, như bềnh bồng khắc khoải
về một nỗi niềm sâu kín có lẽ không chỉ riêng của Trịnh Công Sơn. Nhưng ở
đây, liệu có cần phải triết thuyết luận bàn về câu hỏi của nhạc sĩ họ Trịnh,
hay chỉ cần một trực nhận về cái vô thức của người nhạc sĩ thiên tài ấy,
cũng như của một người phụ nữ tha hương mong một ngày nào đó “khi tóc đã
bạc phơ sẽ về dầm chân trong nước sông Hương giặt áo” để rồi cảm nhận,
để rồi suy tư.
Hiện có gần 4 triệu người Việt Nam đang sống ở nước
ngoài, trong đó có khoảng 300 nghìn người đã tốt nghiệp đại học và sau đại
học. Trong số đó, có những nhà khoa học tên tuổi như giáo sư Trịnh Xuân
Thuận, là chuyên gia đầu ngành hiện đang làm việc tại các đại học, viện
nghiên cứu và công ty nổi tiếng ở các nước Mỹ, Nhật, Canada, Anh, Úc, Hà
Lan…liệu trong lòng họ có “như mưa nguồn gió
biển, vẫn trở về lưu luyến” con sông
quệ hương của mình không?
Người Việt Nam ở nước ngoài
” hay là “Việt kiều”, cụm từ nào diễn đạt được
trọn vẹn cả ý lẫn tình về bà con người Việt ta đang cư trú ở nước ngoài?
Nêu câu hỏi này, vì đã có một trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài về thăm
nhà, tỏ ý bất bình khi được người ta gọi mình là Việt kiều : “Tôi chẳng
là kiều gì cả, tôi là người Việt Nam, thế thôi”!
Cũng có người quyết liệt theo một cách khác “Danh có
chính thì ngôn mới thuận. Những điều này khi được chính quyền hỏi ý kiến tôi
đã viết rõ như thế, tức là cần trung thực, cần đối xử bình đẳng với mọi công
dân Việt Nam và đối xử bình đẳng với mọi công dân nước ngoài…xóa chữ Việt
Kiều đi mà gọi, chẳng hạn người Mỹ gốc Việt, người Pháp gốc Việt, hoặc người
Việt gốc Trung Quốc…với thế hệ con cái, tôi nghĩ tuyệt đại đa số sẽ nghĩ
mình là công dân Mỹ. Như Obama. Và đó là tính cách Mỹ. Tôi cũng muốn con
cháu tôi như thế. Và ngay cả ở thế hệ thứ nhất, khi đã trở thành người Mỹ,
thì cũng rất nhiều người coi mình là Mỹ, và thực hiện quyền công dân Mỹ của
mình, như Kissinger, dù giọng còn đặc Đức, chẳng hạn. Hầu hết người đến Mỹ
lập nghiệp đều như vậy”.*
Có chuyện để nói về sự bực mình rất đáng suy ngẫm cũng
như sự quyết liệt rất chi là sòng phẳng rồi đây. Và, nếu tỉ mẩn tra tự điển,
thì mục từ “kiều” mà Từ Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn
ngữ định nghĩa cũng chẳng mấy sáng sủa mạch lạc : “yếu tố ghép sau một
danh từ riêng, tên gọi một dân tộc, để cấu tạo danh từ, có nghĩa “kiều dân”.
Từ Điển Hán Việt của Đào Duy Anh thì định nghĩa “kiều dân” là “dân
ở đậu ở nước ngoài”. Nhưng xem ra, chuyện “ăn nhờ ở đậu” đã không
còn diễn đạt được thực tế về cuộc sống hiện nay của nhiều thế hệ người Việt
Nam đang định cư ở nước ngoài. Và lại càng không diễn đạt được đúng về khái
niệm “người gốc Việt” . Làm sao lại có thể trả lời một cách đơn giản, thuần
ngữ nghĩa theo kiểu “gốc Việt ” là “yếu tố ghép sau một danh từ
riêng”? Cũng có người gợi ý “kiều” là “cầu”, người Việt xây nên chiếc
cầu của tình cảm, của gắn bó và đoàn kết để hướng về quê hương....
Thì hãy tạm chưa bàn thảo đến những gợi ý trên đây, chỉ
bằng suy nghĩ của một người Việt Nam bình thường, từng đổ máu trong cuộc
trường chinh ngót nửa thế kỷ để tìm chỗ đứng cho dân tộc mình và để được
sống trong khát vọng về độc lập, dân chủ và tự do để mà nói rõ rằng, cái
“gốc” ấy không chỉ là “yếu tố ghép sau một danh từ riêng”. Trong đó
ẩn dấu một ý nghĩa thiêng liêng vốn chìm sâu trong tiềm thức của một đời
người, mà đôi khi, trong những bộn bề bon chen của cuộc mưu sinh, ý nghĩa
thiêng liêng ấy bị chìm lấp đi. Chìm lấp, thậm chí có thể phôi pha trong
muôn một, nhưng không thể bị xóa nhòa để trong một tình huống nào đó thì bật
dậy thật mạnh mẽ và không kém phần bí ẩn.
Và đây, thật khó giải mã được hiện tượng thú vị này : trả
lời cho câu hỏi : “ông sẽ ăn món ăn gì
khi đến Huế”, vị sĩ quan Hải quân Mỹ trả lời bằng tiếng Việt theo
giọng Huế : “Bún bò Huế”. Đó là câu trả lời của trung
tá Lê Bá Hùng, một người Mỹ gốc Việt, hạm trưởng
chiến hạm
USS Lassen,
vừa ghé cảng Đà Nẵng trong chuyến thăm Việt Nam vừa rồi. Vị sĩ quan của hạm
đội 7 của Hoa Kỳ ấy nói : “Việt Nam là nơi
tôi sinh ra. Tôi tự hào là người Mỹ và tôi cũng tự hào về nguồn gốc Việt Nam
của tôi. Tôi luôn ước mơ quay trở lại Việt Nam và rốt cuộc cũng đã có cơ hội
để về, và tôi coi đó là điều rất đặc biệt. Và vào chính lúc này chứ không
phải lúc nào khác, tôi muốn trở lại Việt Nam. Lần tới khi trở lại Việt Nam
tôi sẽ đưa vợ và các con tôi về để các cháu có thể thấy được nơi tôi lớn lên”.
Cũng lại chuyện “gốc” rất thú vị ấy, có câu
chuyện cảm động về một người 43 năm đuổi tìm
tiếng “mẹ ơi” của Mirei Lehman, một người Thụy Sĩ gốc Việt. Ba
mẹ nuôi của cô đem cô về Thụy Sĩ khi cô mới vài tháng tuổi và đã từng cho cô
biết “Việt Nam là nơi chúng ta từng đến và đón nhận con, nơi đó xa lắm”.
Thế rồi, “tôi là ai” là câu hỏi đã theo Lehman suốt cả tuổi
xuân trong cuộc sống đầy đủ tiện nghi tại một đất nước thanh bình có chỉ
tiêu GDP cao ngất ngưỡng, một môi trường sống đứng loại nhất nhì của thế
giới. Tuy vậy, người phụ nữ tài năng và đa đoan đó vẫn cảm nhận rằng “Việt
Nam-con người thứ hai của tôi” khiến cho cô quyết tâm đeo đuổi mục
tiêu tìm lại nơi chôn rau cắt rốn của mình, tìm về cái “gốc” của mình. Và
mục tiêu ấy đã giục giã người đang là một nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp, giám
đốc một trung tâm truyền thông và từng đoạt nhiều giải thưởng về nhiếp ảnh ,
từng “thành công trong việc diễn tả những mâu thuẫn về cảm xúc trong quá
trình phát triển từ thơ ấu cho đến tuổi dậy thì, sự đắn đo giữa khát khao
được quan tâm và nỗi sợ hãi vì thiếu tình thương…” như sự đánh giá của
các nhà phê bình Thụy Sĩ. Và vì thế, dự án “Việt Nam-con người thứ hai
của tôi” được giới thiệu tại “La Maison de l’Indochine” ở
Paris đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và am hiểu nghệ thuật. Và
rồi năm 2008, Lehman trở về ViệtNam để thực hiện ba nhóm tác phẩm lớn với đề
tài “From another part”, “Here and there” và “Hello &
goodbye”. Các tác phẩm này đã được xuất bản thành sách và triển lãm hai
lần tại Thụy Sĩ. Năm 2009, Lehmann lại trở về Việt Nam để thực hiện bộ phim
“Le coeur au bord des yeux” [ tạm dịch là “góc khuất trong đôi mắt
em” ], bộ phim đã ra mắt khán giả tại TP.Hồ Chí Minh ngày 1.12.2009.
Xuyên suốt các tác phẩm của mình
Mirei Lehmann ấp ủ ước vọng thầm kín : “mong mỏi được một lần gặp lại
người sinh ra mình, được ôm họ và một lần được kêu lên hai tiếng Mẹ ơi”!
Ước vọng mãnh liệt ấy đã tác động mạnh đến những người sống quanh người phụ
nữ tài năng ấy. Romeo Dimier Degrange, diễn viên đóng vai nam trong bộ phim
nói trên, đã tâm sự “…khi tiếp xúc với Mirei và thấy được sự khao khát
tìm về nguồn gốc của cô quá mãnh liệt, tôi chợt hiểu rằng mình đang làm một
điều đúng đắn. Tôi thật sự mong cô sẽ được gặp lại những người yêu thương
của mình vì đó là điều cô xứng đáng được nhận”.
Và rồi, chỉ vừa mới tháng trước, một
sự kiện rất đáng tự hào : Thảo Nguyễn, người Mỹ gốc
Việt duy nhất trong danh sách 100 nhà khoa học trẻ được nhận giải thưởng của
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama trong năm 2009. Đây là giải thưởng dành cho
các khoa học gia và kỹ sư khởi đầu sự nghiệp, một danh hiệu cao quí nhất mà
chính phủ Hoa Kỳ trao tặng cho các nhà khoa học và kỹ sư trẻ trong giai đoạn
khởi đầu sự nghiệp nghiên cứu của họ.
Sinh năm 1976 tại Việt Nam trong một gia đình nhà giáo,
Thảo Nguyễn cùng gia đình tới Mỹ định cư vào năm 1986 theo một chương trình
định cư của Liên Hiệp Quốc. Được lớn lên trong một gia đình nhà giáo, nên
ngay từ nhỏ, Thảo đã tỏ ra là một cô bé ham học hỏi và điều mà cô nhớ nhất
về tuổi thơ của mình chính là những ngôi trường mà cô theo học. Ngay từ khi
còn nhỏ ba mẹ cô đã hướng cô vào con đường học vấn, bởi họ biết rằng kiến
thức là hành trang quan trọng cho con cái trong tương lai. Với thành tích
xuất sắc ở bậc trung học của mình, cô đã được nhận vào một trong những
trường đại học danh tiếng của Mỹ là Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) để
theo học ngành kỹ sư cơ khí.
Sau đó cô tiếp tục theo học thạc sĩ và tiến sỹ tại
trường Stanford, một trường đại học hàng đầu của Mỹ. Hiện tại cô là giáo sư
tại Đại học Johns Hopkins ở vùng thủ đô Washington.
Giáo sư Thảo Nguyễn cho biết : “ Nghiên cứu mà tôi được giải thưởng để tiếp tục
thực hiện là về một loại vật liệu khá mới mẻ có tên gọi là polyme nhớ hình
dạng (shape memory polymer). Vật liệu này có tính năng đặc biệt có thể phản
ứng với nhiệt và có thể được sản xuất theo một hình dạng rồi nung nóng và
tạo thành hình dạng khác và có thể lưu trữ được trong thời gian dài và tái
sử dụng khi cần thiết bằng cách nung nóng. Có nhiều tiềm năng để ứng dụng,
ngành hàng không vũ trụ rất quan tâm đến loại vật liệu này ví dụ như để sản
xuất bộ phận của cánh máy bay... ngành cơ khí sinh học cũng rất quan tâm đến
vật liệu này vì có thể sử dụng để sản xuất những thiết bị nhỏ nhất như sten
để đặt trong cơ thể”.
Ghép nối những “hiện tượng” cụ thể
vừa dẫn, để thử truy tìm những yếu tố sâu lắng, huyễn hoặc không dễ gì giải
thích một cách đơn giản, phân tích một cách dung tục hay suy đoán một cách
hàm hồ chen lẫn những định kiến hoặc những ngộ nhận. Phải chăng, để góp phần
“giải mã” những “hiện tượng” nói trên, nên tìm hiểu kỹ về bối cảnh nào
đã là điều kiện để cho cái “gốc Việt” đó đâm ra những hoa trái của cuộc đời,
vừa đậm hương sắc nơi thổ ngơi mới nhưng vẫn ủ ấp những hương vị “gốc” quê
hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Ở nơi ấy, nơi “Tình yêu
tìm thấy” như cách nói của Trịnh Công Sơn : “Tìm thấy nỗi nhớ
từ mỗi chiếc lá/ Góc phố nào cũng thấy quê nhà”. Vì lẽ “Từng
ngọn núi con sông ruộng vườn/ Từng dòng suối con kênh đầu làng/ Đã mang hình
bóng quê hương/ Đã nuôi dòng máu trong tim” [Tình yêu tìm
thấy] để rồi “ngàn
dâu cố quận muôn trùng nhớ thêm” [Em đi bỏ lại
con đường], để giục giã “về
cội xưa níu tay nghìn trùng”[
Níu tay nghìn trùng], nói
như lời bình của Cao Huy Thuần : “đó là cội nguồn, đó là quê nhà nằm
sâu trong tiềm thức của anh.1
Phải chăng bởi “đã nuôi dòng máu trong tim”, bởi “cội
xưa níu tay nghìn trùng”, bởi “cội nguồn nằm sâu trong tiềm
thức” đã khiến cho vị hạm trưởng của chiến hạm Hoa kỳ kia đã thốt
lên :
Việt Nam là nơi tôi sinh ra. Tôi tự hào là
người Mỹ và tôi cũng tự hào về nguồn gốc Việt Nam của tôi
”?
Đó là chuyện “ủ ấp những hương
vị “gốc” quê hương” vừa đặt ra! Thế còn “bối cảnh nào đã là
điều kiện để cho cái “gốc Việt” đó “đâm ra những hoa
trái của cuộc đời, đậm hương sắc nơi thổ ngơi mới”?
Phải chăng đó là cái điều kiện để thực hiện “khẩu hiệu hành động” của
vị Bộ trưởng Đức gốc Việt, ông Philipp Roesler : “Một người có
thể nói mọi điều mà anh ta nghĩ - Miễn là anh có suy nghĩ!”!
Sinh tại Khánh Hòa Việt Nam năm 1973, rời trại cô nhi ở đây
lúc mới 9 tháng tuổi, Philipp Roesler theo bố mẹ nuôi người Đức về sống tại
CHLBĐức. Ông bố - vốn là sĩ quan chuyên nghiệp - nuôi con trai 4 tuổi, và
cho cậu bé sớm làm quen với cuộc đời binh nghiệp. Roesler thành bác sĩ quân
y và rời quân ngũ sau 16 năm phục vụ. Anh gia nhập Đảng Dân chủ Tự do [FDP]
năm 1992, và liên tục hoạt động trên chính trường Đức, năm 2007 người Đức
gốc Việt ấy trở thành thành viên lãnh đạo liên bang của FDP. Ở mỗi cuộc bầu
cử nội bộ Roesler luôn đạt số phiếu trên 95%, bất kể để làm tổng bí thư FDP
của Hạ Saxony hay chủ tịch đảng FDP ở cùng bang hoặc khi được chọn ứng cử
vào nghị viện bang. Philipp Roesler vừa được chỉ định làm Bộ trưởng Y tế
CHLB Đức. Và rồi, “A Roesler” trở thành một thuật ngữ được dùng cho
những chính trị gia trẻ tuổi có kỷ lục thăng chức liên tục với “hiện
tượng Philipp Roesler”. Trên trang web cá nhân, Philipp
Roesler cho biết lý do tham gia chính trị : “Trước hết để thay đổi
điều gì đó, thứ hai, đó là công việc thú vị”. Với câu hỏi là thành
viên Đảng FDP có ý nghĩa gì với ông, Roesler trả lời : “Tự do, trách
nhiệm và khoan dung”. Với ông, tính cách mà một chính trị gia nên có
là : “Dũng cảm và trung thực”. Còn “Sự thật luôn có sức
mạnh hơn lời nói dối, nó chỉ không to tiếng và đi nhanh bằng lời nói dối”
là trả lời của chính trị gia 36 tuồi này về chính sách đối xử với bên ngoài
của ông. “Tôi thích là người quyết định” là câu trả lời cho
câu hỏi đâu là điểm mạnh của ông.Và để thực hiện điều đó, ông nói “chúng
ta cần có tự do nhiều hơn nữa” trong sự lựa chon những quyết định
của mình.
Trả lời câu hỏi về khẩu hiệu hành động của mình, Philipp
Roesler khẳng định: “Một người có thể nói mọi điều mà anh ta nghĩ -
Miễn là anh có suy nghĩ!”. Với khẩu hiệu hành động đó, vị Bộ trưởng
Đức gốc Việt đang được coi là
ngôi sao thu hút mọi sự chú ý trên chính trường Đức và trên mạng lưới
báo chí truyền thông quốc tế.
Liệu có phải
khi đưa ra khẩu hiệu hành động “có thể nói mọi điều mà anh ta nghĩ -
miễn là anh ta có suy nghĩ, chính trị gia trẻ tuổi này muốn nhắc đến
luận điểm tuyệt vời của Immanuel Kant, triết gia người Đức lớn nhất của thời
cận đại, một cột mốc trong lịch sử tư duy của loài người, từng “đẩy
lùi tất cả những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên những gì đi sau”
2, với tuyên ngôn: “Sapere aude! [Hãy
dám có tư duy sáng suốt ]. Hãy dũng cảm sử dụng lý trí của chính
mình. Đó là phương châm của khai sáng”.
Ơ đây Kant đã phát huy tư tưởng của Voltaire, nhà Khai
sáng Pháp, lên một tầm mức mới : “Tôi có thể không đồng ý với điều anh
nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ cho đến chết quyền của anh được nói điều đó”.
Quyền được nói lên suy nghĩ của mình, đó cũng là phương châm của khai sáng.
Chính điều này từng mở đầu cho kỷ nguyên mới của loài người, từ bỏ “Thời
kỳ đen tối” [Dark Ages]
của sự phi lý với thế lực
thống trị của thần quyền và chế độ độc tài chuyên chế, để có thể từng bước,
bước vào một thế giới mới, trong đó “con người đứng bằng đầu”! Trả
lời cho câu hỏi Khai sáng là gì, E. Kant nói ngắn gọn : “Khai sáng là
sự vượt thoát của con người khỏi trạng thái vị thành niên tự kỷ. Tính vị
thành niên là tình trạng bất lực của của con người trong việc sử dụng nhận
thức của chính mình mà không có sự hướng dẫn của người khác.”
Kant nói rõ rằng nguyên nhân của tính tự kỷ không chỉ là
thiếu lý trí mà là thiếu sự quyết đoán và dũng khí để sử dụng nó, chứ không
nhất thiết lúc nào cũng phải phụ thuộc vào sự chỉ đạo, dẫn dắt của ai đó.
Hấp thu được sức mạnh của sự khai sáng ấy, vị Bộ trưởng người Đức gốc Việt
nói lên khát vọng mãnh liệt của mình : “chúng ta cần có tự do nhiều hơn
nữa”! Để làm gì? Để “đẩy lùi tất cả những gì đi trước vào bóng tối và tỏa sáng lên những
gì đi sau”, khát vọng khai sáng của Kant mà vị bộ trưởng Đức gốc
Việt kia chuyển thành khẩu hiệu hành động.
Gần gủi hơn, trong thế kỷ XX chuẩn bị bước vào thế kỷ
XXI, Tổng thống Nelson Mandela, người anh hùng giải phóng dân tộc của Nam
Phi, một trong những con người được cả thế giới ngưỡng mộ, đã nói một cách
dung dị : "Bất cứ ai muốn phát biểu đều có thể nói. Đó là dân chủ trong
hình thức thuần túy nhất. Có thể không tránh khỏi tình trạng đẳng cấp giữa
vị trí quan trọng của người phát biểu này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ
hay dân thường, tướng tá hay thầy thuốc, buôn bán hay nông dân, địa chủ hay
tá điền, người nào cũng được nói... Chính đó là nền tảng của tự chủ: tất
cả mọi người đều được tự do phát biểu ý kiến của mình và tất cả đều bình
đẳng như là công dân".
Đây chính là tiền đề quan trọng nhất để cho
người Đức gốc Việt Philipp Roesler, người Mỹ gốc Việt Lê Bá Hùng,
Mirei Lehman, người Thụy Sĩ gốc Việt, và rồi Lê
Nam, chàng trai người Úc gốc Việt sinh năm 1979,
vừa nhận được giải thưởng văn học của Thủ tướng
Úc, và chỉ tháng trước, nữ khoa học gia
Thảo Nguyễn sinh năm 1976 , người Mỹ gốc Việt vừa được nhận giải thưởng của
Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama trong năm 2009.
Nếu không có một tiền đề quan trọng, đúng hơn, điều kiện quyết định ấy, sẽ
không thể có những “hiện tượng” thật nổi bật nói trên. Họ, những người nước
ngoài có “gốc Việt” trở thành những “hiện tượng” đáng tự hào và khơi mào
cho những suy tư về phát triển được hiểu một cách thoáng đạt
và khoa học. Đất nước ta đang rất cần một tầm nhìn thoáng đạt và khoa học
như vây. Và chính chúng ta đang cố gắng hun đúc, tạo dựng một môi trường
sống mới thể hiện trong tư tưởng lớn : “đoàn kết mọi người Việt Nam ở
trong và ngoài nước, không phân biệt thành phần xã hội và dân tộc, quá khứ
và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng, miễn là tán thành công cuộc đổi mới,
nhằm mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ…” 3. Gọi là “lớn” vì
tư tưởng này đã bác bỏ sự độc quyền yêu nước của một thời ấu
trĩ và cực đoan đã từng làm phôi pha, nếu chưa muốn nói là đã đánh mất, một
nguồn lực to lớn của người Việt Nam trong và ngoài nước cùng chung lưng đấu
cật xây dựng quê hương.
Việc “không phân biệt quá khứ và ý thức hệ, tôn giáo và tín ngưỡng”
sẽ tạo nên một không gian rộng lớn cho sự tập hợp những người Việt Nam đang
lưu chảy trong huyết quản mình dòng máu Việt thiêng liêng, khiến cùng cất
lên những lời đồng vọng từ Phan Bội Châu trong “Ái quốc ca”: “Nay ta
hát một thiên ái quốc, Yêu gì hơn yêu nước nhà ta”, từ Hồ Chí Minh
trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến 19.12.1946 : “Hễ là người Việt
Nam thì …” . Xuất phát điểm của lời kêu gọi ấy
khởi nguồn từ một truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam ta.
Đừng quên rằng, trong cương lĩnh dựng nước của Khúc Hạo
năm 906, đúng 10 thế kỷ trước đây đã khẳng định : “Chính trị cốt
chuộng sự khoan dung giản dị…khiến cho trăm họ được yên vui” đã mở
đầu cho thời kỳ tự chủ sau khi đã thoát ra khỏi đêm dài của ách Bắc thuộc.
Những lời đồng vọng ấy chỉ có thể cất lên trên âm vang của sự chân
thành đoàn kết, cùng trân trọng lẫn nhau cho dù chỗ đứng còn khác nhau nhưng
đều đang mong muốn đến với nhau để cùng cất lên một thiên ái quốc.
Thay cho những diễn giải dài dòng, mạn phép giáo sư Cao
Huy Thuần, người bạn kính mến mà chúng tôi rất trân trọng để trích ra đây
câu trả lời của ông cho câu hỏi : “Theo ông, bản thân ông và trí thức
Việt Kiều có thể đóng góp gì cho đất nước?”.
Trước hết, tôi không phải là "Việt Kiều", chưa bao
giờ tôi nhận tước hiệu này. Rất đơn giản, tôi là người Việt Nam ở nước
ngoài. Người Việt ở nước ngoài hay người Việt ở trong nước đều đóng góp
giống nhau về bản chất. Đóng góp là đóng góp. Ngày trước, trong thời kháng
chiến chống Pháp, chúng tôi nghe say mê bài hát thi đua như sau (mà lâu ngày
tôi quên mất một câu) :
Anh có cây súng kia / thì
tôi có bàn tay thợ
....
Anh giết thêm thực dân / thì tôi đúc
thêm súng đạn
Anh có bông lúa vàng / thì tôi có ngàn
lời thơ
Đóng góp là như thế. Ai ai cũng giống nhau. Hễ môi
trường tốt đẹp thì đóng góp hồ hởi. Hát lên mà nghe bừng bừng khí thế. Ai
cũng muốn đem cái gì quý nhất của mình để cho. Ai cũng muốn đưa ra, không
nghĩ đến chuyện thu vào. Bây giờ, hình như ai cũng nghĩ đến chuyện vơ cả
vào cho mình, mấy ai còn nghĩ đến chuyện đem ra cho. Đóng góp, trước khi
nói đến của cải, hãy nói đến tinh thần. Tạo ra được tinh thần đó thì không
còn thấy đâu là bên ngoài, đâu là bên trong. Tôi nghĩ lúc này là lúc không
nên phân biệt gì nữa giữa trong với ngoài. Càng không phân biệt, dân tộc
Việt Nam càng lớn, lớn ra năm châu bốn biển. Còn nếu cứ nói "đóng góp của
Việt Kiều", còn phân biệt người trong nước với người ngoài nước từ trong đầu
óc, từ trong chính sách, từ trong tình cảm, thì chính người đặt ra câu hỏi
đã định nghĩa "dân tộc Việt Nam" với một nghĩa hẹp, rất hẹp, hẹp như cái
vung. Bởi vậy nên tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tôi làm như là "đóng góp
của trí thức Việt Kiều". Trí thức là trí thức, công việc giống nhau. Tôi
làm cái việc bình thường của mọi trí thức, giống hệt trí thức trong nước.
Nghĩa là dạy học, viết sách. Công việc gần đây nhất của tôi cho Việt Nam,
như cô hỏi, là dạy học, viết sách. Bình thường! Hè vừa qua, tôi dạy học ở
Huế. Những bài giảng của tôi đang in thành sách, nếu không có gì trở ngại.
Cũng hè vừa qua, tôi có tham dự một Hội Thảo ở Đà Nẵng mà tôi là thành viên
của Ban tổ chức. Đây là một sự kiện trí thức được dư luận đánh giá cao,
nhưng nếu Hội Thảo đã thành công như thế, chính là vì biết khẳng định lĩnh
vực của mình là lĩnh vực trí thức, khoa học thuần túy. Chúng tôi không muốn
báo chí tham dự, vì chuyện trí thức là chuyện bình thường, chuyện làm hàng
ngày, hàng giờ, có gì chính trị mà phải phô trương? Trí thức không có cái
gì khác để "đóng góp" ngoài kiến thức và suy nghĩ. 4
Và rồi, ông biểu tỏ bản lĩnh của mình khi trả lời
cho câu hỏi : “ Đáng lẽ trí tuệ như các ông phải đóng góp nhiều hơn cho
đất nước chứ! Ông có nghĩ rằng ông bị gạt ra rìa”không ?” -
Không. Tổ quốc mênh mông như bầu trời. Đâu là "rìa"?
Ai dám nói bầu trời đã gạt mặt trăng ra rìa? 4
Liệu trong “tổ quốc mênh mông như bầu trời” của chúng ta đã tạo ra được “tinh thần đó” để “không
còn thấy đâu là bên ngoài, đâu là bên trong ” chưa?
Mở đầu cho một mùa xuân của đất nước, hy vọng rằng mong muốn kia sẽ biến
thành những giải pháp cơ bản, vừa trực tiếp, vừa lâu dài để tập hợp, khai
thác và phát huy được một nguồn lực vô giá mà đất nước đang rất cần để phát
triển. Đầu tư cho trí tuệ và trái tim con người là sự đầu tư mang tính nhân
văn sâu sắc, chính vì thế, là sự đầu tư thông minh nhất.
Tương Lai
Chú thích :
1.
Cao Huy Thuần. “Nắng
và Hoa”. NXBTôn giáo. 2003, tr. 54,tr.207 .
Ông là giáo sư Đại học
Pháp, hiện sống ở Paris.
2. Emanuel Kant. “Phê phán lý
tính thuần túy”. NXB Văn Học.2004. tr. XXVIII
3 Điều lệ của Mặt Trận Tổ quốc
Việt Nam . Văn kiện Đại hội VII của Mặt trận.
4. Cao Huy Thuần. Tạp chí
Thời đại, tháng 7. 2006
* Vũ
Quang Việt, nguyên là chuyên viên của Liên Hiệp Quốc, từng tham gia Tổ Tư
vấn của Thủ tướng Chính phủ năm 1993, hiện sống ở New York.
(*) có lẽ tác giả Tương Lai muốn nói
đến phát biểu của Ông Nguyễn Thanh Sơn, thứ trưởng ngoại giao, chủ nhiệm Ủy
ban công tác về người Việt Nam ở nước ngoài phê phán những việt kiều không
về tham dự Hội Nghị người Việt nam ở nước ngoài lần thứ nhất vừa được tổ
chức vào tháng 11 năm 2009 tại Hà Nội:
BBC: Có ý kiến trái chiều nhau về
hội nghị lần này. Liệu ban tổ chức có đặt ra “tiêu chuẩn” Việt
kiều nào sẽ được hoan nghênh trở về tham dự hội nghị, Việt kiều
nào không được hoan nghênh hay không?
Ông Nguyễn Thanh Sơn: Tôi nghĩ những ai yêu nước, yêu dân tộc thì đều
trở về. Những ai mong muốn đóng góp cho sự phát triển của đất
nước, để Việt Nam sánh vai ngang tầm các nước khác trên thế giới,
xứng đáng với mong muốn của các vị tổ tông tiền liệt và anh hùng
liệt sỹ thì đều trở về tham gia hội nghị.
Những người không về dự và còn có ý kiến
khác về hội nghị, thì tức là người ta chưa hiểu.
Có hai lý do: một là chưa hiểu hết thực
tình đất nước, hai là cố tình không hiểu. Tôi hy vọng các đại
biểu về dự hội nghị trở lại sẽ giải thích để bà con hiểu thêm.
http://www.bbc.co.uk.news-channel.org/cgi-bin/openurl.pl?link=http://www.bbc.co.uk.news-channel.org/
vietnamese/av/2009/11/091118_vietkieu_diplomacy.shtml
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/av/2009/11/091118_vietkieu_diplomacy.shtml
(Vietsciences chú thích bổ sung)
Báo ĐẦU TƯ, số Tết CANH DẦN. 2010
|