Chuyện dân mình
ưa ngậm tăm sau khi dùng bữa. Vì thói quen đó
được đa số trong cộng đồng chấp nhận, "thực
hành" nên đã có không ít người quy nó vào phong
tục, văn hóa dù cho các nha sĩ luôn khuyến cáo
không nên dùng tăm xỉa răng, như thế sẽ làm cho
nướu, chân răng dễ tổn thương, gây các chứng
bệnh về răng. Gần đây cũng đã xảy ra một vài ca
cấp cứu thủng đại tràng vì giỡn tăm bằng...
miệng.
Nhưng người ta vẫn thích nghịch tăm sau khi ăn
như một thói quen đầy ngoan cố. Hơn thế, như một
thứ bệnh nghiện hết thuốc chữa.
Tôi đã thử truy tìm nguồn gốc, ngõ hầu lý giải
cho "hành vi" này, nhưng sách vở đành bất lực.
Tôi đem vấn đề trao đổi với một số chuyên gia,
nhà nghiên cứu văn hóa và ghi nhận được một số
kiến giải khả dĩ ở góc độ căn nguyên, động cơ
của hành vi.
Có người quan tâm đến văn hóa dân gian, cho rằng
đời sống văn hóa làng xã trong quá khứ của người
Việt quanh năm vần xoay trong lễ lạc cúng quảy.
Hết thảy những câu chuyện làng nước, tương tác
được đàm đạo quanh mâm rượu thịt đề huề, nên
ngậm tăm là cung cách để giữ hình ảnh (thể diện)
vệ sinh trong giao tiếp trên mâm cỗ. Ngậm tăm,
về mặt biểu tượng cũng thể hiện sự no đủ, hay
dấu chỉ cho người đối diện thấy mình mới dùng
bữa xong. Có một câu chuyện người ta hay kể trên
bàn nhậu, rằng xưa có một anh nông dân bần cùng
thế nhưng ưa sĩ diện, lúc nào cũng ngậm tăm tỏ
ra ta đây no đủ. Một hôm người ta phát hiện anh
ta chết vì đói quá nuốt phải cây tăm.
Một chuyên gia khác lại cho rằng, chuyện xỉa
răng là hậu quả của việc bỏ tục ăn trầu
nhuộm răng của phụ nữ xưa. Người ta thay
trầu bằng một que tăm, ngoài việc làm sạch
miệng thì cũng đỡ thừa thãi hai tay và đỡ
buồn miệng. Trong khi đó, một chuyên gia
quan tâm đến nha khoa và nhân trắc học thì
cho rằng, sự vụ này có liên quan đến đặc thù
phát triển về khung hàm, sự bố trí răng của
người Việt: do dùng chất xơ, thức ăn sống,
thói quen thích nhai nghiền phần thịt xương,
nên hầu hết người Việt đến tuổi trưởng thành
thì khoảng cách giữa các chân răng có xu thế
thưa ra, dễ gây chứng mảng bám, hôi răng nên
xỉa răng bằng tăm tre là một thói quen hợp
vệ sinh đối với nhiều người.
Mỗi chuyên gia có một trường quan tâm thì sẽ
lấy "chuyên ngành" của mình ra mà tha hồ
giải mã. Mỗi một cách lý giải đều có sự thú
vị của nó.
Song tôi lại muốn "bẻ lái" câu chuyện sang
một hướng khác, khi quan sát việc "thực
hành" xỉa răng và ngậm tăm không chỉ diễn ra
như một lý do giữ vệ sinh răng miệng sau khi
ăn, mà còn là một căn bệnh nghiện. Hãy thử
quan sát, trên thực tế, đâu chỉ có người có
răng thích ngậm tăm sau khi ăn, mà đến những
cụ già không còn răng cỏ, trệu trạo nướu
trơn không bỏ được thói quen ngậm (nghịch)
tăm trên miệng, vừa nói vừa chìa mũi tre
nhọn bén vào mặt người đối diện, thậm chí,
đâu phải người mới dùng bữa mới ngậm tăm,
hãy xem một số cô cậu thanh lịch, đặc biệt ở
Hà Nội, rất tự tin ngậm cây tăm trên miệng
lái xe tay ga dạo phố hoặc bước vào siêu thị
dù bữa ăn chính đã xong trước đó vài giờ
đồng hồ.
Với người này, cây tăm chỉ có thể là ngậm
chơi, nhưng với người kia, cây tăm được lừa
đi lừa lại, cắn gãy khúc, nhai giập, làm
biến dạng trước khi chu môi máng chặt, vận
khí từ trong khoang miệng, bắn một phát vô
hướng vào khoảng không.
Ngạc nhiên quá xá trước thói quen ngậm tăm
của người Việt, cây bút Drew Taylor, sau
nhiều năm sống ở Việt Nam, đã mô tả thật hài
hước: "Xỉa
răng quá nhiều! Sau bữa ăn, thể nào cũng
thấy mọi người chuyền tay nhau ống tăm xỉa
răng. Người cần cũng xỉa, mà người không cần
cũng xỉa! Và từ không-cần-cũng-xỉa lại sinh
ra cần-phải-xỉa (vì ghiền hoặc vì kẽ hở giữa
răng đã rộng ra mất rồi!). Đành rằng xỉa
răng vì nhu cầu vệ sinh, nhưng nhiều người
sau khi xỉa xong đồ dơ trên răng rồi lại bắt
đầu nhai cây tăm - chính cái nhai ấy mới là
hành động thừa gây nghiện. Người ta có thể
ngồi xe máy mà cây tăm vẫn còn máng ở một
bên mép; có thể vừa nói chuyện vừa gặm
tăm..." (Phân tâm học Freud: "Miễn vui là
được rồi!", Doanh nhân Sài Gòn cuối tuần,
số 168/2010). Anh Tây này tự hỏi không biết
Freud sống lại ở Việt Nam thì ngành phân tâm
học của ông ta sẽ ra sao.
Thực ra, nhìn bệnh nghiện ngậm tăm dưới ánh
sáng phân tâm học cũng có nhiều điều thú vị.
Freud cho rằng, có bốn giai đoạn phát triển
cơ bản về tâm lý tiền sinh dục với một đứa
trẻ: giai đoạn miệng (oral stage), giai đoạn
hậu môn (anal stage), giai đoạn cơ quan sinh
dục (phallic stage) và sau đó bước sang thời
kỳ phát triển ngấm ngầm (latency period).
Đáng chú ý, ở giai đoạn miệng, đứa trẻ sơ
sinh tìm thấy khoái cảm, cảm nhận tình yêu
trong việc bú sữa. Trong giai đoạn này, theo
Freud, nếu đứa trẻ dễ được mẹ đáp ứng nhu
cầu dinh dưỡng qua việc bú mớm, thì nó sẽ có
một nhân cách dễ bị lệ thuộc ở tuổi trưởng
thành; ngược lại, nếu không được mẹ đáp ứng,
thiếu sự chăm sóc, thì ở tuổi trưởng thành,
nó sẽ trở nên chìm đắm trong bất an, lo
lắng, thất vọng. Đây gọi là tâm lý "cắm
chốt" (oral fixation) - những ẩn ức chuyển
hóa thành hành động vô thức có nguồn gốc từ
những kích động tâm lý ở giai đoạn lỗ miệng.
Như vậy, nếu lý giải theo thuyết này của cha
đẻ phân tâm học, thì sẽ thấy rằng, việc
ngậm tăm xuất phát từ truyền thống văn hóa
cưng chiều bảo bọc con cái trong thời bú mớm
của những bà mẹ Việt Nam đã vô tình "cài
đặt" một thói quen thỏa mãn khoái cảm vùng
miệng rất lạ lụng khi những đứa trẻ trưởng
thành, mà có khi chính chúng cũng không ý
thức rõ ràng về cái "đường dây dẫn dắt" thói
quen đó. Cũng có lý, khi mà nhiều gia đình
hôm nay xem việc một đứa trẻ tự bưng lấy
chén cơm ăn, tự dùng tăm xỉa răng sau bữa ăn
là một hành vi không cần bắt chước đơn
thuần, mà được coi là có khả năng tự chăm
sóc bản thân thay vì đeo đẳng đòi vú mẹ.
Tuy nhiên, điều lý thú là ở chỗ, thói quen
hay bệnh ghiền ngậm tăm của người Việt lại
đưa đến một hình ảnh mang tính ẩn dụ, biểu
lộ một thái độ sống, phương cách hành xử:
"ngậm tăm" cho qua chuyện. Ngâm tăm trong
trường ẩn dụ, được trang Xa lộ từ điển trên
mạng định nghĩa là: biết đấy nhưng phải lặng
im (To know it but forced to keep silence).
Làm sao để có thể giải mã điều này? Đến lúc
cần phải dông dài viện dẫn đến lịch sử văn
hóa người Việt, một lịch sử đối diện với quá
nhiều bất trắc, khó khăn triền miên. Trong
đời sống được đan cài đa tuyến, phức tạp đó,
việc con người, từ dân đen đến kẻ quyền lực,
hình thành cái phản xạ sinh tồn là nương tựa
làng nước, tập thể đồng thời cũng luôn trong
tình trạng thường trực đề phòng. Sự "ngậm
tăm" kia cũng đến từ việc thiếu sự bình
đẳng, sự minh bạch. Nhưng điều đáng nói, từ
những nguyên nhân khách quan trên, "ngậm
tăm" đi vào vô thức cộng đồng, nó trở thành
một tập tính, quy định phương thức hành xử,
lựa chọn thái độ sống tự thân của từng thành
viên xã hội.
Ở đây, có một khía cạnh khác, đáng nói, đó
là "ngậm tăm" không những lặng im che giấu
cái biết, sự thật để cầu an, mà đôi khi,
việc "ngậm tăm" cố tình làm cho tiếng nói
của mình bị méo mó, đánh lạc hướng, làm
nhiễu sự thật còn là một tình trạng đáng sợ
hơn.
Từ cái nguyên lý "oral fixation" có thể thấy
rộng ra, sự thích được dựa dẫm, bảo hộ, mất
tự chủ, thiếu vắng ý thức trả giá cho ngôn
luận cá nhân, không khí nghi kị lẫn nhau đã
làm cho hiện tượng tính cách "ngậm tăm"
trong cộng đồng có xu hướng phổ biến. (Gần
đây, trên Facebook, xuất hiện một hội nhóm
giễu nhại, có tên "hội những người thích
ngậm tăm" với slogan "Đơn giản là thích ngậm
tăm! Ngậm tăm mọi lúc mọi nơi!’. Những cá
nhân nương náu vào tập thể, đam đông để "ai
sao mình vậy", dễ dàng xuê xoa nhắm mắt làm
ngơ cho qua mọi thứ theo tinh thần "im miệng
cho nó lành" đã đưa đến tình trạng "ngậm
tăm" như một sự thỏa hiệp, cam chịu. Trong
lớp học, trên giảng đường, học sinh, sinh
viên không buồn trao đổi, đặt câu hỏi, phản
biện để truy cầu đến cùng những hiểu biết;
trò phải nương theo thầy để được "qua
truông". Trong cơ quan, lính thấy cái sai
của sếp, sếp biết thói hư của lính nhưng lại
"ngậm tăm" bao che, bắt tay nhau trong một
"liên minh ma quỷ", bảo toàn sức mạnh chống
cự trước các bè phái khác ngừng đấu đá.
Ngoài xã hội, người ta dễ dàng lảng tránh
trách nhiệm chứng nhân cho lẽ phải, sự thật
để được yên thân với ý nghĩ, đó không phải
là việc của mình. Trong gia đình, mọi thứ
tuân thủ theo một thứ bậc truyền thống trên
bảo dưới nghe, thiếu sự dân chủ cần thiết để
các thành viên tôn trọng lẫn nhau với tư
cách những cá nhân bình đẳng.
"Ngậm tăm" còn là sự dung túng, che đậy cho
cái xấu, cái ác, cái phản tiến bộ và chống
lại sự minh bạch cần thiết trong các mối
quan hệ, tổ chức quản lý xã hội, làm cho đời
sống được vận hành trong sự nhập nhèm, nhiều
bất trắc, đầy ma mị và nghi hoặc.
Im lặng là vàng. Nhưng im lặng theo lối
"ngậm tăm" cũng là thứ vàng giả, gây nhiễu,
đánh lận mọi giá trị. Khi mà việc "thực hành
ngậm tăm" trở thành một chứng nghiện được
"nâng quan diểm" thành một tính cách văn hóa
của cộng đồng thì tiếng nói đúng đắn, sự
thật tiến bộ là những thứ bị vùi lấp không
thương xót.
"Ngậm tăm" được xem là cách đánh đổi và hy
sinh cái biết, có khi cả lương tâm liêm
khiết để chỉ được tồn tại trong một đám đông
ràng buộc theo nguyên tắc thỏa hiệp đề huề
tự phát. Ở đó, mỗi người tìm đến sự an toàn
tính thế, để rồi có thể là nạn nhân của
chính mình lúc nào chắng hay.
Cuối cùng là một chút hài hước về mặt thẩm
mỹ khi trở về nghĩa đen trong câu chuyện.
Hãy nhìn cô gái trẻ xinh tươi mang trên
miệng một chiếc tăm tre tẩm hương quế đang
tự tin cưỡi chiếc Vespa lướt trên phố. Bạn
say đắm chiêm ngưỡng và tự hỏi, điều gì đang
xảy ra trong vô thức của nàng?
Làn môi gợi cảm ấy đang che giấu điều gì khi
mũi nhọn của que tăm vun vút lao về phía
trước, ẩn tàng biết bao hiểm nguy trong một
buổi trưa lãng mạn chết đi được!
Nếu được sống lại ở đây, hẳn ông Freud sẽ
phải viết thêm vài chương sách thật lý thú
và không quá khó hiểu, đại khái về phân tâm
học và tính cách người Việt Nam thông qua
chứng nghiện... "ngậm tăm".
Nguyễn Vĩnh
Nguyên/Thời báo Kinh tế Sài Gòn
|