Đại Việt Sử Thi

Vietsciences- Hồ Đắc Duy         24/10/2009

 

Những bài cùng tác giả

Quyển 20


Năm Kỷ Mùi (1791) Adran lâm nạn
Vua bèn phong tước nhận Quận Công
Mộ phần nằm ở bên hông
Cửa thành Gia định tượng đồng ghi ân

Nguyễn Quang Toản bất thần đột kích (1801)
Ba vạn binh chí quyết trả thù
Theo sông Nhật Lệ tiến vô
Liên minh với bọn tàu Ô phá thành

Bọn hải tc tung hoành cướp bóc
Nên trong dân có khúc hát ngâm :
"Lạy trời cho chóng gió nồm
Để cho chúc Nguyễn giong buồm thẳng ra"

Đúng vào lúc người ta oán hận
Bọn cầm quyền tán tận lương tâm
Tàu Ô đi kết làm thân
Làm cho ngao ngán lòng dân bấy giờ



GIA LONG HOÀNG ĐẾ ( 1802- 1820)


Hết tháng tư vào năm Nhăm Tuất (1802)
Giữa triều đình trước mặt muôn dân
Nguyễn Vương làm lễ đăng quang

Cáo cùng trời đất tại đàn Nam Giao
đàn Nam Giao lễ đài chính giữa
Vái với trời đất nước đại Nam
Gia Long niên hiệu đổi làm

Sáu điều ân điển vua ban cho đời
Vua Gia Long cử người đi sứ
Xin nhà Thanh tiến cử phong vương
Cờ trương chuẩn bị lên đường

Kéo quân Bắc tiến vượt giòng Linh Giang
đất Hà Trung Tây Sơn đang giữ
Vua Gia Long bèn cử thủy binh
Với quân bộ chiến thình lình

đột kích đánh phá chiếm thành Nghệ An
Trong mười ngày hành quân tốc thắng
Phe Gia Long chiếm đặng nhiều nơi
Tây Sơn quân tướng rối bời

Tìm đường trốn tránh chạy dài thoát thân
Thành Thăng Long dần dần hỗn loạn (1802)
Đám tàn binh từng toán lang thang
Triều đình chẳng thấy bóng quan

Ở nơi phủ huyện hoang tàn trống trơn
Lũ bại quân không ai chế ngự
Chúng trở thành thú dữ hại dân
Nghe tin quân Nguyễn đến gần

Tướng, quan Cảnh Thịnh vội vàng chuồn ngay
Trong những ngày Tây Sơn di tản
Cả kinh thành tán loạn khắp nơi
Ngã lên Kinh Bắc đầy người

Vắng hoe phố thị, một trời tang thương
Ngày đinh Tỵ trên đường Thượng Trấn
Vua Gia Long yết bản chiêu an
Vỗ về yên ủi lòng dân

Xử ngay những kẻ cướp đường lưu manh
Bùi thị Xuân vang danh nữ tướng
Từng cỡi voi giữa chốn ba quân
điều binh rút đến Thạch Chương

Bị quân Nguyễn Ánh đón đường bắt giam
Vũ văn Dũng chạy ngang Ngọc Xá
Cùng ba người bộ hạ mang theo
Bị dân chận lại trói meo

Khiêng về hành trại đánh hèo giam riêng
Nguyễn Quang Toản cùng em qua khỏi
Vượt Nhị Hà gần tới Xương Giang
Mái cong chùa c Thọ Xương

Dừng chân tạm trú tìm đường rút lui
Vua Gia Long lấy ngày đại thắng (1802)
Để làm ngày quốc thống nước ta
Kinh sư chiếu chỉ ban ra

Chiêu an thần tử dĩ hòa muôn dân
Ở Thăng Long còn đang rắm rối
Nguyễn văn Thành bổ tới tận nơi
Phân vùng mười trấn chia ngay

Bộ Binh, Hình, Hộ đặt người trông coi
Trong tháng mười vào ngày Kỷ Hợi
Xa giá về vừa tới tỉnh Thanh
Lập đàn tế cáo uy linh

Yết lăng Triệu Tổ sinh thành ra vua
Lễ hiến phù đem tù trảm quyết
Ngày hôm sau sai giết bại quân
Xiềng tay, trói ké, cùm chân

Vua tôi Cảnh Thịnh chém dần từng tên
Triều Tây Sơn nắm quyền Mậu Tuất (1778)
đến năm Nhâm Tuất nước mất vào tay (1802)
Gia Long kế tục lên thay

Giang sơn thống nhất từ rày về sau
Năm QuỶ Hợi (1803) bắt đầu đúc pháo
Cho ra lò chín khẩu thần công
Sai người đắp lại Thăng Long

Lập đền Văn Miếu, tiền đồng làm ngay
Sửa Phú Xuân dùng tài Văn Yến
Đo đạc rồi nới điện rộng thêm
Vua thân vẽ kiểu đặt nền

Duyệt xem kiến trúc, đặt tên công trình
Động Thạch Bích, người Kinh rất ít
Lũ man di lại thích đánh nhau
Tả quân Văn Duyệt quỳ tâu

Cho quân đi đánh tóm thu đất này
Truyền Văn Phú ra ngay hải đảo
Cụm Hoàng sa cửa đảc Sa Kỳ
Mộ dân ngoại tịch cho đi

Lập thành hải đội phòng khi cần dùng
Sứ nước Anh đem dâng cống vật (1803)
Xin thông thương Vua vẫn không cho
Xiêm La, Chân Lạp mang đồ

Sừng tê, sản, quốc thư dâng ngài
Vua Trung Quốc cử ngay sứ giả (1804)
Sang nước ta phù tá tấn phong
Chiếu thư có đoạn ở trong

Ban cho quốc hiệu Việt Nam bấy giờ
Để chính danh, truyền cho đúc ấn
Sáu bộ riêng khỏi lẫn vào nhau
Bắc Thành mời các sĩ phu

đem điều lợi hại trước sau luận bàn
Quốc Tử Giám sắc ban thành lập
Cho học sinh được cấp tiền lương
Chương trình giáo dục tỏ tường

Sưu tầm sách vở hiện còn trong dân
Nguyễn Công Trứ đê. dâng mười chuyện (1803)
Trứ là người ở huyện Nghi Xuân
Một người văn võ đa năng

Giỏi nghề đánh giặc lại sành khẩn hoang
Người Chà Và nhiễu nhương quấy rối
Bị quân ta đánh đuổi chạy dài
Vào tháng tám rước quan tài

Của vua Chiêu Thống di hài về quê (1804)
Đúc Sách Vàng, xây nền xã tắc
Ở Kinh thành sắp đặt nghi trang
Thái hòa thổ mộ sửa sang

Chọn ngày tháng tốt đăng quang thiết triều
Chọn niện hiệu Gia Long hoàng đế (1806)
đánh chuông vàng chiếu chỉ các nơi
Tám điều ân xá thay trời

định ngày sóc vọng quan mời vào cung
Sửa lại thuế hợp lòng dân chúng
Cho lưu dân khỏi đóng ba năm
định ra phép thử lúa bằng

Hai phần trăm lép trừ ngang chỗ này
Để hiểu rõ trong ngoài quan ải
Đất nước mình của cải tài nguyên
Sai Lê Quang định làm nên

Sách "địa dư chí" trình lên cho Ngài
Sách mười quyển trình bày cặn kẽ
Cảnh núi sông hiểm thế, cầu đường
Thói quen, thổ sản, sơn quan

Nguồn sông, cửa biển, mỏ than, mỏ đồng
Tiếp đến việc sắc phong Chân Lạp (1807)
Nặc Ông Chân cống nạp mỗi năm
Phong vua của đất Cao Man

Vua ban chiếu chỉ cho làm Quốc Vương
Ở trong nước nhiễu nhương giặc cỏ
Phái người đi phủ dụ hoàn lương
đặt quan coi giữ đê đường (1809)

Thảo ra định lệ thuế buôn thương thuyền
Vua nước Xiêm đem đồ triều cống (1811)
Người Chân Lạp lại tưởng nước ta
Kết giao với nước Xiêm La

Vội vàng sai sứ đi qua điều trần
Năm Nhâm Thân (1812) tình hình Chân Lạp
Trong anh em tranh chấp lẫn nhau
Nặc Chân dâng biểu khẩn cầu

Vua sai Tả Tướng kéo vào Nam Vang
Mười ba ngàn quân binh thủy bộ
Lê văn Duyệt tới xứ Cao Man
Cho đắp thành mới Nam Vang

Lô Yêm cho đặt trữ lương khi cần
Lại giao cho Nặc Chân tiền của
Thêm mười ngàn hộc lúa để ăn
Sau khi ổn định an dân

Triệu hồi Tả Tướng đem quân trở về
Trước khi đi, bàn giao Phiên Chúa
Lưu ngàn quân bảo hô. Cao Man
Khiến dân Chân Lạp cùng làm

Đào kênh Vĩnh Tế mở đàng giao thông
Xuống chiếu ban đào sông An cựu (1814)
Lại sai người đắp đập Hà Trung (1807)
Kim đôi cũng được khởi công (1810)

Tam Khê vét rộng nới thông thêm giòng (1817)
Cũng năm đó đào sông Bảo định (1817)
Từ Cù Úc cho đến Mỹ Tho
Mã Trường vua lại cấp cho

Theo trong bản vẽ đào từ Phiên An
Cho thuyền buôn Ma cao và Pháp
Được ra vào tấp nập tự do
Riêng Ma cao, vua thưởng cho

Vì đem dâng bản địa đồ Hoàng Sa
đội Hoàng Sa quan gia ho. Phạm
Lập hải trình khảo thám chung quanh
Đến năm Bính TỶ hoàn thành (1816)

Cử ngay hãi đội coi riêng vùng này
Việc quốc gia giải bày sau trước
Bộ "Quốc triều thực lục" soạn ra (1815)
Sai Thích, Sàng, Toản bộ ba

Làm quan tu sửa để mà chỉnh biên
Dâng vua xem "Quốc triều luật lệ"
Làm nếp nề giúp dễ cho quen
Cần tra điều luật xét phân

Sách 22 quyển rất cần cho dân
"Duyên hải lục" đem dâng ngự lãm
Khảo sát nơi nông cạn xa gần
Men theo bờ biển Việt Nam

Trăm bốn ba (143) cửa hải quan rõ ràng
Đất nước ta dần dần thay đổi
Qua ngàn năm chìm nỗi thịnh suy
Bây giờ cột mốc biên thùy

địa đồ hiệu đính , chỉnh qui rõ ràng
Nước Việt Nam thuộc đông Nam Á
Vị trí ngay tại ngả tư đường
Phía đông thuộc Thái Bình Dương

Phía tây Miến điện , Thái Lan , Miên , Lào
Ở phương bắc đường vào Trung Quốc
Ải Nam Quan cắm mốc phân ranh
đông Nam nước biễn vây quanh

Cà mau , Phú quốc thuộc miền cực nam
Miền đông Bắc cao nguyên và núi
Những đường mòn giáp giới Trung Hoa
Cao nguyên Quản Bạ , Bắc Hà

Sông Hồng đổ xuống chảy qua ViêđTrì
Hồ Thất Khê , Lạng Sơn núi đá
Những dãy đồi Cẩm Phả , Tiên Yên
Cát Bà vùng đảo thiên nhiên

Hạ Long nước phẳng đất liền chân mây
Miền Tây Bắc Lào Cai Châu Mộc
Núi Sa pa , rừng đất Cúc Phương
điện Biên , sông Mã , Mường Hum

Hoàng Liên Sơn xuống tận vùng Nghệ An
Miền đồng bằng ở vùng châu thổ
Của sông Hồng rất đổi phì nhiêu
Sơn Tây , Hà Nội tiếp theo

Hưng Yên , Phả Lại đất nhiều ven sông
Dãy Trường Sơn nhìn từ phía bắc
Thoặt trông như một bức trường thành
Tạo ra về mặt địa hình

Vách sườn của dãy nét riêng mỗi vùng
Trường Sơn đông dốc thì dựng đứng
Phía sườn Tây thoải xuống lưng chừng
Hoành Sơn đổi hướng tây đông

Đèo Ngang một thoáng , Mũi Ròn ngoài khơi
Trường Sơn Nam chạy dài xuống tới
Đất cuối cùng là núi Chứa Chan
Cao Nguyên năm lọai xếp tầng

Gia Lai ,đắc Lắc trải dàn về tây
Lang Biang, mặt quay ra biễn
Vùng Di Linh đất chuyễn địa hình
Ngã Ba biên Giới cao nguyên

Tạo thành khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời
Các đồng bằng vành đai Trung Bộ
Là các vùng châu thôđ Thanh Hoa
Vượt suờn núi đá dôi ra

Từ Thanh Nghệ Tỉnh chạy qua Quảng Bình
Từ Trị Thiên đến vùng Nam Ngãi
Từ Bình định cho tới Khánh Hòa
đồng bằng dàn trải bao la

Đến vùng Ninh Thuận , Kê Gà phía trong
Các núi lửa Miền đông Nam bộ
Là cao nguyên đất đođ hiện nay
Lộc Ninh , An Lộc phía tây

Chung quanh Long Khánh trải dài Trảng Bom
Hạ lưu sông đồng Nai rất thoải
Dưới dạng đồi chạy mãi phía đông
Đan dày khe suối và sông

Tạo nên khí hậu vô cùng đặc trưng
Sông Cửu Long đồng bằng châu thổ
Đồng Tháp Mười là chổ trũng sâu
Sông Tiền , sông Hậu cùng nhau

Mang phù sa lại bồi cao thành giồng
Đất Vĩnh Long , Bến Tre , Sa Déc
Vùng Gò Công, đất sét Trà Vinh
Cần Thơ , Phụng Hiệp , U Minh

Hàm Luông , Rạch Giá , Hà Tiên cuối cùng
Cả một vùng phì nhiêu trù phú
Lúa bạt ngàn cây trái xanh um
Ngoài xa hải đảo quanh vùng

Phú Quốc , Côn đảo vòng cung bên ngoài
Gia Long sai Văn Thành tổng trấn
Trở về kinh lãnh ấn trung quân
Có con đậu bảng cử nhân

Tên Thuyên là bậc văn nhân có tài
Thơ xướng họa vung tay quá trán
"đồn rằng châu Ái lắm nhân tài
Trống chiếu lòng riêng những đợi hoài

Ngọc phát non kinh nào giấu mãi
Ngựa kỳ, ngựa kỶ mấy người hay
Lan sanh hang thẳm hương ngàn dặm
Phụng đậu gò cao tiếng khắp nơi

Trong núi có ai là Tể tướng
Ra tay giúp đỡ chuyển cơ đồ"
Câu thơ gởi bạn đọc chơi
Nào ngờ thơ ấy đến nơi cung đình

Duyệt vốn ghét Văn Thành từ trước
Nhân dịp này vớ được tâu lên
Xin vua buộc tội trước tiên
Bắt Thành tự vận, đem Thuyên chém đầu

Đặng Trần Thường bị tâu giấu thuế
Lê Chất nay phát giác việc này
Vua ra lệnh bắt liền tay
Ánh tuyên tội giảo giết ngay trong tù

Năm Kỷ Mão (1819) mới vừa tháng Chạp
Vua Gia Long truyền khắp đại thần
Đến bên giường ngự dụ rằng
Thọ mang di chiếu mệnh chung gần kề

Xét Gia Long có bề hào kiệt
Người dù xây được nghiệp tổ tiên
Một tay thống nhất ba miền
Quách thành gây dựng một nền Nam Giao

Nhà Tôn miếu. Sông đào, đập đắp
Sửa cơ đồ xã tắc an dân
Nhưng mà lòng dạ tiểu nhân,
Đào mồ Nguyễn Huệ, giết oan trung thần



 

 

            ©  http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org    Hồ Đắc Duy