Hàng chục năm trước đây, người ta đã bàn tới việc đập bỏ Tháp Rùa,
với những lý do nghe chừng rất thoả đáng. Bởi lẽ Tháp Rùa chẳng phải
là di tích có ý nghĩa lịch sử nào cả; hoặc về kiến trúc cũng không
phải là đặc biệt, và lại còn dính tới chuyện suýt trở thành ngôi mộ
nữa chứ. Và cho dù từ xưa gò đất ấy chỉ là nơi rùa hay bò lên phơi
nắng, người ta quyết giữ nó, mặc dù những lý do bảo vệ cũng chẳng
mấy thuyết phục. Chỉ vì quen mất rồi.
Hơn nữa, Tháp Rùa đã đi vào thơ, nhạc, hoạ của văn nghệ sĩ đất Hà
thành từ xưa đến nay. Sự nuối tiếc đã thành công. Giữ lại Tháp Rùa, với
ý nghĩa bảo tồn được một di tích đã gắn bó với đời sống của Thủ đô hơn
một thế kỷ qua. Nhưng mọi chuyện quanh Tháp cũng còn nhiều điều chưa
được bày tỏ, làm cho du khách thập phương đến chưa thấy được điều gì,
không lạnh nhạt nhưng cũng chẳng trầm trồ thán phục.
Khi nói đến Tháp Rùa, người ta lơ mơ nhớ đến chuyện xưa, có một người
định xây mộ cho cha mẹ mình, mới đứng ra xây Tháp Rùa, nhưng không được,
thành ra hình bóng của Tháp Rùa chỉ là một câu chuyện dở dang. Nhưng
thực ra, cố nhân Nguyễn Hữu Kim (1832 - 1901), với chức danh Bá Hộ xưa,
tương đương với trưởng phường hiện nay, đã nổi tiếng vì dám đứng ra tổ
chức chôn cất cho cụ Hoàng Diệu, quan Tổng đốc tuẫn tiết vì thất bại,
trong thời kỳ kháng Pháp đầu tiên (1882). Việc làm này chứng tỏ ông Kim,
một thương nhân giàu có, đã thể hiện lòng dũng cảm và thương xót một
người anh hùng đã hy sinh anh dũng vì đất nước.
Mặc dù có thời, ông Kim còn được phong là Tri phủ Thường Tín, rồi
Thương biện phủ Hoài Đức, nhưng lại bị Pháp nghi kỵ, cách chức và quản
thúc, chỉ vì có cô con gái lại tham gia phong trào chống Pháp. Người con
gái của ông tên là Khuê, sau này trở thành nguyên mẫu trong tiểu thuyết
Bóng nước Hồ Gươm của Chu Thiên,
một cuốn sách mô tả phong trào chống giặc Pháp xâm lược hết sức quyết
liệt của người Hà Nội. Thêm nữa, cháu nội của ông là liệt sĩ Nguyễn Ngọc
Vũ (1908 - 1932), từng là Bí thư Thành uỷ chính thức đầu tiên của Đảng
bộ Hà Nội (Đảng Cộng sản Đông Dương lúc đó) đã hy sinh trong Hoả Lò năm
1932.
Có lần bác sĩ Nguyễn Thìn, một bác sĩ đầu ngành sản khoa Viện C Hà
Nội, cháu năm đời của ông Kim đã cho xem gia phả, càng thấy rõ 5 người
con trai và 3 con gái của ông Kim đều được giáo dục và trưởng thành,
trong một gia đình có nền nếp, luôn hướng tới làm những việc thiện, vì
dân vì nước. Vậy nên việc xây Tháp Rùa của ông Kim, khi ấy với ý nghĩa
“hậu chẩm” cho chùa Báo Ân xưa, ở vị trí nhà Bưu điện trung tâm ngày
nay, cũng có cái lý nhất định. Nhưng dù sao, ông cũng là người đã xây
nên ngôi tháp này trên đảo rùa, với bốn tầng, mang dấu ấn như một sự hoà
trộn giữa hai màu sắc kiến trúc, phương Tây và Á Đông, cũng là một sự lạ
vào thời đoạn 1884-1887. Tên ông luôn được gắn với những câu chuyện về
Tháp Rùa và được mọi người nhớ đến, như thành tựu của một doanh nhân đối
với Hà Nội cũng bởi lẽ đó.
Dấu tích còn lại về ông hiện còn được lưu giữ tại số nhà 29 phố Hai
Bà Trưng, là dinh cơ cũ và là nhà thờ đại tôn của họ Nguyễn, theo gia
phả năm đời thuộc gia đình ông.
Tuy vậy, có thể nói ngày đó Tháp Rùa là một công trình có ý nghĩa
công đức cho cộng đồng và trở thành một cái tên sớm được nhắc đến cho
bất cứ ai lần đầu tiên đến Hà Nội. Xưa các tao nhân mặc khách đã họa
thơ:
“Hồ Gươm soi bóng Tháp Rùa
Ánh đèn soi tỏ mái chùa Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn…”
Lẽ dĩ nhiên từ đó Tháp Rùa gắn bó với đền Ngọc Sơn tạo nên cảnh quan
hài hoà và trở thành điểm nhấn cho Hồ Gươm.
Nghe nói, trước đây có một con đường nhỏ đi bộ từ bờ hồ ra đảo Rùa
được, vì xưa nơi này từng là nơi câu cá giải trí của vua quan triều Lê.
Có người tò mò rằng, ai là người thiết kế kiểu kiến trúc “tân cổ giao
duyên” như vậy, hay chỉ là ông Kim tự nghĩ ra rồi thuê thợ làm theo ý
mình. Bởi lẽ hai tầng dưới làm theo kiểu Tây, còn hai tầng trên lại theo
phong vị của đền chùa cổ Việt. Chả thế thời đó, trên một số báo Pháp còn
gọi Tháp Rùa là ngôi đền nhỏ, hay chỉ là chùa được xây trên nền một ngôi
đền nhỏ trước đó. Bởi nó chỉ cao 8,8m, với diện tích khoảng 28,51m2,
chiếm tỉ lệ khiêm tốn trên gần một sào diện tích đảo Rùa. Chính vì lẽ
đó, với độ cao chỉ vừa đủ làm một bệ tượng mà có chuyện một kỹ sư người
Pháp là Daurelle quyết định Tháp Rùa phải đội bức tượng Thần tự do Mỹ?
Đó là chuyện có thật. Nhưng nói chính xác chỉ là một phiên bản nhỏ,
mẫu của tượng Thần tự do, trước khi người Pháp xây tặng cho nước Mỹ. Đây
là phiên bản thứ hai, tượng Thần tự do bằng đồng, cao 2,85m được Pháp
đem sang Việt Nam trưng bày trong một cuộc triển lãm, tại Hội chợ Đấu
Xảo năm 1887. Sau đó tượng được tặng lại cho Hà Nội và được đặt ở Vườn
hoa Chí Linh. Nhưng đến năm 1890, Chính phủ Bảo hộ muốn lấy chỗ đó đặt
tượng Pôn Be, Thống sứ đầu tiên bị chết tại Hà Nội, nên tượng Thần tự do
được rinh ra đặt trên nóc Tháp Rùa, mặt quay về phía Vườn hoa Chí Linh.
Theo một tài liệu, qua báo chí thời đó, thì Tháp Rùa phải đội tượng Thần
tự do này trong 6 năm, từ 1891 - 1896.
Rồi không hiểu vì lý do gì mà tượng Thần tự do được chuyển về đặt ở
Vườn hoa Cửa Nam. Đến trước thời kỳ Cách mạng Tháng Tám nổ ra, pho tượng
này đã bị giật đổ cùng với một số tượng khác ở Hà Nội, theo lệnh ký ngày
31/7/1945 của thị trưởng Hà Nội Trần Văn Lai lúc đó. Nhưng thật khó ngờ
vì một biểu tượng nổi tiếng của nước Mỹ, một công trình nghệ thuật tuyệt
đẹp lại có một phiên bản duy nhất được trưng bày ở nước ta trong một
thời gian dài chừng hơn nửa thế kỷ. Đến nay số phận bức tượng đồng Thần
tự do đó ra sao cũng không còn dấu tích nữa. Thật đáng tiếc!
Nhân kỷ niệm 1000 Thăng Long - Hà Nội vừa qua tại Đà Lạt, 20 nghệ
nhân hoa cùng hơn 1.000 du khách đến cùng dựng Tháp Rùa bằng hàng chục
ngàn bông hoa đủ màu sắc. Các nghệ nhân đã tạo nên một kỷ lục với chiều
cao Tháp Rùa hoa lên tới 11m, nổi trên hồ Xuân Hương. Phải nói Tháp Rùa
hoa giống hệt Tháp Rùa trên Hồ Gươm về hình dáng và thiết kế cả từ bên
trong, với những bậc thang hoa đi lên từng tầng tháp rực rỡ sắc màu.
Nhưng có lẽ, từ lâu hình ảnh Hồ Gươm và Tháp Rùa được soi bóng trong
văn, thơ, họa nhạc, như một biểu tượng lung linh cho Hà Nội. Tháp Rùa
sống với tâm trí cộng đồng, gắn bó về tình cảm, như một sự chia sẻ hay
bày tỏ thân thiết với những người con Thủ đô. Thật khó ai có thể quên
hình ảnh Tháp Rùa trong tranh Phố của cố danh họa Bùi Xuân Phái, với tà
áo dài bên Hồ Gươm, xa xa nghiêng bóng Tháp Rùa, trong nắng sớm. Và, ai
cũng có thể nhớ đến bản tráng ca Người
Hà Nội của Nguyễn Đình Thi, hoặc
Nhớ về Hà Nội của Hoàng Hiệp, cũng như
Gửi người em gái miền Nam của
Đoàn Chuẩn - Từ Linh… Tất cả đều gắn bó với hình ảnh Tháp Rùa.
Chuyện quanh Tháp Rùa ngỡ như chỉ gắn liền với huyền thoại hay những
lời bàn mang yếu tố tâm linh làm tăng màu sắc của rêu phong một thuở.
Nhưng ít ai ngờ, trong sử sách về cách mạng của Thủ đô ngàn năm văn
hiến, còn ghi lại câu chuyện xảy ra vào đúng ngày sinh nhật Bác Hồ ngày
nào. Có thể coi đây là một câu chuyện mới nhất về lá cờ của một chiến sĩ
đã bí mật treo trên đỉnh Tháp Rùa, ngay trong lòng địch, đúng vào ngày
sinh nhật Bác Hồ, 19/5/1948. Chuyện xảy ra hơn 60 năm, nhưng người thanh
niên quả cảm, một chiến sĩ công an đã hy sinh anh dũng đến nay mới được
xác nhận là liệt sĩ, quả là một thiệt thòi không nhỏ.
… Sáng hôm đó, chiến sĩ Nguyễn Trọng Quang, mới 18 tuổi đã cùng đồng
đội bơi ra Tháp Rùa để treo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cao nhất. Sự kiện
này làm chấn động đời sống người dân Hà Nội. Từ ngày giặc Pháp chiếm Hà
Nội, đây là sự kiện đầu tiên lá cờ cách mạng tung bay làm náo nức lòng
người, như một bằng chứng hùng hồn về sự hiện diện của cách mạng ở ngay
giữa lòng địch, thể hiện tinh thần quật khởi của người dân Thủ đô, làm
kẻ địch hoảng loạn.
Sau đó ít ngày, chiến sĩ Quang bị địch bắt giam tại Hoả Lò. Tại đây,
anh đã vẽ lá cờ đỏ sao vàng và viết khẩu hiệu
“Hồ Chủ tịch muôn năm” lên
tường. Ông Đông, người bị bắt cùng anh Quang kể thêm, ngay hôm sau bọn
giặc bắt tất cả đi tra tấn và tìm cho ra người vẽ. Lúc đó, anh Quang đã
khảng khái đứng ra nhận và bị chúng đưa đi biệt giam với tội danh đặc
biệt nguy hiểm. Đến ngày 12/6 năm đó, chiến sĩ Nguyễn Trọng Quang đã bị
chúng bắn chết…
Chiến công của liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang đã được xác nhận, nhưng
thật khó khăn, khi đồng đội không biết địa chỉ gia đình ở đâu để làm thủ
tục công nhận liệt sĩ. Sau này, với sự giúp đỡ của phóng viên báo Công
an Nhân dân cùng các đồng đội cũ của liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang đã tìm
được thân nhân của gia đình ông ở 12 Bát Đàn, Hà Nội.
Vậy là, sáng 10/4/2009, sau 61 năm, bằng Tổ quốc ghi công mới được
trao cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Trọng Quang. Có thể nói đây là câu
chuyện duy nhất có ý nghĩa, gắn với Tháp Rùa trong câu chuyện trăm năm
soi bóng trên truyền thuyết lịch sử hoàn kiếm của vua Lê.
Trở lại với hiện thực khi hơn trăm năm trôi qua, giờ đây Tháp Rùa đã
trở thành một biểu tượng trong lòng người với nhiều cảm xúc thân thương.
Nhưng thật ra gọi Tháp Rùa là di tích loại gì cũng khó xác định, cả về
hai khía cạnh lịch sử và văn hoá, mặc dù nó đã là một địa chỉ trong
khuôn viên du lịch Thủ đô. Nhìn tổng thể, tháp lại là một công trình
kiến trúc lai tạp, vậy thiết nghĩ, có thể cải tạo, nâng cấp cho đẹp hơn,
giống như nhiều di tích đã từng làm.
Vả lại trên thực tế, Tháp Rùa cũng đã từng vài ba lần dỡ nóc để đặt
tượng trong 6 năm trời, hoặc tróc vỏ, trát vữa, quét vôi đến trơ trụi
như hiện nay. Hơn nữa, cái chuyện những người thợ xây đã bí mật ém hài
cốt của song thân ông Bá Kim ngày xưa cũng chỉ là truyền miệng, không
thể kiểm chứng. Vậy việc thiết kế, làm lại móng, nâng cấp cho Tháp Rùa
xứng đáng là một kiến trúc có giá trị văn hoá và bền vững của Thủ đô âu
cũng là chuyện cần thiết?
Bút
ký Vương Tâm
Sức khoẻ và Đời sống
|