TP - Một ngày đầu xuân về thăm ngôi nhà của Nguyễn Khuyến mà nay đã
trở thành di tích lịch sử văn hoá Quốc gia ở làng Vị Hạ, xã Trung
Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Năm tháng trôi qua, nơi ra đời
ba bài thơ Thu bất hủ không chỉ giữ được vẻ đẹp hương đồng cỏ nội mà
còn nhiều chuyện lạ...
 |
Nhà Nguyễn Khuyến. |
“Giải mã” vườn Bùi
Khu vườn trở nên xanh mướt khi bén hơi xuân. Ông Nguyễn Thanh Tùng
hậu duệ đời thứ 5 của nhà thơ Nguyễn Khuyến, dẫn tôi thăm vườn. “Vườn
Bùi chốn cũ; Bốn mươi năm lại lụ khụ về đây”, Nguyễn Khuyến đã
viết như vậy vào năm 1884 khi vừa tròn 50 tuổi, cáo bệnh, trả chức
quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), về
với mảnh đất cha ông sống cuộc đời thanh bạch, vui thú điền viên.
Vì sao lại gọi là vườn Bùi? Ít ai để ý giữa những cây lưu niên nhãn
na, vú sữa, ngâu, bưởi cùng cúc, đào, hồng, lan, có một cây vối già
khẳng khiu nép ở góc vườn. Bậc túc nho Nguyễn Khuyễn vẫn thường uống
thứ nước dân dã này.
Nhưng còn một lý do sâu xa hơn thế. Quê gốc ở Treo Vọt, Can Lộc, Hà
Tĩnh di cư ra Yên Đổ cho đến đời Nguyễn Khuyến thì được trăm năm.
Người xứ Nghệ gọi cây vối là cây Bùi. Danh xưng vườn Bùi để con cháu
không quên quê cũ.
Cổng vào nhà Nguyễn Khuyến rêu phong, cổ kính, ở trên có ba chữ nho
“Môn Tử Môn”. Ông Tùng thuyết minh: “ Môn Tử môn” có nghĩa là cửa ra
vào của học trò. Đây là một lời răn dạy nghiêm khắc về đạo làm trò.
Trước khi vào nhà thầy cho dù là quan lớn hay thứ dân đều phải đúng
lễ nghĩa, xuống ngựa, xuống xe đi bộ vào viếng thầy.
 |
Ông Nguyễn Thanh Tùng - hậu duệ Nguyễn
Khuyến.
|
Cả đôi câu đối này nữa - ông Tùng chỉ tay vào cổng: “Kỳ duyên
dong duy kỳ đồ ly từ/ Thiểu cáo đại khả dĩ dung tư cái” (Vào
luyện đức, luyện tài để giúp dân giúp nước, sau đỗ đạt mang võng
lọng mời thầy ra).
Vào cửa “Môn Tử Môn”, trước mặt tôi là ngôi từ đường được xây theo
phong cách kiến trúc truyền thống, nhưng vẫn có nét “phá cách” đầy
thâm ý. Ông Nguyễn Thanh Tùng cười bảo: “Cách xây ngôi nhà này:
ngoài là đại tế, trong là hậu cung. Chỉ những người được sắc phong
thần thì mới được xây như thế này.
Nhà cụ có lưỡng long chầu nguyệt, có 9 bậc. Thường thì người ta để
hình lưỡng long chầu nguyệt trên nóc nhà nhưng riêng cụ lại để dưới
đất. Cụ giải thích với giới chức sắc là làm như vậy để tránh nắng
hướng đông và hướng tây nhưng thực ra thì “thâm ý” của cụ là vua nhà
Nguyễn bán nước nên không cho cưỡi lên đầu (rồng), chỉ chầu đằng
trước nhà thôi.
Đi sâu vào từ đường, gặp những nghiên bút, sắc phong, câu đối gợi
lên những lấp lánh khoa bảng một thời. Đó là tấm biển “Ân tứ vinh
quy”, “Nhị giáp tiến sĩ” do vua Tự Đức ban cho Tam Nguyên Yên Đổ.
Hậu cung vẫn còn lưu bộ triều phục của quan ngự sử Nguyễn Khuyến. Có
bức tượng tạc hình Tam Nguyên Yên Đổ chống gậy trúc, khoan thai nhìn
trời xanh. Cây gậy ấy là quà tặng của con trai Nguyễn Khuyến là
Nguyễn Hoan sau một lần trảy kinh ứng thí.
Chuyện rằng, trên đường về qua mạn Thanh Hóa, Nguyễn Hoan đang mải
mốt về quê sau cả tháng trời lều chõng, ngang đường, có một cụ già
bước đến, bảo: “Nhìn ông, tôi biết ông có cha già. Xin tặng ông cây
gậy này để dâng cha!”.
Ngôi từ đường còn giữ lại được như ngày nay là cả một kỳ tích. Năm
1947, cụ thân sinh của ông Nguyễn Thanh Tùng (hậu duệ đời thứ tư của
cụ Nguyễn Khuyến) làm Tham mưu trưởng Tỉnh đội Nam Hà. Giặc Pháp
biết hậu duệ cụ Nguyễn tham gia cách mạng, tìm cách rót bom xuống
bắn phá. May thay, tay đồn trưởng bốt Cầu Sắt đã cấm lính của mình
“không sờ vào hiện vật”.
Tay đồn trưởng nguyên văn thế này: “Đây là đền thờ một vị thánh nho,
một danh nhân, muốn sống không được đụng đến!”. Nhờ thế, dưới nền
nhà, du kích đào một cái hầm bí mật để hoạt động.
Vào những năm 1950, tao đoạn loạn lạc, kẻ trộm vào lấy trộm đôi rồng
nạm ngọc trong ngôi từ đường. Tên trộm chẳng bán được cho ai. Đến
khi sắp chết, người này mới bảo con cháu, lấy kỷ vật ấy để trả lại
cho con cháu cụ Nguyễn.
Lại chuyện khác, cách đây mươi năm, có bà cụ 90 tuổi sai con cháu
cáng đến tận vườn Bùi, đòi gặp ông Tùng cho bằng được. Bà đến mang
trả một mẩu gỗ, nguyên là một câu đối của cụ Nguyễn Khuyến. Bà cụ
đến xá tội vì đã trót dại lấy câu đối của cụ… đóng giường cưới cho
con trai, cũng bởi cái thời kỳ gỗ lạt hiếm như gạo châu, củi quế.
Ông Tùng nhận mẩu gỗ, cất giữ trong số những kỷ vật hiếm hoi còn sót
lại.
“Nhân vật” chính của chùm thơ thu
Bước ra khỏi ngôi từ đường, trước mặt tôi là “ngõ trúc quanh co” và
“ao thu lạnh lẽo, nước trong veo”. Cái ao đặc trưng của vùng đồng
quê chiêm trũng, nước trong leo lẻo, quả ổi vàng ruộm bên bờ rụng
xuống, làm tan vỡ cả một mảnh mây trời. “Nhân vật” chính trong chùm
thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng trải qua nhiều bước thăng trầm.
 |
Ao thu lạnh lẽo. |
Trước, ao rộng mênh mông, chạy đến tận mép con mương bao quanh làng. Ấy
vậy nên Nguyễn Khuyến đã viết: “Trước ngõ hơn chừng một mẫu ao; Cá
không phải thả vẫn dồi dào; Người giàu làm chủ lời hàng vạn; Kẻ khó mua
về kiếm được bao; Gạo đắt khôn xoay lo đủ bữa; Nước sâu lại gặp cảnh mưa
rào; Giàu nghèo ai biết nào do số; Đừng oán sầu chi, gắng sức vào”.
Vào thập kỷ 1960, hợp tác xã trưng dụng mẫu ao này, rồi kè bờ, đắp
mảng, chia nhỏ thành dăm ba miếng. Hơn chục năm lại đây, từ khi từ
đường Nguyễn Khuyến được nhà nước xếp bằng Di tích lịch sử Quốc gia,
chiếc ao không còn rộng như xưa nữa, chỉ còn 6 sào, nhưng được bè bờ
vuông vắn. Học sinh cấp III trường huyện đến trồng tre trúc quanh
ao. Tre trúc đan cành đâm lá, tạo thành một khoảng xanh rì, ngăn với
cánh đồng trước mặt, sớm trưa chiều tối tiếng chim hót rộn cả góc
vườn.
Cái ao nằm trong tính toán phong thủy của Tam Nguyên Yên Đổ. Nguyễn
Khuyến mệnh Hỏa nên trấn trạch hai thủy một hỏa để cân bằng âm
dương. Hai thủy gồm cái ao lớn có bờ cỏ thẳng ngăn ở giữa rồi đến
cái lạch nước trong. Cái ao và lạch giống hình bút lông và nghiên
mực của các nhà nho.
Giờ đây, bên cạnh ao, lặng lẽ hiện lên chiếc chiếc bia hình bát giác
khắc bài thơ “Thu Điếu” bằng ba thứ tiếng: chữ Nôm, chữ quốc ngữ và
tiếng Anh. Các nhà kiến trúc Thụy Điển vượt qua những rào cản ngôn
ngữ, đã yêu bài thơ đến mức thiết kế nhà 8 mái để làm sao từ “10 đến
12 giờ ánh nắng phải soi chiếu toàn bộ bài thơ thì mới xứng”.
Kỳ Thanh
http://www.tienphong.vn/Van-Hoa/525278/Nhung-chuyen-la-o-vuon-nha-Nguyen-Khuyen.html
|