|
1. Từ họ Lý ra họ Nguyễn
Đầu năm 1226 (tháng 12 năm Ất Dậu), Trần Thủ Độ
tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi tức Trần
Thái Tông (trị vì 1226-1258), lập ra nhà Trần (1226-1400).
Nguyên Trần Thủ Độ ép vua Lý Huệ Tông (trị vì
1211-1224) nhường ngôi cho người con gái mới sáu tuổi là Chiêu Thánh
công chúa tháng Mười năm giáp thân (cuối 1224), tức Lý Chiêu Hoàng
(trị vì 124-1225). Lý Huệ Tông lên làm thái thượng hoàng, xuất gia
đi tu tại chùa Chân Giáo, pháp danh là Huệ Quang thiền sư. Trần Thủ
Độ sắp đặt cho con cháu của mình là Trần Cảnh, mới tám tuổi, cưới Lý
Chiêu Hoàng. Chiêu Hoàng lại nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức
Trần Thái Tông.
Để củng cố nhà Trần, Trần Thủ Độ kiếm cách tiêu
diệt tất cả con cháu nhà Lý. Việc đầu tiên là Trần Thủ Độ bức tử
thượng hoàng Lý Huệ Tông. Một hôm ngang qua chùa Chân Giáo gặp thiền
sư Huệ Quang đang nhổ cỏ trong vườn, Trần Thủ Độ nói rằng: "Nhổ cỏ
phải nhổ hết rễ cái". Nghe thế thầy Huệ Quang trả lời: "Lời nhà
ngươi nói ta hiểu rồi". Sau đó, Trần Thủ Độ cho người mời thầy Huệ
Quang vào triều bàn việc. Huệ Quang biết ý, vào sau chùa thắt cổ tự
vận. (1)
Trần Thủ Độ ra lệnh đem gả các cung nhân và con
gái họ Lý cho các tù trưởng các bộ tộc ít người ở các vùng núi xa
xôi miền biên viễn. Tháng tư năm nhâm thìn (1232), nhân việc ban chữ
húy về tiên tổ họ Trần, ông nội của Trần Thái Tông tên là Trần Lý,
nên Trần Thủ Độ đưa ra biện pháp quyết liệt là buộc con cháu họ Lý
phải đổi thành họ Nguyễn.
Gần cuối năm nhâm thìn (1232), tôn thất nhà Lý
tập trung làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm (nay thuộc
Bắc Ninh). Trần Thủ Độ cho làm nhà tế lễ bằng tre lá trên một cái
hầm, khi con cháu nhà Lý tập trung hành lễ, Trần Thủ Độ ra lệnh chôn
sống hết con cháu nhà Lý để dứt điểm một vấn đề làm cho Trần Thủ Độ
lo lắng bấy lâu nay. Sau cuộc thanh trừng khủng khiếp này, con cháu
nhà Lý không còn dám về Bắc Ninh làm lễ tế hàng năm, và họ thay tên
đổi họ sống lẫn khuất trong dân gian để tránh bị tiêu diệt. (2)
Đặc biệt hoàng tử Lý Long Tường, con trai thứ của
Lý Anh Tông đã bỏ nước ra đi năm 1226, cùng đoàn tùy tùng khoảng 40
người vượt biên sang lập nghiệp ở Triều Tiên hay Cao Ly tức Korea.
Tám trăm năm sau, con cháu của hoàng tử này đã về Việt Nam thăm lại
đất tổ. (3)
Một câu hỏi cần được đặt ra là tại sao triều đình
nhà Trần buộc họ Lý đổi thành họ Nguyễn mà không qua họ khác ?. Điều
này rất khó trả lời vì không có tài liệu cụ thể, chỉ biết được rằng
họ Nguyễn là một dòng họ ít người bên Trung Hoa, và ngược lại họ
Nguyễn có nhiều và có sớm ở nước ta. (4) Phải chăng Trần
Thủ Độ muốn cho họ Lý hòa lẫn trong số đông người Việt rải rác khắp
nước ?
2. Họ Trần qua họ Trình
Để quân Minh chóng rút về nước, cuối năm 1427, Lê
Lợi chấp nhận giải pháp hòa bình trong danh dự cho cả hai bên: trước
đây quân Minh xâm lăng nước ta dưới chiêu bài "phù Trần diệt Hồ",
nay Lê Lợi đồng ý đưa Trần Cao lên ngôi, xem như quân Minh viễn
chinh đã đạt được mục đích ban đầu là đưa người họ Trần trở lại ngôi
báu, nay rút về nước trong vinh quang. (5)
Sau khi quân Minh về nước, Trần Cao biết thân
phận mình, bỏ trốn về châu Ngọc Ma (Nghệ An), nhưng bi bắt lại, và
uống thuốc độc chết. Lê Lợi lên ngôi vua, tức Lê Thái Tổ (trị vì
1428-1433).
Lê Thái Tổ được nước không do một cuộc đảo chánh
cung đình mà do công lao chiến đấu của chính ông và gia đình, nên
ông ít có thái độ kỳ thị với họ Trần là họ cầm quyền trước đó. Ông
có một sách lược rất khôn khéo là ban quốc tính rộng rãi cho các
công thần. Ngay khi vừa lên ngôi năm 1428, Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho
ghi chép công trạng của những người đã theo vua khởi nghĩa, ban chức
tước và quốc tính (họ của nhà vua) cho 221 người. Đây là đợt ban
quốc tính nhiều nhất trong lịch sử nước ta, đến nỗi vua Tự Đức đã
lên tiếng chê rằng "... cho quốc tính nhiều quá như thế nầy thì nhàm
lắm". (6)
Việc làm nầy của Lê Thái Tổ bề ngoài xem ra là
một đặc ân, nhưng thật sự là một thủ đoạn chính trị ràng buộc các
công thần bằng cách đồng hóa các quan vào họ nhà vua để dễ kiểm soát
nhằm tránh hậu hoạn. Lê Thái Tổ là một người rất đa nghi. Những công
thần đã cùng ông dày công đóng góp cho công cuộc giải phóng đất nước
mà có bất cứ một biểu hiện nào khả nghi tức thì bị Lê Thái Tổ tiêu
diệt ngay.
Nạn nhân đầu tiên là Lê Hãn tức Trần Nguyên Hãn.
Trần Nguyên Hãn dòng dõi Trần Nguyên Đán, lập nhiều chiến công thời
kháng Minh, được phong Hữu tướng quốc và họ Lê năm 1428, sau khi Lê
Thái Tổ cầm quyền. Lê Hãn cho rằng "nhà vua có tướng như Việt Vương
Câu Tiễn, không thể cùng hưởng yên vui sung sướng được", nên ông bắt
chước Trương Lương, xin rút lui về hưu dưỡng. "Cây muốn lặng mà gió
chẳng ngừng", khi Lê Hãn về ấp Sơn Đông (Sơn Tây ngày nay) hưu
dưỡng, ông vẫn bị gièm pha là mưu toan làm phản. Lê Thái Tổ ra lệnh
cho người đến bắt. Khi thuyền đến bến sông Sơn Đông, Lê Hãn tự trầm
mình qua đời (7) Dĩ nhiên việc trầm mình nầy cũng là một
dấu hỏi lớn không bao giờ được trả lời.
Sau Lê Hãn đến Lê Văn Xảo tức Phạm Văn Xảo, bị Lê
Thái Tổ nghe lời gièm pha ra lệnh phải chết và tịch thu nhà cửa cuối
năm 1430. Dưới triều con của Lê Thái Tổ là Lê Thái Tông (trị vì
1434-1442), thêm ba vị đại công thần bị giết là Lê Nhân Chú (1434),
Lê Sát (1437), và Lê Ngân (1437). Ngoài ra còn có Lê Khả và Lê Khắc
Phục bị triệt hạ vào năm 1451 thời vua Lê Nhân Tông (trị vì
1443-1459).
Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh phản đảo
chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (trị vì 1460-1497) được sử
sách đánh giá là một minh quân, nhưng lại đi vào vết xe của nhà
Trần. Vừa cầm quyền được hai tháng, Lê Thánh Tông hạ chiếu ra lệnh
đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu.
Bà nầy tên huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lội
Dương (Thanh Hóa), vợ của Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà
nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng bà nội của mình tên Trần nên
yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ "Trần" đều phải đổi
chép thành chữ "Trình". (8)
Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê Thái Tông và
Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại
kỵ huý ? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê
Thái Tông bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật
đổ và bắt giết năm 1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần
Thủ Độ trước đây) để tách ảnh hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa
con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng tình hình để phục hồi triều
đại cũ.
Dầu sao, Lê Thánh Tông chưa đi đến chỗ quyết liệt
như Trần Thủ Độ, nghĩa là Lê Thánh Tông vẫn chưa tận diệt họ Trần,
và để cho những người họ Trần giữ những chức quan nhỏ như trong đoàn
sứ thần gởi sang nhà Minh năm nhâm ngọ (1462) có Trần Bàn, hoặc
trong viện Khâm hình của triều đình lúc đó có Trần Phong, nhưng
không thấy có nhân vật nào họ Trần giữ chức vụ quan trọng mãi đến
thời kỳ loạn lạc sau khi Mạc Đăng Dung đảo chánh (1527) mới thấy vài
nhân vật họ Trần xuất hiện trở lại trên sân khấu chính trị nước ta.
3. Họ Mạc đổi thành nhiều họ
Mạc Đăng Dung thuộc dòng dõi Mạc Đỉnh Chi, đỗ cử
nhân võ và làm đô chỉ huy sứ năm 1508 (mậu thìn), nhờ thời thế dần
dần được các vua nhà Lê tin dùng, thăng dần lên chức thái phó tiết
chế các doanh quân thủy bộ, tước Nhân Quốc Công triều vua Lê Chiêu
Tông (trị vì 1516-1522). Quyền hành càng ngày càng lớn, Mạc Đăng
Dung lấn ép vua Lê và cuối cùng đảo chánh lật đổ vua Lê Cung Hoàng
(trị vì 1522-1527), tự mình lên làm vua tức Mạc Thái Tổ (trị vì
1527-1530) lập ra nhà Mạc.
Nhà Mạc cầm quyền từ thời Mạc Thái Tổ đến thời
Mạc Mậu Hợp (trị vì 1562-1592), truyền được năm đời trong 65 năm.
Trong lịch sử, họ Mạc bị lên án về các lỗi lầm sau đây:
-
Tổ chức đảo chánh lật đổ nhà Lê, không trung
quân (1527).
-
Đầu hàng nhà Minh và cắt đất chia cho nhà
Minh (1540).
Trước hết, bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng đều
có phản ứng cả. Từ Lê Hoàn, Trần Thủ Độ đến Lê Quý Ly, tất cả đều bị
những cựu quan bảo thủ của triều trước, mất quyền lợi đứng lên phản
đối. Mạc Đăng Dung cũng nằm trong trường hợp đó.
Thứ đến, chúng ta cần chú ý: ai là người đã lên
án gắt gao họ Mạc ? Câu trả lời rất rõ ràng là các sử quan nhà Lê
trung hưng là những người đầu tiên lên án họ Mạc. Việc nầy rất dễ
hiểu vì nhà Mạc dẹp nhà Lê, nay trung hưng được thì nhà Lê kết tội
nhà Mạc. Sau đó là các sử quan nhà Nguyễn vì nhà Nguyễn không muốn
ai lật đổ ngôi báu của mình nên lên án tất cả những ai đã tổ chức
đảo chánh cung đình.
Nhưng "ở đời muôn sự của chung", một triều đại
(chính quyền) yếu đuối, kém khả năng cần được thay thế bằng một
triều đại (chính quyền) khác hữu hiệu hơn để cai trị nước, đó là lẽ
tự nhiên, nên việc đảo chánh của Mạc Đăng Dung không đáng bị lên án
như các sách vở trước đây đã làm.
Việc đầu hàng nhà Minh và cắt đất xin hàng cần
được xét lại trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Sau khi nhà Lê mất ngôi,
hai vị cựu thần nhà Lê là Trịnh Ngung và Trịnh Ngang chạy qua nhà
Minh tố cáo hành động của Mạc Đăng Dung và xin nhà Minh đưa quân qua
hỏi tội họ Mạc năm 1529 (kỷ sửu). (9)
Năm 1533 (quý tỵ), Nguyễn Kim tìm được con của Lê
Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lập lên làm vua là Lê Trang Tông (trị vì
1533-1648) trong lúc đang lưu vong tại Ai Lao. Lê Trang Tông sai
Trịnh Duy Liễu cùng hơn mười người đi đường biển từ Chiêm Thành theo
thuyền buôn Quảng Đông tới Trung Hoa xin thỉnh cầu nhà Minh xuất
quân đánh nhà Mạc. Năm 1536 (bính thân), một lần nữa Lê Trang Tông
sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc.
Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về
đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị
một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà
Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem binh
mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh
một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ
một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như
thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái
thượng hoàng, đành chấp nhận đầu hàng và chấp nhận hy sinh danh dự
cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của
Mạc Thái Tổ, nước ta trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng
trong thực tế vẫn độc lập một phương, vua Mạc vẫn cai trị đất đai từ
Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị.
Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ
Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại
được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô
hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng nầy, Mạc Đăng
Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng
Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung
Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai
chịu chia xẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng
Dung rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa
được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541.
Cuối cùng việc cắt đất nghe ra khá to lớn, nhưng
đó chỉ là năm động của những sắc tộc ít người nằm ở vùng biên giới
Hoa Việt: Ty Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, và La Phù thuộc châu
Vĩnh An, ở Yên Quảng. Chúng ta cần chú ý là những sắc tộc ít người
sinh sống trong các động dọc biên giới Hoa Việt không nhất định về
theo chính quyền Trung Hoa hay Đại Việt, mà chỉ bên nào mạnh thì họ
triều cống để được yên thân. Do đó, việc cắt đất nầy chỉ có tính
cách giấy tờ chứ trên thực tế là bên nào mạnh họ theo.
Trong khi đó, sau khi trở về Thăng Long, năm 1596
vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn
của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét,
nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp.
Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp
quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần
nữa mới được hội kiến. (10) Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn
việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540.
Vì quá ham lên án nhà Mạc, sử sách lơ là những
công trạng đáng nhớ của nhà Mạc. Sau khi Trịnh Tùng chiếm lại Thăng
Long, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, rồi chạy sang Trung Hoa. Trước khi
từ trần năm 1594, đại tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn để thư lại dặn
vua Mạc Kính Cung: "... Họ Lê lại trung hưng, đó là số trời. Còn như
dân ta là người vô tội, sao lại nỡ để cho dân mắc vào vòng mũi tên
hòn đạn lâu mãi như vậy! Chúng ta nên lánh ở nước khác, cốt phải cẩn
thận giữ gìn, đừng lại cố sức chiến đấu với họ nữa. Lại dứt khoát
chớ có đón rước người Minh kéo sang nước ta để đến nỗi dân ta phải
lần than khốn khổ ..." (11)
Đây không phải lời nói suông trong cảnh trà dư
tửu hậu, nhưng đây là tâm huyết của một con người sắp nằm xuống
trong cơn hoạn nạn cùng cực vì mất nước. Suốt trong lịch sử Việt
Nam, chúng ta thường được nghe những lời nói của Trần Hưng Đạo, Trần
Bình Trọng, Đặng Dung, hào hùng như vó ngựa tổ tiên, nhưng ít khi
được đọc những dặn dò như Mạc Ngọc Liễn, nhân bản, đầy tình tự dân
tộc không khác gì lời ru êm ái trong những câu ca dao mộc mạc.
Điểm quan trọng nhất là con cháu nhà Mạc đã không
kêu nài van xin người Minh đem quan sang đánh nước ta giống như nhà
Lê đã làm. Họ chỉ yêu cầu nhà Minh can thiệp cho họ về sinh sống đất
Cao Bằng. Chính họ đã góp công phát triển Cao Bằng, tạo thế đoàn kết
kinh thượng và biến Cao Bằng thành một vùng biên giới vững chắc để
chống lại Trung Hoa. Công trạng nầy tuy không rực rỡ như đường về
phương nam của chúa Nguyễn, nhưng sử sách cũng không thể quên tuyên
dương họ Mạc.
Khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long, trung hưng
nhà Lê (1593), con cháu họ Mạc tẩu tán khắp nước, một số lên Cao
Bằng, một số chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An ẩn trốn, và một số vào Nam
theo chúa Nguyễn. Con cháu họ Mạc đổi ra rất nhiều họ khác nhau.
Sách Thế phả ghi rõ là con của Mạc Đăng Doanh, em của Mạc Kính Điển
là Mạc Cảnh Huống vào Nam theo Nguyễn Hoàng, sau con là Mạc Cảnh
Vinh đổi là Nguyễn Hữu Vinh. (12) Không những chỉ một họ
Nguyễn, mà chắc chắn còn nhiều họ khác nữa. Trước đây, những họ nầy
không lên tiếng vì một mặt sợ các chính quyền quân chủ trả thù, và
một mặt việc sử sách lên án triều đại nhà Mạc ít nhiều gây những ưu
phiền cho con cháu họ nhà nầy. Hy vọng sẽ có một ngày nào đó, con
cháu những họ nầy thấy rõ rằng nhà Mạc không đáng bị lên án như
người ta đã làm xưa nay, bỏ qua những ưu phiền không đáng, sẽ lên
tiếng để tìm về gốc gác ông bà mình.
Qua ba cuộc đổi họ trên đây, lý do chính đưa đến
việc đổi họ là do tiên tổ các họ nầy đã lên nắm chính quyền, lập
triều đại, sau bị truất phế và bị nghi ngờ nên con cháu bị bắt buộc
phải đổi họ. Ngược lại, trong lịch sử nước ta, có một dòng họ lớn từ
thời Ngô Quyền lập quốc cho đến nay không thay đổi mà mỗi ngày một
phát triển, hưng thịnh. Đó là họ Nguyễn Phúc ở Gia Miêu ngoại trang,
phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
4. Một họ lớn không thay đổi
Theo Thế phả, "Đức Định Quốc Công huý là Nguyễn
Bặc, thân phụ và thân mẫu của ngài không được rõ, ngài được xem là
thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Phúc." (13)
Nguyễn Bặc (924-979) là bạn chí thân từ thuở hàn
vi và là cận thần của Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng (trị vì
968-979). Khi Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, Nguyễn Bặc được phong
Định Quốc Công, đứng đầu các công thần. Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị
ám sát, Nguyễn Bặc bắt giết ngay kẻ thích khách là Đỗ Thích, và tôn
phò con của Đinh Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh Tuệ. Lê Hoàn có ý làm
phản nhà Đinh, Nguyễn Bặc chống đồi, cầm quân đánh Lê Hoàn, nhưng bị
Lê Hoàn bắt giết.
Theo sách Thế phả, tức sách gia phả của dòng họ
nầy, từ thời Nguyễn Bặc cho đến ngày nay, thời nào họ Nguyễn ở Gia
Miêu ngoại trang (Thanh Hóa) cũng đều có người giữ những địa vị cao
trong các triều đại, và thường được phong tước công. Chỉ có một thay
đổi nhỏ so với lúc ban đầu là họ nầy lót thêm chữ "Phúc" vào thế kỷ
16. Tương truyền rằng khi sắp sinh, vợ của Nguyễn Hoàng nằm mộng
thấy thần nhân cho một tờ giấy viết đầy chữ "Phúc". Có người đề nghị
bà lấy chữ "Phúc" đặt tên cho con, thì bà trả lời rằng: "Nếu đặt tên
cho con thì chỉ một người được hưởng phúc, chi bằng lấy chữ "Phúc"
đặt làm chữ lót thì mọi người đều được hưởng phúc". Bà liền đặt tên
con là Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635, cầm quyền 1613-1635). Từ đó,
họ Nguyễn ở Gia Miêu ngoại trang đổi thành họ Nguyễn Phúc. (14)
Dù có người nghĩ rằng các tác giả Thế phả đương
nhiên tâng bốc tổ tiên mình, nhưng không ai có thể phủ nhận những
khuôn mặt lớn trong quá trình lịch sử dân tộc như Nguyễn Bặc, Nguyễn
Nộn (?-1229), Nguyễn Kim (1468-1545), Nguyễn Hoàng (1525-1613),
Nguyễn Phúc Tần (1620-1687, cầm quyền 1648-1687) ...
Thời điểm cực thịnh của họ Nguyễn Phúc là việc
llên ngôi năm 1802 của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long (trị vì
1802-1819), đóng đô tại Phú Xuân, cai trị một đất nước rộng lớn nhất
so với các triều đại trước, từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Các vua Nguyễn
rất đông con nên ngoài việc lập Tôn nhân phủ (15) như các
triều đại trước để quản lý người trong hoàng gia, vua Minh Mạng (trị
vì 1820-1840) còn làm một bài đế hệ thi và mười bài phiên hệ làm chữ
lót cho con cháu Nguyễn Phúc để phân định thứ bậc các hệ phái từ con
cháu của Gia Long trở xuống.
Năm 1945, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945) thoái vị
tại Huế, chấm dứt chế độ quân chủ tại nước ta, nhưng họ Nguyễn Phúc,
vốn rất đông người từ thời các vua Nguyễn, vẫn cứ phát triển vững
vàng, và có nhiều nhân vật nổi tiếng trong khắp các lãnh vực chính
trị, quân sự, văn hóa, học thuật, kinh tế, khoa học ... chẳng những
ở trong nước mà cả trên thế giới.
CHÚ THÍCH :
-
Quốc sử quán triều Nguyễn, Việt sử thông giám
cương mục, gọi tắt là Cương mục, bản dịch của Nxb Văn Sử Địa, Hà
Nội, 1957, tr. 448-449.
-
Cương mục, bản dịch, tr. 456.
-
Nguyệt san Làng Văn, Toronto, Canada, số 125,
tháng 1-1995, tr. 17.
-
Chỉ cần xem lịch sử danh nhân Trung Hoa,
chúng ta thấy rất ít người họ Nguyễn; trong các từ điển danh
nhân Việt Nam, họ Nguyễn rất nhiều. Ngày nay, mở danh bạ điện
thoại, chúng ta thấy họ Nguyễn chiếm khoảng gần 50%.
-
Thổ quan châu Ngọc Ma (Nghệ An), tên là Hồ
Ông, tự xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (trị vì
1370-1372). Cuối năm bính ngọ (1426), để đáp ứng ý muốn của
người Minh trong các cuộc thương thuyết, Lê Lợi cho đón Hồ Ông
về, đổi tên là Trần Cao, đặt lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên
Khánh. (Cương mục, bản dịch tr. 803-804)
-
Cương mục, bản dịch tr. 864-865.
-
Cương mục, bản dịch tr. 880.
-
Cương mục, bản dịch tr. 1013.
-
Cương mục, bản dịch tr. 1327.
-
Cương mục, bản dịch tr. 1418-1419.
-
Cương mục, bản dịch tr. 1411.
-
Nguyễn Phúc tộc thế phả, Hội đồng trị sự
Nguyễn Phúc tộc, Nxb. Thuận Hóa 1995, tr. 126. Gọi tắt Thế phả.
-
Thế phả, tr. 21.
-
Thế phả, tr. 113. Chú ý: Chữ "Phúc" còn được
đọc là "Phước".
-
Sau năm 1954, Tôn nhân phủ đổi thành Hội đồng
Nguyễn Phúc tộc.
Giáo sư Trần Gia Phụng |