|
Trống đồng Việt Nam |
||
. |
|||
I) Trống đồng Việt Nam phân bố ở nhiều nơi Trên đất nước ta, từ Sơn La, Lai Châu, Cao Bằng, Lạng Sơn... đến Thanh Hóa, Nghệ An, Đồng Nai, Sông Bé, Khánh Hòa, Vũng Tàu... vào tận vùng hải đảo xa xôi Phú Quốc. Ngoài ra, bằng con đường giao lưu văn hóa hoặc trao đổi, trống đồng Việt Nam vượt biên giới đến những nước lân cận trong khu vực Đông Nam Á như Indonesia, Thailand, Malaysia... Trống đồng Việt Nam có nhiều loại hình, nhưng tất cả khởi nguồn từ trống Đông Sơn mà đỉnh cao là sự hoàn thiện kỹ thuật chế tạo là trống đồng Ngọc Lũ.
Trống đồng Việt Nam có niên đại khởi đầu khoảng thiên niên kỷ I trước Công nguyên cho
đến một vài thế kỷ sau công nguyên. Nó
là sản phẩm đầy trí tuệ của người
Việt cổ, cộng đồng cư dân đã
chinh phục vùng đồng bằng sông Hồng, sông
Mã, một vùng đất chứa nhiều sản
vật thiên nhiên nhưng cũng đầy thử thách.
Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc
nghiệt của thiên nhiên bằng sự dũng
cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có đã
tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau
bản địa, nền văn hóa đồng thau vào
loại bậc nhất Đông Nam Á. Tìm thấy ở chùa Ngọc Lũ (Hà Nam) vào năm 1901. Trống này cao 0,63 mét (1.8 ft), đường kính mặt trống 0,86 mét (2.5 ft), được trang trí bằng các hình chạm sâu xuống cả trên mặt trống lẫn tang trống. Chính giữa mặt trống là một hình ngôi sao (hay mặt trời) 14 cánh. Chung quanh ngôi sao này là 16 vòng tròn đồng tâm có trang trí bằng nhiều hình kỷ hà hay hình vẽ khác nhau. Giữa vòng thứ 5 và thứ 6 có khắc hình 2 căn nhà mái cong, có sàn, trong có người tóc dài ngồi. Trước nhà là 4 dàn trống và đoàn vũ nhạc nhảy múa, thổi khèn. Sau nhà có 2 người đang giã gạo. Xen kẽ với 2 nhà sàn trên là 2 nhà sàn mái tròn trong có người cầm kiếm. Trước nhà này có một người tay phải cầm kiếm, tay trái cầm một con chim. Sau nhà là một đoàn võsĩ cầm lao, cầm kiếm đang múa. Giữa vòng thứ 7 và thứ 8 có chạm hình 2 đàn hươu (10 con mỗi đàn) và xen kẽ với 2 đàn chim đang bay (mỗi đàn 8 con). Giữa vòng thứ 8 và thứ 9 có khắc 18 con chim mỏ dài đang bay, xen kẽ với 18 con chim đang đậu dưới đất. Trên tang trống, phần phình ra có khắc hình thuyền trên có những người cầm lao, kiếm, cung, đang chuẩn bị chiến đấu, hoặc đang nhảy múa hoặc chèo thuyền. Trên phần thẳng đứng có những đường trang trí kỷ hà thẳng đứng hay nằm ngang đóng khung lấy những hình người cầm rìu và lá chắn.
II)
Tìm thấy ở Mường Dâu,
Hòa Bình. Trống này được gọi là
trống Moulié (tên người mua được và
tặng lại cho Viện Bảo Tàng). Trống này
được tàng trữ trong Bảo Tàng Quân Đội
Pháp, rồi được chuyển cho Bảo Tàng
Viện Guimet (Paris). Tìm thấy ở làng Hoàng Hạ
(Hà Đông), cao 0,615 mét (1.84 ft) và đường kính
mặt trống là 0,78 mét (2.3 ft). Mặt trống
đồng Hoàng Hạ cũng trang trí bằng các vòng
tròn đồng tâm trong đó có khắc hình nhà sàn,
người, chim bay. Tang trống chỗ phình ra cũng
khắc hình thuyền. Các nhân vật trên thuyền tương
tự như ở trống Ngọc Lũ, nhưng
thứ tự bố trí hơi thay đổi một
chút. Các trống đồng tìm thấy ở Hoa Nam,
Lào, Cam bốt, Mã Lai tuy về hình thức (hình dáng
và trang trí) có giống trống đồng Lạc
Việt, nhưng những nét chạm trổ còn thô sơ
vô cùng. Có thể đấy chỉ là những
trống bắt chước trống Lạc Việt
một cách vụng về mà thôi. Trống đồng
Hoàng Hạ là một di vật rất quý. Loại I thường lớn, thân trống hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới để trống, mặt trên có hình sao đúc nổi với 12 cánh. Trên một số trống, chỉ có 8 cánh sao, như trống Quảng Xương. Hoặc 14 cánh như trống Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm. Hoặc 16 cánh như trống Hoàng Hạ, Salayar. Loại I này tìm được nhiều nhất ở Việt Nam, tiêu biểu nhất là trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, và Sông Đà. Loại II thân trống chỉ có 2 phần, không có hình người hay vật nữa, thay vào đó toàn là hoa văn hình học. Trên mặt trống thường có hình khối 4 con cóc, đôi khi 6 con. Mặt trời có 8 tia. Loại này tìm thấy nhiều ở Việt Nam cũng như mạn Nam Trung Hoa. Loại III quai nhỏ đẹp. Mặt trời có 12 cánh. 4 góc mặt có cóc, thường là 3 con chồng lên nhau thành 12. Trang trí toàn bằng đồ án hình học và hoa văn. Dưới chân có đoàn voi đúc nổi đi chung quanh cây "đời sống". Đôi khi ốc thay voi. Người ta tìm thấy loại này ở Miên. Loại IV riêng của Tầu như được chứng tỏ bằng hồi văn gẫy khúc. Kích thước thường nhỏ, không có cóc. Ngôi sao bao giờ cũng 12 tia, nhiều khi nói rõtên 12 con vật địa chi. Loại này cũng như loại III, đều xuất hiện muộn, nhưng chưa xác định được niên đại. Ngoài 4 loại trên có thể kể thêm loại trống Trấn Ninh (Vân Nam) mới tìm được hồi năm 1955, trên mặt có những khối hình người và thú (bò, ngựa, chó) diễn lại những cảnh sống: săn, chiến, lễ... Loại này khác hẳn ở chỗ thân trống cao, trên mặt thêm nhà cùng hình khối, quai là 2 con hổ.
|
|||