Nhìn ra biển bằng con mắt luật biển

Vietsciences-Nguyễn Hồng Thao               03/03/2012

 

Có những câu chữ lý sự tưởng như khô khan làm tôi ứa nước mắt. Đó là những trang văn khoa học viết về chủ quyền biển đảo Tổ quốc của TS Nguyễn Nhã, của TS Nguyễn Hồng Thao và của nhiều tác giả nữa...

Mấy hôm nay tôi trò chuyện qua thư điện tử với TS Nguyễn Hồng Thao, người từng mặc áo lính thuộc đơn vị Hải quân có tiền thân là “Đoàn tầu Không số”, là tiến sĩ luật biển tại ĐH Paris I Pantheon – Sorbonne, giảng viên thỉnh giảng ở Học viện Ngoại Giao, Khoa Luật ĐHQG, Đại học Paris VII Denis Diderot..., tác giả cuốn “Việt Nam và các tranh chấp biển trong Biển Đông” được giải thưởng quốc tế INDEMER của Viện Nghiên cứu biển Monaco dành cho các tác phẩm viết về luật biển bằng tiếng Pháp xuất sắc nhất.

TS Nguyễn Hồng Thao.
TS Nguyễn Hồng Thao.

Điều anh nhớ nhất về biển thời trai trẻ?

- Tuổi thơ tôi lớn lên và học tập ở Hải Phòng. Gió biển, muối biển ngấm dần, tạo nên một tình yêu biển. Nhập ngũ, tôi về căn cứ Lữ đoàn Hải quân 125 với truyền thống “đoàn tầu không số” hai lần đơn vị anh hùng. Tàu chúng tôi vận chuyển lương thực, thư từ tình cảm từ đất liền cho chiến sĩ Trường Sa. Khi tình hình căng lên thì chủ yếu vận chuyển thay quân. Thuở đó, đối với chúng tôi, đi Trường Sa lần đầu chưa bắt được đảo, dẫn tàu đến đúng vị trí thì chưa được coi là cán bộ chỉ huy tàu. Đảo thì nhỏ, thấp lúp xúp, phương tiện định vị thời đó lại là la bàn từ đã cũ và trông vào tài nhìn trăng ngắm sao định hướng. Quần đảo Trường Sa Lớn, tách biệt hai phần, giữa là biển sâu, nhiều đá ngầm nguy hiểm.

Lúc trước, tàu hải quân chỉ đi hoặc cụm Bắc Trường Sa hoặc cụm Nam Trường Sa. Năm 1984 tôi phụ trách hoa tiêu tàu HQ512 đi chuyến mở đường nối liền hai cụm đảo. Sau hơn chục ngày lênh đênh, tôi đã neo tàu tại Bãi Thuyền Chài, lúc đó còn chưa đóng quân. Bỗng bắt được sóng Đài TNVN, nghe câu hò ví dặm, tất cả chúng tôi quê từ Nam chí Bắc đều khóc, Tổ quốc thật bình dị, thật gần với đảo xa. Có lẽ từ phút giây đó, đời tôi gắn với Hoàng Sa - Trường Sa, dù sau này có chuyển công tác thì tim óc vẫn cứ vang tên Hoàng Sa - Trường Sa... 

Từ chàng lính biển trở thành sinh viên đại học Sorbonne đã khó hình dung, anh còn học môn Luật biển bằng tiếng Pháp. Làm sao anh làm được chuyện “tày trời” như thế?

- Số phận cả. Phục viên, tôi được cử đi học Luật quốc tế ở Pháp, chỉ với “hành trang” học tiếng... ba tháng. Lúc đó luật biển còn là lĩnh vực mới mẻ, ít người theo học. Tôi hiểu rằng học luật ở Pháp là thời cơ, nhưng học luật qua tiếng Pháp không dễ. Lịch trình của tôi chỉ là từ nhà đến lớp rồi thư viện. Đến nỗi sau này các bạn trong trường và thủ thư muốn tìm nhanh một quyển sách họ cần thì tốt nhất là hỏi tôi nó ở đâu, bìa màu gì... Có lẽ tình yêu biển, lòng mong muốn được cống hiến cho Hoàng Sa - Trường Sa và sự giúp đỡ của những người thầy nổi tiếng như GS Quenedec và Lucchini, của những người bạn Pháp thân thiện đã giúp tôi trụ được trên Khu phố Latin, là khu phố trường ĐH Sorbonne – Paris được biết nhiều trong các tác phẩm văn học Pháp.

Khi nhìn bảng điểm thấy mình đỗ đầu cả hai khóa, khóa thạc sĩ Luật quốc tế và Tổ chức quốc tế của trường ĐH Paris I Pantheon – Sorbonne và khóa thạc sĩ Lịch sử và Triết học (1993), tôi cũng không thể tin nổi. Với kết quả này, tôi được làm nghiên cứu sinh, đề tài “Việt Nam đối mặt với sự mở rộng biển trong Biển Đông” (tên quốc tế - biển Nam Trung Hoa). Vấn đề mở rộng biển là vấn đề mới trong quan hệ quốc tế, nhất là sau Hội nghị của Liên Hợp Quốc lần thứ ba về Luật biển. Công ước của Liên Hợp Quốc về luật biển cũng chưa có hiệu lực và đang có sự lưỡng lự giằng co trong quan điểm của các quốc gia ven biển về vấn đề này. Đây cũng là một vấn đề nhạy cảm trong quan hệ Việt Nam với các nước láng giềng. Luật biển Việt Nam đang trong giai đoạn thành hình, vừa làm vừa phát triển. Sau các cuộc binh đao, đất nước đang rất cần sự ổn định để phát triển, mà giải quyết hòa bình các tranh chấp biển là một mục tiêu chiến lược. Đề tài luật biển Việt Nam hầu như không có tài liệu, mà có cũng khó tiếp xúc.

Tôi đặt cho mình nhiệm vụ sẽ nghiên cứu, khái quát hóa tất cả lịch sử phát triển của luật biển Việt Nam từ thời dựng nước đến nay, các tranh chấp, quan điểm của Việt Nam và đề xuất cách giải quyết trên cơ sở luật pháp quốc tế. Lúc bắt tay vào mới thấy ngợp thở. Viết được vài chục trang đầu, hớn hở đưa lên thầy, ông ấy vứt luôn vào sọt rác: ý tưởng ngô nghê, ngữ pháp lộn xộn! Tôi viết đi viết lại vài chục lần, nhờ cả các anh chị trí thức Việt kiều sửa văn tiếng Pháp. Tôi rất cảm ơn các thầy của tôi, như GS Monique Chemillier Gendreau, GS Joel Nguyễn Duy Tân, các bạn bè Pháp, anh Nguyễn Hương và cộng đồng Việt Nam ở Paris đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành luận án dày hơn 1000 trang. Buổi bảo vệ, người đến ủng hộ rất đông, vì như GS Joel Nguyễn Duy Tân, một người con dâu Pháp, phát biểu đây là buổi bảo vệ luận án tiến sĩ luật đầu tiên tại Pháp của sinh viên đến từ CHXHCN Việt Nam. Tôi chả muốn là đầu tiên, nhất là khi trình độ mình còn hạn chế. Song đã vào cuộc thì phải hết mình. Buổi bảo vệ thành công. Hội đồng giám khảo đã dành cho công trình phần thưởng cao nhất: điểm đánh giá xuất sắc nhất với lời khen của Hội đồng Giám khảo. Giây phút đó, tôi nhớ đến gia đình đã xa lâu rồi, nhớ những kỷ niệm Trường Sa, và như nghe văng vẳng bài hát quen thuộc thời mặc áo lính biển, “Gần lắm Trường Sa”...

Năm 2000 trên cơ sở luận án, tôi bổ sung tư liệu cập nhật, viết cuốn “Việt Nam và các tranh chấp biển trong Biển Đông”, tập trung nhiều vào Hoàng Sa, Trường Sa. Cuốn sách được giải thưởng quốc tế INDEMER của Viện Nghiên cứu biển Monaco cho các tác phẩm viết về luật biển bằng tiếng Pháp xuất sắc nhất. Nỗi vui lớn nhất của tôi lúc ấy không hẳn vì giải thưởng mà còn là sự đánh giá quốc tế về những lập luận bảo vệ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Cho đến bây giờ đó vẫn là tác phẩm duy nhất viết về Hoàng Sa, Trường Sa nhận được giải thưởng quốc tế.

Lý do nào, tầm nhìn nào mà anh chọn học Luật biển?

- Lý do thì nhiều, cả định mệnh nữa. Nhưng trong đó có món nợ với đồng đội lính thủy Lữ đoàn 125 và các đơn vị hải quân khác đã ngã xuống trong những ngày tháng Ba năm 1988 trên Gạc Ma, Len Đao, Colin. Cũng có thể nói chính luật biển đã chọn tôi một khi tôi muốn đóng góp phần “hạt cát” trong giải quyết các tranh chấp biên giới lãnh thổ, trong đó có các tranh chấp biển. Có khá nhiều công trình nghiên cứu của nước ngoài về các tranh chấp biên giới lãnh thổ liên quan đến Việt Nam. Người ủng hộ có, người phê phán có nhưng tất cả ít nhiều đều có những cái nhìn phiến diện, chưa thật sát với cách suy nghĩ, tình cảm, giải quyết của người Việt.

Trong khi đó các công trình nghiên cứu viết bằng tiếng Anh của người Việt ở lĩnh vực này còn khiêm tốn. Nếu chúng ta không tự mình giải quyết những vấn đề của chúng ta, không giải thích với thế giới, không thể hiện rõ quan điểm của chúng ta thì ai sẽ làm hộ chúng ta. Thế giới quan tâm nhiều đến Biển Đông, có cả một thuật ngữ “các nhà Trường Sa học” nhưng trong số đó không có tên người Việt nào. Năm 1996, Phan Thạch Anh (Pan Shiying) có bài “The petropolitics of the Nansha islands – China’s indisputable legal case” (Chính trị dầu mỏ của các đảo Nam Sa – lập luận pháp lý không thể tranh cãi của Trung Quốc) đăng trên Economic Information & Agency, tháng 7 năm 1996, được giới nghiên cứu quan tâm. Thấy các lập luận của Phan Thạch Anh không đúng với luật quốc tế, tôi viết hai bài đáp trả bằng tiếng Anh tự học. Bài đầu phân tích chiến lược hải dương của ông phương Bắc này: “Về cái gọi là lãnh thổ xanh bị gặm nhấm” (About the alleged grabbed blue territory) đăng trên Vietnamese Law Journal, N05 (7) - 1996. Sau đó là bài trực diện “China’s ‘nine broken lines’ in the Bien Dong Sea (South China Sea) in the light of international law” (Đường đứt khúc 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông dưới ánh sáng luật quốc tế) đăng trên Vietnam New, ngày 18.4.1997 N02073 (265).

Để tiếng nói người Việt về Biển Đông được ra quốc tế, tôi viết bài gửi tạp chí Ocean Development & International Law (ODIL), tạp chí được giới nghiên cứu Luật biển coi trọng. Viết bài mất chừng một tháng, nhưng thời gian thư từ qua lại hiệu đính, kiểm tra từng chú thích một phải mất đến sáu, bảy tháng mới được xếp vào hàng chờ, mà chưa biết có được đăng hay không vì phải có ý kiến của hội đồng những nhà nghiên cứu luật biển tên tuổi. Cũng chẳng có đồng nhuận bút nào, vì với tạp chí ODIL, “nhuận bút” chính là vinh dự được đăng bài trên tạp chí. Mỗi tác giả được nhận 25 bản trích riêng bài viết của mình để tặng bạn bè thôi. Với tôi, “nhuận bút” lớn nhất là dòng chú thích “Việt Nam” bên cạnh tên các nước, là được lên tiếng nói đấu tranh cho Tổ quốc, cho Hoàng Sa -Trường Sa của mình trên trường quốc tế. Cứ vậy, tôi đặt mục tiêu mỗi năm đăng được một bài trên ODIL.

Đến giờ tôi đã có một “gia tài” kha khá trên ODIL. Cái khó nhất là bài viết phải có cái mới, phải dự báo được phần nào tiến triển của các sự việc. Vào thời điểm không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới có rất ít bài viết liên quan đến lập trường của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp ở Biển Đông, năm 2001 tôi đăng bài “Vietnam and the Code of Conduct for the South China Sea” (Việt Nam và Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông) trên ODIL (vol. 32, number 2-2001), đưa ra dự đoán những bước đi tiếp theo, trên quan điểm cá nhân tôi.

Để góp ý với ngành Luật biển tại các ĐH trong nước, anh sẽ nói gì?

- Việt Nam là một đất nước biển. Quyền lợi biển của đất nước không chỉ nằm trong Biển Đông mà còn được mở rộng ra đáy đại dương, vùng biển di sản của loài người, tới các vùng biển cả quốc tế. Đất nước đang rất cần những người con hiểu biết sâu về luật biển, không chỉ quản lý tốt và bảo vệ vùng biển của đất nước mà còn cùng cộng đồng quốc tế quản lý các đại dương. Luật biển không chỉ dành cho các sinh viên trường luật mà kiến thức luật biển cần cho tất cả những người tham gia sử dụng, quản lý và bảo vệ biển, từ nhà nghiên cứu hải dương, chiến sĩ hải quân, cán bộ dầu khí, tới các ngư dân bám biển ngày đêm. Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư cho công tác tuyên truyền biển đảo, đào tạo cán bộ.

Bên cạnh đào tạo chiều rộng, theo tôi, cần quan tâm đào tạo chiều sâu; cần sớm có kế hoạch đưa được người Việt vào các hoạt động của Tòa án Công lý quốc tế, Tòa án Luật biển quốc tế, các Tòa trọng tài quốc tế, cơ quan quyền lực đáy đại dương, Ủy ban Ranh giới thềm lục địa. Còn rất nhiều khoảng trống ở phía trước để sáng tạo. Gần đây anh Nguyễn Đăng Thắng, một nghiên cứu sinh tại ĐH Cambridge đã có bài viết đăng trên ODIL tháng 2.2012, được giới chuyên môn đánh giá cao. Anh Dương Danh Huy, TS vật lý tại Anh đã đăng những bài viết về luật biển sắc sảo.

Tôi tin thế hệ trẻ Việt Nam sẽ dần chiếm lĩnh những đỉnh cao khoa học, trong đó có luật quốc tế và luật biển. Chương trình luật biển tại các trường ĐH cần có sự kết hợp hài hòa giữa lý thuyết và những vấn đề thực tiễn hiện đang xảy ra trên Biển Đông và đòi hỏi phải đưa ra giải pháp. Phải có nhiều sách giáo khoa, sách tham khảo cho sinh viên. Cần cử sinh viên đi đào tạo và thực tập tại những cơ sở luật pháp, các hãng luật tên tuổi ở nước ngoài. Có như vậy chúng ta mới nhanh chóng hòa nhập với cộng đồng nghiên cứu khoa học quốc tế, đóng góp được nhiều hơn cho sự nghiệp bảo vệ, quản lý biển đảo của đất nước, trong đó có Hoàng Sa – Trường Sa.

- Cám ơn anh và mong sớm được đọc tác phẩm “Việt Nam và các tranh chấp biển trong Biển Đông” bằng bản tiếng Việt!

Vĩnh Quyền thực hiện

 

            http://vietsciences.free.fr  và http://vietsciences.org