Các cuộc khởi nghĩa của hai bà
Trưng, bà Triệu, Lư Bôn, Triệu Quang Phục,
Mai Hắc Đế, Phùng Hưng, Khúc Thừa
Dụ, Khúc Hạo, Dương Đ́nh Nghệ và
cuối cùng, năm 939 Ngô Quyền đă oanh
liệt chiến thắng quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng, chấm dứt giai đoạn
lệ thuộc phương Bắc dài một ngàn
năm, đưa nước nhà sang thời
tự chủ ngàn năm thứ hả Từ đó,
nước ta trở thành một quốc gia độc
lập, trung ương tập quyền, theo quan
niệm ngày nay. Thế nhưng nền độc
lập quư báu của dân Việt có bao giờ
được bọn bá quyền phương
bắc tôn trọng. Trên thực tế, bất
cứ khi nào một triều đại mới lên
ở bên Tàu, khi vừa củng cố xong
quyền hành, chúng liền nghĩ ngay tới
việc xâm lăng nước ta.
Thế cho nên lịch sử nước nhà
mới c̣n ghi đậm nét những chiến công
vệ quốc hiển hách của các anh hùng dân
tộc, như vua Lê Đại Hành chiến thắng
quân nhà Tống, Lư Thường Kiệt c̣n đánh
cả sang đất nhà Tống, 10 năm trường
kỳ kháng chiến giặc Minh của vua Lê
Lợi và anh hùng Nguyễn Trăi, chiến dịch hành
quân tốc chiến tốc thắng thần
sầu quỷ khốc của vua Quang Trung
Nguyễn Huệ năm 1789 đă đánh bật
20 vạn quân nhà Thanh ra khỏi bờ cơi.
I
) Đoàn quân Mông Cổ
Thời Trung cổ, nước Mông Cổ, xét
về dân số, chỉ là một nước
nhỏ, nhưng họ đă làm rung chuyển
thế giới
thời đó v́ họ có những thủ lănh
xuất chúng với một đạo kị binh
thiện chiến giỏi cỡi ngựa, giỏi
cung tên và vô cùng tàn ác, " nơi nào ngựa
Mông Cổ đi qua, cây cỏ cũng hết
sống ".
Thành
Cát Tư hăn
Băo táp bắt đầu nổi lên cùng với
sự xuất hiện của Thiết Mộc Chân
(Temujin 1162-1227), sau này lấy danh hiệu là Thành
Cát Tư Hăn, tức Genghis Khan. Vừa
nắm được quyền hành, Thành Cát Tư
Hăn đă khởi sự chiến tranh, theo đuổi
mộng bá chủ:
- 1205-1209: chinh phục nước
Tây Hạ (Hsi-Hsia), tức vùng đất Tây
Thục sau nàỵ
- 1211-1215: chinh phục nước
Kim (Chin), vượt Vạn Lư Trường Thành,
chiếm thủ đô Bắc Kinh của người
Kim. Sau
này, nước Kim sát nhập vào nước
Tầụ
- 1218-1219: chinh phục
đế quốc Ba Tư (thời đó là
Khwarezmian empire của Mohammed Shah), gồm đất
Ba Tư,
Khorassan, Transoxonia, Samarkand và Afghanistan.
- 1222: Tuân lệnh
của Thành Cát Tư Hăn quân Mông tiến sang Âu
châu, chiếm toàn vùng Caucasus, vượt sông Don,
tràn vào Crimea rồi Ukraine, hạ trại bên
bờ sông Dnieper. Ông hoàng thành Kiev đưa 80 ngàn
quân đánh quân Mông, nhưng đă bị Subotai và
danh tướng Chepe nghiền nát. Năm 1224 danh tướng
Chepe bị bệnh chết, Subotai triệt thoái trên
con đường dài 4000 dặm để
bắt tay với đoàn quân trung ương.
- 1226: Thành Cát Tư Hăn
chọn con trai là Ogedei
làm người nối nghiệp, rồi
chuẩn bị đưa 180 ngàn quân đi
trừng
phạt quân Hạ và Kim là hai nước đă
bị quân Mông Cổ đánh bại, nay liên
kết với nhau chống lại quân Mông Cổ.
- 1227: Thành Cát Tư Hăn
chết. Ogedei
đại hăn và Kuyuk đại hăn Ogedei
và con là Kuyuk tiếp tục mộng bá
chủ của cha.
- 1231: Xâm lăng Cao Ly
(Korea).
- 1235-1239: Con Ogedei Khan
là Godan đánh chiếm Tây Tạng.
- 1237-1238: Subotai xua 150 ngàn
quân trở lại Âu châu, gieo tàn phá, chết chóc
khắp vùng phía Bắc nước Nga .
- 1240: Chiếm Kiev,
rồi Lithuania và Ba lan.
- Tháng 4, 1240: Subotai
hạ thành Pest, tiêu diệt đạo quân
của vua Bela IV nước Hung.
- Tháng 9, 1240: Đánh tan liên
minh quân Đức, Ba lan, và ḍng tu Hiệp sĩ Đức
(Teutonic Knights). Thủ lănh của liên
minh là hoàng tử xứ Silesia bị giết cùng
với hầu hết hiệp sĩ của ông.
- Cuối năm 1241, quân
Mông tiến vào nước Ư, vượt qua thành
Venice và Treviso, đồng thời ngược lên
sông Danube, áp sát thành Vienne Giữa lúc ấy, Ogedei
chết. Theo luật, các anh em của vị đại
hăn quá cố phải trở về Mông Cổ
để bầu chọn vị đại hăn
mớị. Nhờ thế mà Âu châu thoát
được họa diệt vong. Vậy mà trên
đường triệt thoái, quân Mông Cổ c̣n
đủ th́ giờ để làm cỏ hai nước
Bulgaria và Serbia.
- Năm 1246, con của
Ogatai là Kuyuk được chọn làm đại
hăn. Dưới thời ông, Đức giáo chủ
Innocent IV gửi đặc phái viên là thầy John
di Piano Carpini, ḍng Phanxicô, tới các thủ lănh Mông
Cổ để t́m hiểu ư đồ của
họ ở Âu
châu. Mới nắm quyền được ít lâu,
c̣n đang lưỡng lự nên trở lại
chinh phục Âu châu trước hay tiến
xuống phía Nam để chiếm trọn nước
Trung hoa trước, th́ Kuyukchết vào năm 1248.
Mangu, tức Mông Kha đại hăn và em là Kublai,
tức Hôt Tât Liệt đại hăn
- 1251: Một người
cháu nội khác của Thành Cát Tư Hăn là Mangu
(c̣n viết là Mengke, ta gọi là Mông Kha) lên ngôi
đại hăn. Mông Kha quyết định thôn tính
Á châu, đặc biệt là nước Trung Hoa trước.
Nước Trung Hoa thời đó chia làm Bắc
Tống và Nam Tống. Mông Kha nắm quyền
thống soái nhưng lại giao trọng trách cho
người em kiệt xuất đó là Hốt
Tất Liệt (Kublai).
- Mông Kha sai một người em khác là Hulagu
trở lại thôn tính Ba Tư bao trùm khắp
miền Đông Nam Á châụ Đồng thời
khuyến khích người em họ là Batu
khống chế khắp vùng Đông Âu, toả lên Ba
lan, Lithuania và Esthonia, rồi xuống Serbia và
Bulgaria một lần nữa.
- 1252-1253: Hốt Tất Liệt chinh phục Vân
Nam, từ đó phái một đạo quân mở
cuộc xâm lăng bờ cơi nước ta lần
thứ nhất vào năm 1257.
- 1259: Mông Kha chết, Hốt Tất Liệt
(Kublai) lên ngôi đại hăn vào năm 1260. Lúc
ấy đế quốc Mông Cổ trải
rộng từ toàn vùng Hoa Bắc sang vùng Tiểu
Á, từ vùng thủ đô Moscow của nước
Nga xuống biển Đen, xuống Baghdad (Iraq) và Iran
ngày naỵ
- Nhận được tin Mông Kha chết, người
em là Mangu đang chiếm đóng vùng Mesopotamia và
Syria phải về Mông Cổ để bầu
đại hăn mới. Trong khi ông vắng mặt
th́, năm 1260, đạo quân của ông đă
bị tướng Baibars (thuộc triều đại
Mameluk cai trị Ai Cập và Syria) đánh bại
trong trận Aint Jalut, gần thành Nazareth. Chiến
công của Baibars có ư nghĩa hết sức quan
trọng. Chứng minh đoàn quân bách chiến bách
thắng Mông cổ suốt 70 năm không phải
là không thể đánh bại,dấu hiệu suy
thoái đă biểu hiện và toàn Âu châu sẽ
thoát nạn Mông Cổ.
- 1268-1279: Hốt Tất Liệt không nuôi ư chí
chinh phục thế giới như các đại hăn
tiền nhiệm, ông dốc hết khả
năng để chinh phục toàn cơi Trung Hoa trong
một chiến dịch dài ngót mười năm.
Năm 1263, ông rời kinh đô từ
Karakorum về Bắc Kinh. Trong trận hải
chiến cuối cùng vào năm 1279 tại vịnh
Quảng Đông, Hốt Tất Liệt đă đánh
bại nhà Nam Tống. Thừa tướng nhà
Tống là Lục Tú Phu phải cơng vua nhảy
xuống biển để cùng tử tiết,
từ đó Hốt Tất Liệt cai trị toàn
cơi Trung Hoa, xưng là hoàng đế, lập ra nhà
Nguyên (Yuan Dynasty). Từ đây ta gọi họ là
quân Nguyên Mông.
-Ḍm ngó Nhật Bản:
Hai lần vào các năm 1274 và 1281 quân. Nguyên Mông
sang đánh nước Nhật. Nhưng "
nhờ Trời ", cả hai lần chiến
thuyền của quân Nguyên Mông đều bị băo
táp đánh ch́m vô số, phải quay về.
- 1292-1293: Với tay xuống măi đảo Java (Nam
Dương), nhưng không ở lại được.
- Đặc biệt nhất là ba
lần quân Nguyên Mông xâm phạm bờ cơi nước
ta vào các năm 1257,1284 và 1287. Cả ba lần xâm
lăng đều chuốc lấy thảm bại.
II)
Ba lần đại phá quân Nguyên Mông
Quân Nguyên Mông hai lần đánh sang Nhật,
cả hai lần đều bị băo táp cản
trở. Trời đă cứu nước Nhật
thoát nạn Nguyên Mông. Trường hợp nước
ta không được may mắn như thế,
bởi ta liền sông liền núi với Bắc phương,
thuận lợi bội phần cho kẻ xâm lược.
A-
Chiến thắng lần thứ nhất
Năm 1257, Hốt Tất Liệt chinh phục xong
vùng Vân Nam, đă sai sứ giả sang ra lệnh
cho vua nước ta phải thần phục.Vua
Trần Thái Tông chẳng những đă không
thần phục lại c̣n bắt giam sứ
giả, rồi lệnh cho tướng trẻ
Trần Quốc
Tuấn đưa quân lên trấn thủ phía
Bắc. Hốt Tất Liệt liền sai tướng
Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai), từ Vân
Nam, đem quân đánh xuống nước ta. Khí
thế của giặc quá mạnh, Trần
Quốc Tuấn lui về Sơn Tâỵ Vua Thái Tông
thân chinh, cũng địch không nổi, phải
di tản chiến thuật để bảo toàn
lực lượng. Quân Mông Cổ thừa
thắng tiến thẳng xuống tới Đông
Bộ Đầu (huyện Thượng Phúc, phía Đông
sông Nhị). Bà Linh Từ quốc mẫu, phu nhân
của Thái sư Trần Thủ Độ đă
chỉ huy toàn thể triều đ́nh rút lui thành
công về vùng Thiên Mạc (huyện Đông An, Hưng
Yên).
Địch vào thành Thăng Long, thấy ba sứ
giả của họ c̣n bị giam, mà một người
đă chết, Ngột Lương Hợp Thai
nổi
giận, cho quân Mông Cổ mặc sức cướp
phá, giết người, bất kể già trẻ
lớn bé Trong t́nh thế đen tối
ấy, vua ḍ ư quan Thái Uư Trần Nhật
Hiệu, ông này muốn đầu hàng. Nhưng
khi hỏi quan Thái sư Trần
Thủ Độ th́ ông khảng khái thưa:
"Đầu tôi chưa rơi
xuống đất xin bệ hạ đừng lo"
. Thái độ cương quyết của quan Thái
sư đă làm cho vua an tâm. Thời gian là
đồng minh tốt của quân tạ Quân Mông
Cổ chiếm đóng càng lâu càng gặp
nhiều khó khăn và để lộ nhiều sơ
họ. Cho tới khi thời cơ chín mùi, vua Thái
Tông ra lệnh tổng phản công quân địch
ở Đông Bộ Đầụ. Địch thua
dần, cuối cùng phải rút về Vân Nam.
Trong chiến thắng quân Mông Cổ lần
thứ nhất, tướng Trần Quôc Tuấn,
lúc ấy mới 29 tuổi, đă góp công lớn
trong nhiệm vụ là tướng của đội
quân tiên phong.
B-
Chiến thắng lần thứ hai
Trận thắng lần đầu năm 1257 là ta
thắng quân Mông Cổ, v́ lúc ấy Hốt
Tất Liệt tuy đă chiếm được Vân
Nam, nhưng măi tới năm 1279 mới dứt
điểm được nhà Nam. Tống lập
ra nhà Nguyên, cho nên lần thứ hai và thứ ba là
ta thắng quân Nguyên Mông.
Sau khi đă an vị, Nguyên Thế Tổ, tức
Hốt Tất Liệt, liền sai Lễ bộ thượng
thư Sài Thung sang nước ta, bắt vua ta sang
chầu và nộp cống phẩm. Vua Trần Nhân
Tông không chịu, cho chú họ là Trần Di Ái
đi thay ḿnh. Nguyên
Thế Tổ phật ư, phong cho Trần Di Ái làm
An Nam quốc vương, và sai Sài Thung đưa
Di Ái về nước. Hay tin, vua Trần Nhân Tông
sai tướng lên chặn đánh, bắn mù
mắt Sài Thung và bắt sống lũ phản
bội Trần Di Áịi. Thấy sứ
giả bị bắn mù mắt chạy về, Nguyên
Thế Tổ nổi giận, liền phong cho con là
Thoát Hoan làm Trấn Nam vương, cùng
bọn Toa Đô, Ô Mă Nhi, A Bát Xích,v.v., đem 50
vạn quân tiến vào nước ta, lấy
cớ mượn đường sang đánh
Chiêm Thành! Đạo quân Thoát Hoan tiến vào qua ngă
Lạng Sơn, c̣n đạo quân Toa Đô đi
đường biển đánh ṿng
xuống Chiêm Thành.
Được cấp báo quân Nguyên Mông động
binh, vua Trần Nhân Tông phong cho Hưng đạo
vương Trần Quốc Tuấn làm Tiết
chế thống lănh toàn thể lực lượng
quân ta để chống giặc (1283), và
triệu tập các bô lăo khắp nơi về
điện Diên Hồng để hỏi ư
kiến nên hoà hay nên chiến. Tất cả các bô
lăo đồng thanh xin quyết chiến!
Ban đầu thế địch quá mạnh (1284).
Cánh quân Thoát Hoan thắng trận Ải Chi Lăng
(Lạng Sơn), trận Vạn Kiếp, rồi
đoạt thành Thăng Long. Thấy thế, nhà
vua lo âu cho sinh mạng của dân nên tỏ ư
muốn hàng, nhưng Hưng đạo vương
Trần Quốc Tuấn tâu: "Nếu
Bệ hạ muốn hàng, xin hăy chém đầu tôi
trước đă". Vương soạn
ra quyển Binh Thư Yếu Lược, rồi
truyền Hịch để khuyên răn các tướng
lănh.(Xem bài "Hịch Tướng Sĩ"
của Trần Hưng Đạo) Các tướng sĩ
nức ḷng, quyết chí đánh giặc, ai cũng
xâm vào tay hai chữ "Sát Đát" (giết quân
Mông Cổ). Đang khi đó, cánh quân do Toa Đô
chỉ huy, với sự trợ giúp của đạo
quân Ô Mă Nhi, lại đánh từ phía Nam, Thượng
tướng Trần Quang Khải không chặn
nổi sức tiến của địch, phải
rút lùi ra phía ngoàị Trấn thủ Nghệ
An là Trần Kiện ra hàng giặc. Tại
mặt trận Thiên trường ( khúc sông Thiên
Mạc, huyện Đông An, Hưng Yên), tướng
Trần B́nh Trọng của ta cũng thua,
bị giặc bắt. Chính Thoát Hoan chiêu dụ ông:"Có
muốn làm vương đất Bắc
không?". Ông quát lên:"Ta thà làm quỷ nước
Nam, c̣n hơn làm vương đất
Bắc". Không chiêu hàng nổi một
vị tướng can trường như thế,
Thoát Hoan ra lệnh chém đầu ông.
T́nh thế hết sức nguy cấp, quân địch
thắng khắp các mặt trận. Bọn hoàng
tộc như Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên
ra hàng Thoát Hoan. Giữa cơn sóng gió tứ
bề, nổi bật lên dáng đứng anh hùng
của Hưng đạo vương Trần
Quốc Tuấn, vị Tiết chế thống lănh.
Ngài vẫn bền ḷng chỉ huy cuộc kháng
chiến. Một mặt Ngài phụng giá đưa
vua vào Thanh Hóa, mặt khác Ngài b́nh tĩnh điều
binh khiển tướng quyết chiến
thắng quân thù.
1-
Chiến thắng đầu tiên:
Tại Hàm Tử Quan, tướng Trần Nhật
Duật đánh tan quân Toa Đô: Toa Đô chỉ
lấy được Nghệ An mà không tiến
ra phía ngoài thêm được v́ bị Thượng
tướng Trần Quang Khải án ngữ
vững chắc, nên mới cùng Ô Mă Nhi kéo quân
theo đường biển ra Bắc mong bắt
tay với Thoát Hoan. Được tin, Hưng đạo
vương tâu vua cử Chiêu văn vương
Trần Nhật Duật và các tướng
Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái đem quân
ra đón đánh quân Toa Đô tại bến Hàm
Tử (huyện Đông An, Hưng Yên). Toa Đô thua to,
phải lùi ra cửa Thiên Trường. Chiêu văn
vương Trần Nhật Duật là chú của
vua Nhân tông, có biệt tài ngoại giao và nói
được nhiều thứ tiếng.
2-
Chiến thắng Chương
Dương Độ (giữa năm 1285)
Vừa được tin tướng Trần
Nhật Duật Thắng trận đầu, Hưng
đạo vương tâu vua xin lợi dụng khí
thế, mở mặt trận tái chiếm kinh thành
Thăng Long. Thượng tướng Thái sư
Trần Quang Khải xin đánh trận nàỵ Thượng
tướng Trần Quang Khải cùng các tướng
Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lăo
đưa quân đi đường biển vào
tới bến Chương Dương th́ ra
lệnh tấn công chiến thuyền địch.
Quân ta dũng mănh, địch bị đánh tan.
Thừa thắng, quân ta truy kích địch
tới chân thành Thăng Long th́ đụng đại
binh của Thoát Hoan. Bị Thượng tướng
Trần Quang Khải dùng phục binh đánh úp,
Thoát Hoan bỏ kinh thành chạy qua sông
Hồng,chiếm giữ Kinh Bắc (Bắc Ninh).
Trần Quang Khải dâng biểu báo tin chiến
thắng và vào thành Thăng Long mở tiệc khao
quân. Thượng tướng Thái sư Chiêu minh
vương Trần Quang Khải cũng là chú
của vua Nhân tông.
3-
Chiến thắng Tây
Kết, tướng giặc Toa Đô tử trận:
Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường, cách xa
Thoát Hoan cả 200 cây số chưa bắt tay
đuợc với chủ tướng Thoát Hoan, nên
về đóng tại Tây Kết (Khoái Châu, Hưng
Yên). Hưng đạo vương tâu với vua
sai Thượng tướng Trần Quang Khải và
Chiêu văn vương Trần Nhật Duật ngăn
cản, không cho hai đạo quân Nguyên Mông liên
lạc được với nhau, rồi đích
thân Ngài đem quân ra đánh Toa Đô trước,
đánh Thoát Hoan sau. Tới nơi, quân của Ngài
tiến công mạnh mẽ, quân địch thua.
Toa Đô và Ô Mă Nhi lên bộ chạy ra bể, nhưng
Toa Đô bị trúng tên bắn chết, c̣n Ô Mă Nhi
lẻn xuống thuyền chạy thoát về
Tầu.
-
Chiến thắng
Vạn Kiếp (tháng sáu năm Ất dậu,1285):
Thời cơ đă tới giai đoạn
quyết định.Hưng đạo vương
sai các tướng Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lăo
đưa quân mai phục ở rừng sậy bên
bờ sông Vạn Kiếp, rồi sai hai con của
Đại vương là Hưng vơ vương
Nghiễn và Hưng hiếu vương Uư chặn
đường địch sẽ rút về châu Tư
Minh. Đích thân vương chỉ huy tấn công
bản doanh Thoát Hoan ở Bắc Giang. Bị quân
ta giáng cho những đ̣n sấm sét, quân địch
nao núng, Thoát Hoan dẫn đại binh rút
chạy, tới bến Vạn Kiếp, quân mai
phục của Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lăo
đổ ra đánh, tiêu diệt phân nửa
số quân địch, tướng địch là
Lư Hằng tử trận. Thoát Hoan phải chui vào
ống đồng để tránh tên bắn và
được các bộ tướng Phàn
Tiếp, A Bát Xích, Lư Quán cố sức đánh
mở đường thoát thân.
Tàn quân của địch chạy về gần
châu Tư Minh, bất thần bị phục binh
của Hưng vơ vương Nghiễn và Hưng
hiếu vương Úy đổ ra đánh. Tướng
giặc Lư Quán tử trận, Thoát Hoan và bọn
Phàn Tiếp, A Bát Xích thoát về Tầu
được. Thế là sau nửa năm xâm
lược nước ta, 50 vạn quân Nguyên Mông
đă bị quân ta quét sạch khỏi bờ cơi.
Chiến thắng vệ quốc lẫy lừng
ấy là nhờ ta có t́nh đoàn kết vua tôi
một ḷng quyết chiến quyết thắng,
nhờ vào tài điều binh khiển tướng
và ḷng trung quân ái quốc cao cả của Hưng
đạo vương Trần Quốc Tuấn.
B.
Chiến thắng lần thứ ba
Bọn Thoát Hoan chiến bại trở về,
khiến Nguyên Thế tổ Hốt Tất
Liệt nổi giận, ra lệnh chém đầu,
nhờ quần thần xin cho mới được
tha. Lúc ấy nhà Nguyên đang chuẩn bị xâm
lăng nước Nhật, nhưng v́ muốn
phục hận, nên đă đ́nh chỉ việc
đánh Nhật để dốc toàn lực vào
việc chuẩn bị trả thù.
Lần xâm lăng này, Thoát Hoan lại được
cử làm đại nguyên soái, có bọn A Bát Xích,
Áo Lỗ Xích, Ô Mă Nhi, Phàn Tiếp, v. v., làm
phụ tạ.
Mùa Xuân năm 1287, Thoát Hoan kéo 30 vạn quân tái xâm
lăng nước ta, viện cớ đưa tên
phản bội Trần Ích Tắc về làm An Nam
quốc vương. Bên ta, nhà vua lại
cử Hưng đạo vương thống lănh
toàn quân chống giặc. Vương bố trí các
tướng trấn đóng các yếu điểm
và chỉ thị các tướng áp dụng
chiến thuật: khi địch mạnh th́
tạm lui để bảo tồn lực lượng,
đợi khi thời cơ tới th́ xua quân
tốc chiến tốc thắng.
Quân Nguyên Mông tiến vào nước ta theo hai
ngả:
Thoát Hoan theo đường bộ, Ô Mă Nhi và Phàn
Tiếp theo đường thủỵ Ban đầu
thế giặc quá mạnh, quân ta chấp hành
lệnh tạm lui. Vua Nhân Tông và thượng hoàng
Thánh Tông rời về Thanh Hoá, tuy nhiên lần này
địch chỉ tiến được tới
Vạn Kiếp, Chí Linh và Phả Lại chứ chưa
đặt được chân vào kinh thành Thăng
Long.
Chiến
thắng Vân Đồn:
Thoát Hoan đóng ở Vạn Kiếp sắp
cạn lương, sai Ô Mă Nhi đem quân ra
cửa Đại Bàng (Hải
Dương) để áp tải đoàn thuyền
chở lương do tướng giặc. Trương
Văn Hổ chỉ huỵ Trên đường ra
cửa bể, Ô
Mă Nhi đă đánh thắng quân chặn
đường của ta do Nhân Huệ Vương
Trần Khánh Dư chỉ huy tại ải Vân Đồn
(Quảng Yên). Nghĩ rằng đường
vận lương đă được khai thông,
nên Ô Mă Nhi trở về trước. Không
ngờ Trần Khánh Dư, v́ quyết chí phục
hận, nên đă nhanh chóng bổ sung lực lượng
và phục binh chờ đoàn thuyền của Trương
Văn Hổ. Quả nhiên , đoàn thuyền lương
của Trương Văn Hổ đă trúng
phục binh của Trần Khánh Dư và bị
đánh cướp hết cả. Trương Văn
Hổ chạy thoát về Quỳnh Châu.
Chiến
thắng Bạch Đằng Giang:
Tháng 3, 1288, v́ mất hết lương thực
trong trận Vân Đồn, địch cạn lương,
lại thêm khí hậu khắc nghiệt, nhất là
v́ thấy thế của quân ta đă vững vàng
khó phá nổi, nên Thoát Hoan quyết định
lui binh. Thoát Hoan lệnh cho Ô Mă Nhi và Phàn Tiếp
rút về theo đường biển, Thoát Hoan
sẽ rút theo đường bộ.
Hưng đạo vương biết được
kế hoạch lui binh của địch,nên đă
sai tướng Phạm Ngũ Lăo dẫn quân lên
Lạng Sơn mai phục sẵn, rồi sai tướng
Nguyễn Khoái bí mật cho quân đóng cọc
nhọn bịt sắt khắp ḷng sông Bạch Đằng.
Khi nước thuỷ triều lên, giả đ̣
ra khiêu chiến và thua chạy, dụ cho địch
vượt qua khá xa vùng đóng cọc. Khi nước
rút th́ lập tức đốc quân phản công
đẩy chiến thuyền địch lui vào vùng
cọc nhọn. Mọi diễn tiến đă
xẩy ra đúng kế hoạch của Đại vương.
Đúng vào lúc Nguyễn Khoái dồn được
chiến thuyền địch vào vùng tử địa
th́ đại quân của Hưng đạo đại
vương cũng kịp thời kéo tới
tiến công như vũ băo. Nhiều chiến
thuyền địch vướng cọc nhọn
bị ch́m. Quân Nam lợi dụng thời cơ,
đă tiêu diệt gọn địch quân. Các tướng
địch Ô Mă Nhi và Phàn Tiếp bị bắt.
Hưng đạo vương toàn thắng.
Thoát Hoan được tin thất trận
Bạch Đằng, liền kéo quân rút chạỵ
Về tới ải Nội Bàng bị phục binh
của Phạm Ngũ Lăo đổ ra đánh, tướng
giặc Trương Quân bị Phạm Ngũ Lăo
chém chết. Quân Nam tiếp tục truy kích, thêm
hai tướng giặc là A Bát Xích và Trương
Ngọc bị tử trận. Riêng Thoát Hoan
được tùy tướng Tŕnh Bằng Phi
hết ḷng pḥ nguy, mới chạy thoát được
về Tầu.
Thế là sau ba lần xâm lăng nước ta,
đạo quân Nguyên Mông hùng mạnh nhất
thế kỷ 13 đă chuốc lấy thảm
bại
và chịu từ bỏ hẳn mộng xâm lăng
nước ta. Những chiến công hiển hách
ấy là thuộc về các vua, quan và dân nước
ta đời nhà Trần, song sáng chói nhất là
vị thống soái Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn. Chiến thắng của
nước ta chẳng những đă bảo
vệ được bờ cơi giang sơn nước
nhà mà c̣n giúp làm tiêu tan tham vọng của
Hốt Tất Liệt muốn xâm lăng nước
Nhật cho bằng được.
Nh́n rộng hơn, chiến thắng của nước
ta, của Hưng Đạo Đại Vương, cũng
làm suy yếu dần dần thế lực của
Nguyên Mông trên phạm vi toàn thế giới và
ngay tại Trung Hoa đang bị người Mông
Cổ cai tri
III-
Hưng đạo vương đặt nợ nước
lên trên thù nhà
Chúng ta đă thấy Hưng đạo vương
nổi bật với tài ba của một vị tướng
kiệt xuất. Nhưng không phải chỉ có
thế. Ngài c̣n lưu tiếng thơm muôn đời
sau v́ đă nêu gương trung trinh ái quốc,
biết đặt nợ nước lên trên thù
nhà.
Thời nhà Lư suy vi, vua Lư Huệ tông (1211-1225)
ươn hèn, vô trách nhiệm. Vua sinh hai công chúa:
Thuận Thiên và Chiêu Thánh. Năm 1224, Huệ Tông
truyền ngôi cho Chiêu Thánh công chúa, tức Lư Chiêu
hoàng mới lên 8 tuổi, rồi vua cha lên tu
ở chùa Chân Giáọ. Chiêu Hoàng là vua nữ duy
nhất trong lịch sử nước tạ
Trong t́nh h́nh ấy, quan Thái sư Trần Thủ
Độ nhận định vận nước nguy
nan, chỉ có nhà Trần ra tay mới cứu
được. Cho nên Trần Thủ Độ đă
dàn dựng cuộc hôn nhân vương giả Ly
Chiêu hoàng lấy cháu của ông là Trần
Cảnh, rồi lại thu xếp Lư Chiêu hoàng
truyền ngôi cho chồng, tức là vua Trần Thái
tông.
Lấy nhau lâu, hoàng hậu Chiêu Thánh đă 19
tuổi vẫn chưa sinh con nối dơi. Đó là
một mối nguy cho triều đại
mớị. Trần Thủ Độ liền ra tay
một lần nữa, bắt Thuận Thiên
(chị ruột của Chiêu Thánh) là vợ
của Trần
Liễu (anh ruột của Trần Cảnh,
tức vua Thái tông) đang có bầu gả cho
Trần Cảnh; bắt vua phế Chiêu Thánh hoàng
hậu xuống làm công chúa, nâng Thuận Thiên lên
chức hoàng hậu.
Bị mất vợ, Trần Liễu tức
giận, làm loạn. Vua Thái Tông cũng buồn ḷng,
bỏ lên chùa Phù Vân trên núi Yên Tử(Quảng
Ninh). Trần Thủ Độ dẫn quần
thần lên chùa đón vuạ. Vua nói dỗi: Trẫm
c̣n nhỏ dại, không kham nổi việc to
lớn, các quan nên chọn người khác để
cho khỏi nhục xă tắc.. Nài măi không
được, Trần Thủ Độ bảo các
quan: Hoàng thượng ở đâu, tức
triều đ́nh ở đấỵ Nói
xong, Thủ Độ truyền xây cung điện
tại chùa Phù Vân.
Nhà sư trụ tŕ vội van lạy vua hồi
triều. Vua Thái tông bất đắc dĩ
phải nghe theọ Được ít lâu,
Trần Liễu nhắm không thành công, đang
đêm cải trang, lẻn lên thuyền vua, xin hàng.
Hai anh em ôm nhau khóc. Trần Thủ Độ biết
chuyện, tuốt gươm toan chém Trần
Liễu. Vua Thái Tông lấy thân ḿnh che cho anh và
xin chú tha cho Trần Liễụ Vua c̣n cắt
đất An Sinh cấp cho anh và phong cho ông là An
Sinh vương.
An Sinh vương Trần Liễu chính là cha
của Hưng đạo đại vương
Trần Quốc Tuấn. C̣n vua Thái tông (tức
Trần
Cảnh) lại là cha của vua Thánh tông và các ông
Chiêu minh vương Trần Quang Khải, Chiêu
quốc vương Trần Ích Tắc (tức
kẻ phản bội, đầu hàng quân Mông
Cổ), và Chiêu văn vương Trần Nhật
Duật.
Trần Liễu được tha tội làm
loạn, được cấp đất và phong
vương, nhưng không thể quên được
mối thù hận mất vợ, cho nên đă răn
dậy Trần Quốc Tuấn phải chăm
chỉ học tập, văn ôn vơ luyện kiêm toàn
, để sau này có dịp rửa mối
nhục cho ông. Trần Liễu trăn trối:"Sau
này, nếu con không v́ ta mà đoạt thiên
hạ th́ ta nằm dưới ḷng đất
sẽ không nhắm mắt được".
Hưng đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn nhớ lời cha trăn trối,
nhưng Ngài không bao giờ thực hiện,
bởi v́ Ngài biết đặt nợ nước
lên trên thù nhà. Trước cường địch,
Ngài biết chủ động giải mối thù
hận giữa hai gia đ́nh để cùng nhau
chung sức cứu nguy đất nước.
Chuyện kể một lần Quốc Tuấn
mời Thái sư Trần Quang Khải lên
thuyền ḿnh tṛ truyện, đánh cờ và sai
nấu nước thơm để đích tay lau
rửa cho Trần Quang Khả. Làm thế để
muốn vĩnh viễn xoá bỏ hận thù
giữa hai gia đ́nh Trần Liễu và Trần
Cảnh.
Chuyện khác kể, có lần Ngài đem
chuyện thù oán giữa hai gia đ́nh ra hỏi ḍ
các con. Một người con tên Trần Quốc
Tảng khích Ngài nên cướp ngôi, vương
nổi giận, toan chém. Các con và bọn tâm phúc
van xin vương mới tha cho Tảng, nhưng
nghiêm khắc mắng :"Từ nay cho tới
khi nhắm mắt, ta sẽ không nh́n mặt
thằng nghịch tử, phản thần này
nữa".
Đối với vua, với nước th́ như
thế, c̣n với những kẻ lầm
đường lạc lối th́ sao? Sau chiến
tranh vệ quốc toàn thắng, triều đ́nh
dâng sớ tâu vua về những kẻ phản
nghịch, đầu hàng giặc. Vua hỏi ư Ngài
về cách xử trị Vương đă xin
đốt bỏ hồ sơ để xoá
hết hận thù, tránh cho kẻ lầm đường
phải mang mặc cảm tội lỗi, hoặc
là v́ bị cùng đường sẽ sinh
loạn. Đó là tấm ḷng khoan dung, đại lượng
của bậc anh hùng.
Tóm lại, Hưng đạo vương Trần
Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc
kiệt xuất văn vơ song toàn, tài đức
siêu quần bạt chúng. Toàn dân Việt Nam muôn
đời nhớ ơn Ngài,noi gương Ngài.
Chẳng những thế, dân c̣n tôn Ngài lên
bậc hiển thánh và thờ phụng Ngài
tại Đền Đức Thánh Trần ở Kiếp
Bạc (Bắc Việt), tại Đền Đức Thánh
Trần đường Hiền Vương, Sài G̣n,v.v..
Hai tháng trước khi Ngài qua đời, vua
Trần Anh tông đến thăm và hỏi Ngài:"
Thượng phụ một mai khuất núi,
nếu giặc phương Bắc lại sang xâm
lấn th́ kế sách làm sao?"
Đại vương tâu vua nhiều điều tâm
huyết, xin trích một ư: "Thời b́nh
phải khoan thư sức dân để làm kế
sâu
gốc, bền rễ. Đó là thượng sách
giữ nước".
Vua Thánh tông đă tưởng thưởng
sự nghiệp vĩ đại của Ngài
bằng cách vua đích thân làm bài văn kể
hết công lao của Ngài, cho khắc vào bia đặt
vào đền sinh từ để thờ sống
Ngài.
Ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300), vừa nghe tin Ngài
qua đời, vua Trần Anh tông khóc to lên:" Thượng
phụ là trụ thạch của nước nhà,
mặc áo giáp, cầm mũi nhọn, quét sạch
bụi Hồ, lấy lại thần kinh, vỗ yên
muôn họ, nay bỏ trẫm mà đi, t́m đâu
được người lo cho dân, yêu nước
như Thượng phụ".
Sau đó thượng hoàng Trần Nhân tông và vua
Anh tông truyền chỉ các quan mặc áo đại
tang, vua đi xe mộc, ngựa trắng, thân hành
tới tận nơi chủ tŕ tang lễ.
Theo lời di chúc, thi hài Ngài được
hỏa táng, chôn trong vườn, đất san
bằng và trồng cây lên như cũ, không xây
lăng mộ. Vua phong cho Ngài là Thượng
Quốc Công B́nh Bắc Đại Nguyên Súy Long Công
Thịnh Đức Vĩ Liệt Hồng Huân Nhân Vũ
Hưng Đạo Đại Vương, cho
lập đền thờ ở Thiên
Trường và Vạn Kiếp.
Mặc dù c̣n hận chiến bại, nhưng
sử sách nhà Nguyên vẫn tỏ ra kính trọng
Ngài bằng cách không dùng tên húy của Ngài mà
gọi là Hưng đạo vương. Trong
giới dân giả người Trung Hoa vẫn thường
doạ con nít: "H́nh tầu tài vọng" (Hưng
đạo đại vương). Có nơi c̣n
viết 4 chữ đại tự này dán lên đầu
giường để trấn áp ma quỷ!
IV.
Đệ nhất danh tướng thời trung cổ
Nói chung, trước đây thế giới coi nước
ta chỉ là một nước "nhược
tiểu" so với những nước vùng Đông
Á như Nhật và Trung Hoa. Nhiều "sử
gia" Âu Mỹ thường viết rất thiên
lệch và thiếu sót về Việt Nam. Xin
lấy ngay
một thí dụ trong cuốn Viet Nam của tác
giả David K. Wright, xuất bản ở Chicago, năm
1989. Khi viết cuốn này, tác giả đề
ở trang đầu là đă tham vấn với
hai giáo sư tiến sĩ Clark D. Neher, Ph.D. và
Robert L. Hillerich, Ph.D.. Vậy mà ở Chương nói
về các danh nhân của nước ta xưa nay,
tác giả đă lần lượt nêu tên:
Hồ Chí Minh, Lê Lợi, Hai Bà Trưng, Nguyễn
Cao Kỳ, Vơ Nguyên Giáp! Như thế đó và
chỉ có bấy nhiêu thôi! Thật đáng
mắc cỡ cho một người đă mất
công viết cả một cuốn sách!
Riêng về những cuộc xâm lăng nước
ta của quân Mông Cổ do chính Hốt Tất
Liệt (Kublai) ra lệnh th́ các sách Âu
Mĩ không nói tới, nếu có nói cũng
chỉ nói sơ sài và bao giờ cũng ngưng
lại ở chỗ quân Mông Cổ tiến vào nước
ta cách dễ dàng, không thấy tường
thuật là họ ở lại được bao
lâu và tại sao họ lại rút về, rút
về có "ôm đầu máu" không, hay là ra
về được b́nh an thơ thới!
Lấy thí dụ trong cuốn Area Handbook For Mongolia
của 13 đồng tác giả viết làm tài
liệu cho các Đại học Mĩ, do Hội Đánh
Giá và Nghiên Cứu Sử thực hiện
(Historical Evaluation and Research Organization), ấn
bản đầu ra năm 1970.
Sách này viết: "In 1252 and 1253 Kublai conquered
Yunnan&Tonkin was then invaded and pacified, the conquest ending
with the fall of Hanoi in 1257". Sự thật th́ khi
chinh phục xong Vân Nam, đúng là Hốt Tất
Liệt đă sai tướng Ngột Lương
Hợp Thai (Wouleangotai) sang đánh nước ta và
có hạ được thành Thăng Long vào năm
1257. Nhưng cuộc chinh phục không chấm
dứt ở việc "ổn định"(pacified)
ǵ cả, trái lại, chỉ sau một thời
gian ngắn, đoàn quân xâm lăng của
Ngột Lương Hợp Thai đă bị quân ta
đánh bại tại Đông Bộ Đầu và
phải rút chạy về Vân Nam. Các "sử
gia" người Mỹ không biết ǵ về
cuộc tháo chạy "té khói" ấy và
đọc tiếp cũng không thấy nói chi
đến hai cuộc xâm lăng nước ta
tiếp theo vào các năm 1284 và 1287. Trong hai
lần xâm lược sau, khi tháo chạy về
Tầu, nhiều danh tướng của đoàn quân
Nguyên Mông đă phải bỏ xác tại trận
như đă tường thuật trên đâỵ
Thân phận "nhược tiểu" thường
chịu nhiều thiệt tḥị Chuyện
tầm vóc quốc gia mà c̣n như thế,
huống chi là chuyện của những cá nhân, dù
cá nhân có là bậc anh hùng hào kiệt như Hưng
đạo đại vương Trần Quốc
Tuấn. Thế nhưng mới đây, may mắn
sao, bên Anh Quốc, lần đầu tiên,
những cuộc chiến thắng quân xâm lược
Mông Cổ của dân nước ta đă
được biết đến và danh tiếng
lẫy lừng của vị chỉ huy thống soái
Hưng đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn đă được công
nhận.
Theo tác giả Trọng Minh trong cuốn Vẻ Vang
Dân Việt, tuyển tập 3, th́ Ông đă căn
cứ vào tài liệu của Viện Khoa Học Hoàng
Gia Anh để tường thuật về sự
việc này như sau: "Tháng 2 năm 1984,
Hội Hoàng Gia Anh, tức viện Khoa Học Hoàng
Gia (Royal Society) đă triệu tập một phiên
họp, gồm 478 nhà khoa học về lịch
sử quân sự của các nước, phần
đông cũng là các nhà quân sự có vai vế
của thế kỷ, để bầu ra 10 vị
tướng soái kiệt xuất nhất trong
lịch sử nhân loại, qua các thời đại:
thượng cổ, trung cổ, cận và hiện
đạị Mục đích là để
chuẩn bị cho việc xuất bản cuốn Bách
Khoa Toàn Thư nước Anh.
Sau khi liệt kê 98 thống soái tài ba nhất
của các nước trên thế giới, phiên
họp đă bầu ra 10 tướng soái cho
cả 4 thời đạị Thời thượng
cổ 3 vị; cận đại 4 vị; và
hiện đại 2 vị, trong số này có
nhiều vị chỉ được 70% số
phiếụ Riêng thời trung cổ, Hưng Đạo
vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng
soái duy nhất được chọn với
tuyệt đại đa số phiếu 100%. Điểm
đáng chú ư là trong số phiếu c̣n ghi rơ Hưng
Đạo vương Trần Quốc Tuấn là người
đă đánh thắng kẻ thù mạnh nhất
thế giới là quân Nguyên Mông".( Sd.
Trang 26)
Mặc dù chúng tôi chưa có trong tay tài liệu mà
tác giả Trọng Minh đă thủ đắc,
song chúng tôi cho sự việc này
là đáng tin. Bởi v́ nếu mở bộ Bách
Khoa Toàn Thư nước Anh năm 1991 (The New
Encyclopaedia Britannica, volume 11, 15th Edition, trang 892 và
893), ta thấy đă nói tới 35 ḍng về Nhà
Trần ở nước ta, trong đó công
nhận 3 lần Nhà Trần đánh đuổi quân
xâm lược Mông Cổ, và dành riêng 31 hàng
để nói về Trần Hưng Đạo, đă
mô tả Ngài là một chiến lược gia sáng
chói, ba lần đánh bại những đoàn quân
của Hốt Tất Liệt (a brilliant military
strategist who defeated Kublai Khan's Mongol hordes).
Chúng tôi c̣n tin là từ việc làm tốt đẹp
của Viện Khoa Học Hoàng Gia Anh nêu trên,
đă gây ảnh hưởng trong một số
cuốn sách xuất bản những năm gần
đây ở Hoa Kỳ.
Chẳng hạn như trong cuốn Viet Nam Rebuilding
A Nation của Sherry Garland, Dillon Press, Inc. xuất
bản tại Chicago năm 1990, đă viết như
sau :"The Mongol emperor Kublai Khan attacked Dai Viet.
Khan's great army outnumbered the Vietnamese more than two to one,
but the VN general was a master of guerrilla warfarẹ VN became
one of the few countries in the world to drive off the famous Mongol
invaders." Sd. Trang 37. (Hoàng đế Mông Cổ
Hốt Tất Liệt Đại hăn đă tấn công
Đại Việt. Đại binh của Đại hăn
đông gấp đôi quân nước Việt, nhưng
vị thống soái VN là bậc thầy về
chiến tranh du kích. V́ thế, VN trở thành
một trong ít nước trên thế giới
đă đánh đuổi được quân xâm
lược Mông Cổ).
Và trong cuốn Vietnam của Karen Wills, do Lucent Books
xuất bản tại San Diego năm 2000, đă
viết: "Three hundred thousand Mongols proved no match for
the guerrilla battle tactics of the Vietnamese" . Sd. Trang 30.
(Ba trăm ngàn quân Mông Cổ đă không thắng
nổi thuật du kích chiến của người
Việt".
Như thế, ngày nay, một số tác giả Âu
Mỹ đă bắt đầu nói đúng,
mặc dù vẫn chưa nói đủ, chưa nói
hết sự thật như tính khách quan của môn
sử đ̣i hỏi.
Tài Liệu Tham khảo:
-Will Durand, Nguyễn Hiến Lê dịch: Văn Minh
Ả Rập. Xuân Thu
xuất bản.
-Trần Trọng Kim: Việt Nam Sử Lược.
Văn Hóa Thông Tin
xuất bản,1999.
-Đào Duy Anh: Trung Hoa Sử Cương. Xuân Thu
xuất bản.
-Nguyễn Đăng Thục: Quốc Học Việt
Nam.Kinh Thi xuất bản.
-Trọng Minh: Vẻ Vang Dân Việt, tuyển
tập 3.
-Trevor N. Dupuy, Wendell Blanchard và 11 đồng tác
giả: Area
Handbook for Mongoliạ 1970.
-Hungarỵ Nelles. Second Revised Edition, 1995.
-R. Worden and Andrea Savada: Mongolia, A Country Studỵ 1989.
-Ronald Dolan and Robert Worden: Japan, A Country Studỵ 1990.
-Anne Commire and Deborah Klermer: Historic World Leaders,Đ Gale
Research, Inc., 1994.
-John Larner: Marco Polo and Discovery Of The World.Yale Univ.
Press.
New Haven and London, 1999.
|