Năm Nhâm Thìn
2012 vừa bắt đầu. Những ngày đầu
năm mới là dịp các gia đình sum
họp, bạn bè gặp gỡ mừng Xuân.
Mùa Xuân cũng là mùa hội. Một
trong những ngày hội sớm nhất
trong năm tại Việt Nam là Hội
Đống Đa, ngày mùng 5 tháng Giêng
âm lịch. Theo nhiều tư liệu lịch
sử cũng như theo những lời
truyền miệng, ngày mùng 5 Tết
cách đây 223 năm, quân đội Tây
Sơn do Nguyễn Huệ, tức hoàng đế
Quang Trung chỉ huy, từ Nam thần
tốc ra Bắc, tiến vào Thăng Long,
kết thúc chiến dịch dẹp tan đội
quân viễn chinh của nhà Thanh.
Trong sử sách
chính thống ở Việt Nam hiện nay,
Quang Trung được coi như là một
biểu tượng kiệt xuất của tinh
thần dân tộc Việt Nam, một trong
những thần tượng mà rất nhiều
người Việt Nam ngưỡng mộ.
Trong những
năm gần đây, tại Việt Nam, nhiều
hoạt động văn hóa lớn gắn liền
với hình tượng Quang Trung –
Nguyễn Huệ và thời kỳ Tây Sơn
lần đầu tiên được tổ chức, ví dụ
như việc diễn lại cảnh Nguyễn
Huệ lên ngôi Hoàng Đế tại
Festival Huế lần đầu tiên vào
năm 2008, … Một trong những bộ
phim lịch sử cổ trang hoành
tráng nhất được thực hiện tại
Việt Nam, gắn liền với thời kỳ
Quang Trung, mang tên gọi «
Tây Sơn hào kiệt », đã ra
mắt khán giả năm 2010.
Chiến thắng
năm Kỷ Dậu 1789 ngày càng được
tôn vinh là một thực tế.
Các khách mời
của Tạp chí Khoa học của RFI hôm
nay là tiến sĩ Nguyễn Nhã từ Sài
Gòn và nhà sử học Dương Trung
Quốc từ Hà Nội. Một trong những
câu hỏi chính mà chúng tôi mong
muốn được hai ông giải đáp là
hồi ức và những tưởng niệm về
chiến thắng Đống Đa và thời kỳ
Quang Trung. Bên cạnh thực tế
của sự tôn vinh chiến thắng Đống
Đa và hình tượng Quang Trung,
còn những khuất khúc trong thái
độ của đời sau đối với thời kỳ
này, cũng như rất nhiều khoảng
tối của lịch sử trong giai đoạn
này cần được bổ khuyết, đây cũng
là điều mà chúng ta hy vọng sẽ
được các nhà nghiên cứu dần dần
khai mở.
Mãi mãi mùa Xuân
Kỷ Dậu
Khách mời đầu
tiên của chúng ta là nhà sử học
Nguyễn Nhã. Ông là một trong
những nhà nghiên cứu, ngay từ
những năm 1960, đã dồn nhiều tâm
sức cho việc phục dựng lại hình
ảnh Nguyễn Huệ và thời kỳ Tây
Sơn.
RFI
:
Xin
kính chào nhà sử học Nguyễn Nhã,
ngày đầu Xuân hôm nay, có một
chủ đề chắc được nhiều người
quan tâm là sự kiện mùng 5 tháng
Giêng, tức là trận chiến của
quân đội Quang Trung đẩy lùi
quân Thanh, cách đây đã hơn 2
thế kỷ. Tuy diễn ra lâu rồi,
nhưng đây là sự kiện rất đặc
biệt, về mặt lịch sử, cũng như
về mặt văn hóa. Sự kiện này để
lại nhiều kỷ niệm, cũng như các
suy nghĩ trong nhiều thế hệ.
Nhân dịp sắp tới dịp kỷ niệm,
xin ông cho biết đôi nét về sự
kiện này.
Nhà sử
học Nguyễn Nhã
: Nói đến Mùa Xuân Kỷ Dậu là nói
đến chiến thắng Đống Đa, như
chúng ta biết. Từ khi vua Lê
Chiêu Thống sang cầu cứu nhà
Thanh, thì vua nhà Thanh là Càn
Long chắc là rất mừng, vì đó là
một cơ hội tốt, cũng lấy cớ để
phục hồi lại nhà Lê, nhưng thật
ra là để thể hiện những sức mạnh
của đế quốc Đại Thanh lúc đó.
Chính hồi đó Tôn Sĩ Nghị cũng
cho là sức mạnh của quân Thanh
là vô địch, nên rất là ỷ y, mùa
xuân Kỷ Dậu ấy thì cho quân sĩ
nghỉ ngơi. Nhưng không ngờ rằng,
Nguyễn Huệ đã thể hiện thiên tài
quân sự : 20 vạn quân Thanh chỉ
trong có 5 ngày là bị tiêu diệt
và phần còn lại chạy về Trung
Quốc.
Tôi nghĩ rằng,
đây là một võ công oanh liệt vô
tiền khoáng hậu, trong một thời
gian quá nhanh, mà đánh dàn trận
chính quy, chứ không phải chỉ
đánh du kích mà thôi. Thành thử
tôi nghĩ rằng, mọi người Việt
Nam, kể cả những người đối thủ
của Tây Sơn, của Quang Trung,
cũng phải thừa nhận.
RFI
:
Xin
được hỏi nhà sử học một câu cuối
cùng, trong sự phát triển của
Việt Nam và khu vực, Quang Trung
- Nguyễn Huệ đã để lại những giá
trị gì ?
Nhà sử
học Nguyễn Nhã
: Đây không phải chỉ là một cuộc
đại thắng. Chiến công hiển hách
đó mở đầu một triều đại rất ấn
tượng. Bởi vì, lần đầu tiên, chữ
nôm chính thức được Quang Trung
cho sử dụng trong các văn bản,
thay vì chữ Hán. Đây là điều thể
hiện rất rõ nét bản sắc Việt
Nam. Chúng ta thấy, từ thế kỷ
thứ X, các vua ở Việt Nam đều có
xưng là hoàng đế, đại hoàng đế,
Đại Việt, Đại Cồ Việt, … nhưng
về vấn đề văn hóa vẫn còn có sự
nô lệ ở mức độ nào đó, nhất là
khi mà sử dụng chữ Hán và dùng
Nho học làm khoa cử. Theo tôi,
đấy là một sự sai lầm. Bởi vì
Nho học tức là học sách Tàu,
lịch sử Tàu, và đặc biệt là
trong các kỳ thi hương không có
thi Nam sử, mà chỉ thi Bắc sử.
Quang Trung chính là người mở
đầu tinh thần độc lập về văn hóa
như thế.
Thứ hai là
Quang Trung rất trọng những hiền
tài. Khi làm vua rồi, đối với
ông La Sơn Phu Tử - Nguyễn Thiếp
hết sức là trọng thị. Tôi nghĩ
rằng, chỉ cần hai điều đó thôi
đã để lại cho đời một tinh thần,
một di sản rất quý giá.
Tôi là một
người hồi còn trẻ, rất ngưỡng mộ
sự nghiệp của Quang Trung. Khi
lập sự nghiệp, Quang Trung chỉ
mới là thanh niên thôi, và khi
mất ông mới có 40 tuổi. Vì vậy,
khi tôi chủ biên tập Văn Sử Địa,
tôi đã ra số đặc khảo về Quang
Trung (số 9-10), số 13 là về
chiến thắng Đống Đa, số 21 là kỷ
niệm phong trào Tây Sơn.
Tôi nghĩ là
người Việt Nam, bất cứ ai, bất
cứ ở đâu, cả già hay trẻ, chắc
đều có chia sẻ cũng như tôi vậy.
Theo tôi, phải thừa nhận là
Quang Trung – Nguyễn Huệ không
những là một thiên tài quân sự,
mà còn là một Đại Hùng của dân
tộc.
(…) Mong rằng
mùa Xuân Kỷ Dậu sẽ mãi mãi đến
với chúng ta.
Giỗ trận Đống Đa
vốn của người Hoa
Tiếp theo
đây là những lời kể của nhà sử
học Dương Trung Quốc và những
ghi nhận của ông về chiến thắng
Đống Đa và một số thành quả mà
triều đại Tây Sơn đã để lại.
Nhà sử
học Dương Trung Quốc
: Đối với người Việt Nam, cái
Tết gần như được kết thúc bằng
một sự kiện, hay một lễ kỷ niệm
đã trở thành một truyền thống,
một tập quán, không chỉ riêng
của người dân Hà Nội, mà còn của
nhiều địa phương trên cả nước.
Đó là cái giỗ trận. Giỗ trận là
một cách nói một mạc, giản dị,
nhắc lại trận chiến đánh thắng
quân Mãn Thanh ở Đống Đa.
Cái quá trình
diễn ra trận này chắc nhiều
người được biết, nhưng ai cũng
nhớ tới hình tượng đã được văn
học hóa, như trong Hoàng Lê Nhất
Thống Chí có hình ảnh của hoàng
đế Quang Trung cùng đại quân của
mình, kéo vào Thăng Long, giữa
một mùa xuân đầy xác pháo, khói
súng và ánh sắc của hoa đào. Có
thể nói đấy là biểu tượng của
chiến thắng có thể nói lừng lẫy
nhất trong lịch sử bảo vệ nền
độc lập và chủ quyền của tổ
quốc, trước các thế lực xâm lược
từ phương Bắc tới. Nhưng chiến
trận năm Kỷ Dậu không chỉ ghi
nhận chiến thắng chống ngoại
xâm, như nhiều thế hệ cha ông ta
đã lập nên trước đây trong lịch
sử.
Những đóng góp
rất to lớn của nhà Tây Sơn, đặc
biệt là hoàng đế Quang Trung nói
riêng, đã chấm dứt tình trạng
phân tranh Nam Bắc, tạo ra nền
tảng cho sự thống nhất quốc gia
và trên một lãnh thổ đã tương
đối hoàn chỉnh, sau nhiều thế kỷ
mở mang bờ cõi và cũng là tiến
trình không ngừng đương đầu với
các thế lực từ bên ngoài, cho dù
triều đại Tây Sơn sau đó rất
ngắn ngủi, vì thất bại trước Gia
Long. Triều Nguyễn lên ngôi, kế
thừa thành quả thống nhất quốc
gia của Quang Trung. Về mặt
chính trị, trong sử sách nhà
Nguyễn vẫn gọi Tây Sơn là ngụy,
là giặc, … cho nên rõ ràng về
mặt kỷ niệm cái chiến thắng Đống
Đa không được duy trì như một
quốc lễ, trong bối cảnh chiến
thắng này gắn với nhà Tây Sơn,
là một địch thủ của nhà Nguyễn.
Phải nói là
cho đến trước năm 1945, quanh
khu vực Đống Đa, chỉ có diễn ra
một lễ hội, cũng gọi là giỗ
trận, nhưng theo sách vở để lại,
chủ yếu là do những người Hoa tổ
chức để nhớ lại tổ tiên của mình
chăng ? Người Việt thì họ đến
đấy, họ chiêm ngưỡng, họ quan
sát lễ hội ấy, nhưng không phải
là lễ hội để giỗ những chiến
binh của Tây Sơn, mặc dù gần
đấy, chúng ta thấy có những ngôi
đền, ngôi chùa rất kín đáo, có
tượng của Đức Ông, nhưng thực ra
là hiện thân của hoàng đế Quang
Trung.
Năm thứ 1 Việt
Nam DCCH : Lần đầu tiên công
khai tưởng niệm
Mặc dù hơn
hai thế kỷ đã trôi qua, hồi ức
về Chiến thắng Đống Đa 1789
dường như vẫn còn tươi rói trong
ký ức của nhiều nhà nghiên cứu
lịch sử, cũng như nhiều người
Việt Nam ngày nay. Trên thực tế,
chiến thắng lịch sử của thời kỳ
Quang Trung – Nguyễn Huệ mới chỉ
được các cộng đồng thuộc xã hội
dân sự tại Việt Nam công khai
tưởng niệm cách đây mới hơn nửa
thế kỷ. Nhà sử học Dương Trung
Quốc nhấn mạnh đến tính chất
lịch sử của việc phục hồi ký ức
về cuộc chiến 1789, mấy tháng
sau khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa tuyên bố độc lập. Đây
là một điều mà chắc còn ít người
biết đến.
Nhà sử
học Dương Trung Quốc
: Biên niên sử ghi nhận rằng,
lần đầu tiên người Việt Nam tổ
chức giỗ trận Đống Đa theo đúng
nghĩa, tức là kỷ niệm chiến
thắng của hoàng đế Quang Trung,
diễn ra vào năm 1946, tức là mùa
xuân độc lập đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Dẫu
sao, cuộc cách mạng tháng Tám
năm 1945 cũng là đỉnh cao của
tinh thần dân tộc, chống đô hộ
nước ngoài. Cho nên trong sử
sách hiện nay vẫn còn lưu lại
những hình ảnh, những bài báo
cho thấy rõ là, chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó đã
khai thác rất là triệt để những
yếu tố mang tinh thần dân tộc,
để động viên lòng yêu nước của
dân.
Mùa Xuân năm
Bính Tuất, Tết độc lập đầu tiên,
lần đầu tiên chúng ta giữ được
hình ảnh người dân lũ lượt kéo
đến gò Đống Đa để kỷ niệm ngày
chiến thắng Đống Đa. Đấy có thể
là một biểu trưng rất là tiêu
biểu, và kể từ đó trở đi, ngay
cả trong cái thời kỳ ta gọi là «
tạm chiếm », thì cái nếp tổ
chức giỗ trận Đống Đa, như là kỷ
niệm chiến thắng Quang Trung vẫn
được duy trì, và có thể nói từ
sau 1954 đến nay, nó là ngày lễ
trọng của Hà Nội nói riêng và
của Việt Nam nói chung. Cách đây
khoảng hơn 1 năm, tại ngôi chùa
Kim Mã, nơi trước kia cơ quan
văn hóa của Hà Nội đã làm một
tấm bia ghi nhận nơi đây chính
là nơi chôn cất các nghĩa sĩ Tây
Sơn, đã diễn ra lễ tưởng niệm
các nghĩa sĩ, cách không xa, nơi
diễn ra giỗ trận Đống Đa.
Tôi nghĩ rằng,
những giai đoạn lịch sử hiện đại
về sau của Việt Nam rất phức
tạp, với nhiều chế độ chính trị
khác nhau, nhưng tôi nghĩ, chính
thể nào cũng đều tôn vinh những
người yêu nước cả, đều tự hào về
truyền thống đánh giặc ngoại
xâm.
Bài học xưa :
Chiến tranh và Hòa bình
RFI
:
Thưa
ông, xin được hỏi ông một câu
dành cho những ai quan tâm sâu
hơn về lịch sử, liên quan đến
việc phục hồi hình ảnh Quang
Trung – Nguyễn Huệ, mà ông vừa
nói. Câu hỏi đặt ra ở đây là,
không biết vì sao hình tượng
Quang Trung và chiến thắng này
không được chính thức (hay công
khai) tôn vinh, mặc dù trong
thời kỳ trước năm 1945, việc làm
này không hẳn đã bị cản trở từ
phía chính quyền thuộc địa ?
Phải chăng điều này là do triều
đại nhà Nguyễn vẫn tiếp tục có
một ảnh hưởng nhất định đến tâm
lý của xã hội ?
Nhà sử
học Dương Trung Quốc
: Theo tôi được biết, trước năm
1945, chưa bao giờ có một hoạt
động công khai mang tính quốc
gia của nhà nước. Cho dù là nhà
nước thuộc địa, vì đằng sau
triều đại phong kiến vẫn còn tồn
tại. Mà chúng ta biết, do những
hệ lụy lịch sử, triều Nguyễn coi
Quang Trung là nghịch tặc, và
ngụy triều. Cho nên, chắc chắn
là việc tổ chức công khai có
tính quốc gia, sự tôn vinh đối
với Quang Trung, với Tây Sơn là
điều không thể xảy ra dưới triều
Nguyễn được. Còn người dân có
thể có cách biểu hiện của mình
một cách kín đáo, phù hợp với
hoàn cảnh lịch sử, thì việc này
có thể có.
RFI
: Thưa
ông, tại sao nhiều người lại cố
gắng phục dựng lại niềm tự hào
hoặc những kỷ niệm về thời đó
vào thời điểm bây giờ ?
Nhà sử
học Dương Trung Quốc
: Cũng như tôi nói, thời kỳ tồn
tại nhà Nguyễn cho đến năm 1945
thì mới chấm dứt, do những hệ
lụy lịch sử thì việc tôn vinh
Quang Trung có thể nói thẳng là
cấm kỵ, vì thế mà người dân thì
phải kín đáo (tưởng nhớ), bên
cạnh lễ hội của người Hoa, diễn
ra tại khu vực Đống Đa, mà người
Việt Nam cũng thừa nhận như một
dấu tích của chiến thắng của cha
ông xưa.
Chúng tôi biết
sau này, Sở văn hóa Hà Nội, trên
cơ sở các nghiên cứu sử học đã
ghi nhận địa điểm Chùa Kim Mã
lâu rồi. Đương nhiên, trong bối
cảnh (…) diễn ra một số động
thái đặc biệt liên quan đến Biển
Đông, trong quan hệ Việt Nam với
Trung Quốc, thì rõ ràng, như thế
phần nào nó kích thích, nó nhắc
nhở. Những hoạt động ấy chứa
đựng phần nào không khí thời sự.
Bên cạnh việc tiếp tục các lễ
hội (liên quan đến thời Tây Sơn)
gần như đã trở thành thường niên
diễn ra ở Đống Đa, việc tu sửa
và nâng cấp một số điểm tại chùa
Kim Sơn cũng là để bổ sung thêm,
làm cho lễ hội thêm phong phú,
và cũng nhắc nhở người Việt Nam
luôn nhớ đến bài học xưa.
Tôi cũng muốn
nói là, riêng đối với triều đại
Tây Sơn, lập được một chiến công
vô cùng hiển hách như thế, nhưng
chúng ta cũng phải thấy thêm một
khía cạnh nữa là bản thân nhà
Tây Sơn cũng luôn mong giữ được
sự hòa hiếu với Phương Bắc, để
bảo vệ sự tự chủ vững bền hơn,
mặc dù ông là người chiến thắng.
Và điều này cũng đáp ứng được
mong muốn của người dân được
sống trong hòa bình. Tôi nghĩ
đây cũng là một bài học không
nhỏ.
Thời Tây Sơn :
Rất nhiều dấu hỏi !
RFI
: Thưa
ông, những điều ông trình bày có
thể coi là các đóng góp để lại
của Quang Trung – Nguyễn Huệ,
đặc biệt là về mặt quân sự. Cũng
xin được hỏi ông về những nghiên
cứu trong thời gian gần đây có
những điểm gì mới, và hiện có
những điểm gì tồn nghi, hay
những điều cần khai phá trong
tương lai ?
Nhà sử
học Dương Trung Quốc
: Tôi nghĩ lịch sử là quá trình
nhận thức về khoa học, nhưng
đồng thời nó cũng gắn rất liền
với tâm thế của một quốc gia,
tức là những yếu tố mang tính
thời sự, mang tính chính trị
luôn luôn tác động vào. Như tôi
đã nói, kể từ sau khi triều đình
nhà Nguyễn không còn nữa, có thể
nói là việc nghiên cứu về Quang
Trung – Nguyễn Huệ - Tây Sơn
được giải phóng. Điều này diễn
ra trong tất cả mọi thể chế
chính trị ở Việt Nam tiếp theo
đó, kể cả trong chế độ Dân chủ
Cộng hòa ở miền Bắc, cũng như
trong chế độ Việt Nam Cộng hòa ở
miền Nam.
Tôi cũng đã
theo dõi các nghiên cứu của các
sử gia miền Nam trước 1975, thấy
được rất nhiều công trình nghiên
cứu có giá trị. Còn ở miền Bắc,
cũng có nhiều công trình. Có thể
nói nhìn chung, mối quan tâm đầu
tiên liên quan đến lịch sử quân
sự. Chúng tôi cũng ghi nhận là,
bên cạnh việc nghiên cứu, sự tôn
vinh đối với hoàng đế Quang
Trung và triều đại Tây Sơn tại
Việt Nam, có thể nói rất được
quan tâm.
Về việc nghiên
cứu, dù cá nhân tôi không phải
là chuyên gia, tôi cũng ghi nhận
là bên cạnh nghiên cứu theo góc
độ lịch sử quân sự, người ta
cũng bắt đầu quan tâm lĩnh vực
khác, các đóng góp khác, đặc
biệt là lý giải vì sao triều đại
Quang Trung được xây dựng trên
một nền tảng rất hoành tráng của
một cuộc khởi nghĩa nông dân,
thực hiện được mục tiêu thống
nhất quốc gia, rồi lại đánh bại
quân xâm lăng, rồi lại ngắn ngủi
như vậy ?
Ngay cả những
« phát triển » trong nội bộ ba
anh em Quang Trung cũng là một
bài học lớn của lịch sử.
Có thể nói cho
đến giờ, việc nghiên cứu những
gì liên quan đến nhà Tây Sơn vẫn
là một điều hấp dẫn nhiều nhà sử
học, nó cũng đòi hỏi việc nghiên
cứu ngày càng đi vào chiều sâu
hơn, để có thể rút ra được các
bài học lịch sử đối với một
triều đại tuy ngắn ngủi, nhưng
hết sức vẻ vang hoành tráng, và
cũng để lại nhiều dấu hỏi không
dễ dàng giải đáp được.
"Việt Thanh chiến
dịch" - một đóng góp mới
Thời kỳ
Tây Sơn và các hoạt động của cá
nhân nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ
- Quang Trung, như nhà sử học
Dương Trung Quốc nhận xét, đặt
ra nhiều câu hỏi.
Trong những
năm gần đây, có một số nghiên
cứu đã được đẩy mạnh theo hướng
phục dựng lại hiện thực lịch sử
rất phức tạp của giai đoạn này,
bên cạnh cuốn "Lịch sử nội
chiến Việt Nam (1771-1802)"
của sử gia Tạ Chí Đại Trường
(hoàn thành năm 1973 và được tái
bản nhiều lần từ năm 1991 đến
nay), chúng tôi xin trân trọng
giới thiệu với quý thính độc giả
nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn
Duy Chính (California - Hoa Kỳ),
đặc biệt là cuốn biên khảo "Việt
Thanh chiến dịch", mới hoàn
tất vào đầu năm 2011. Trong cuốn
sách này, nhà sử học Nguyễn Duy
Chính đã đặc biệt dựa vào các
văn bản trao đổi của triều đình
nhà Thanh với quan lại địa
phương trong thời kỳ này, được
tập hợp trong bộ "Khâm định
An Nam kỷ lược" (Nhà xuất
bản Hải Nam - Trung Quốc - ấn
bản năm 2000), để đối chiếu với
các tư liệu phía Việt Nam và
quốc tế. Nhiều phát hiện và
hướng nghiên cứu mới, thậm chí
những cách nhìn rất khác, đã mở
ra từ cuốn sách này. Theo đánh
giá của một số chuyên gia, đây
là một công trình tiếp nối
truyền thống nghiên cứu sử học
xuyên quốc gia, ở Việt Nam được
mở ra đặc biệt với tác phẩm của
Hoàng Xuân Hãn "Lý Thường
Kiệt, lịch sử ngoại giao và tông
giáo triều Lý" (1949).
Nhân dịp đầu năm, xin kính gửi
đến quý thính độc giả lời chúc
hạnh phúc và thành công.
Xin chân thành cảm ơn hai nhà
nghiên cứu Nguyễn Nhã và Dương
Trung Quốc đã vui lòng dành thời
gian cho tạp chí hôm nay.