
|
1. Giới thiệu
Vấn đề đánh dấu chỗ nào trên
chữ tiếng việt đã được
giải quyết lâu rồi, ngay cả chứng minh có
thể giải quyết một cách tự động
[1]. Chữ tiếng việt mang dấu trên chủ âm.
Trong [2] tác giả đã đưa ra một số
quy luật cho phép chúng ta có thể đánh dấu mà
không sai chính tả, những quy luật này dựa trên
nguyên tắc xác định đâu là chủ âm trong
chuỗi nguyên âm của một chữ tiếng
việt. Bài này không có gì mới trên những ý
lớn so với hai bài đã dẫn. Nó chỉ có
tham vọng có ích vì : một là những bài kia đã
cũ khó tìm, hai là nó dựa vào ngữ âm để
thấy rõ hơn tại sao có các quy luật nêu ra
trong [2], được tóm gọn trong 4 (+1) mẹo
bỏ dấu ; và sau cùng xin đề nghị
một quy ước nhất quán nhỏ về chính
tả.
Để thêm rõ ràng, trong bài này : tiếng là
một đơn vị phát âm hoàn chỉnh của
tiếng việt, chữ là biểu hiện bằng
chữ viết của tiếng, chữ do một
chuỗi ký tự (thay vì chữ cái, hay con chữ)
hợp thành, bao gồm các phụ âm ở đầu,
các nguyên âm (còn gọi là mẫu âm) ở giữa,
và các phụ âm ở cuối. Các phụ âm đầu
và cuối đều có thể không hiện
diện. a ă â ... là những nguyên âm, các nguyên âm
đều có thể thêm dấu (viết gọn
của dấu thanh, signe diacritique, tức là các
dấu huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng). Trong các
chuỗi nhị âm (diphtongues)hay tam âm (triphtongues) thì có
hai hay ba nguyên âm, trong đó thường thì một
nguyên âm có ảnh hưởng mạnh nhất khi nói
và nghe và được gọi là chủ âm, một
hay hai nguyên âm kia mờ nhạt hơn được
gọi là bán nguyên âm. Dấu thanh dùng để phân
biệt sự thay đổi tần số khi phát âm,
và nó ảnh hưởng đến chủ âm là chính.
Vì vậy đánh dấu trên chủ âm vừa đúng
lý thuyết vừa đúng thực tiễn, người
không biết gì về ngôn ngữ học cũng
viết 90% như vậy.
2. Chủ âm
Nhưng cả vấn đề là xác định
đâu là chủ âm của tiếng. Trong [4], tác
giả đã dẫn những nhà ngôn ngữ học
Lê văn Lý, Nguyễn Đình Hoà và Gregerson cho
rằng tiếng Việt chỉ có hai bán nguyên âm /j/
(đọc gần như i) và /w/ (đọc gần
như u). Còn các nhị âm khác như iê, ươ và
uô là những " khóm mẫu âm phức hợp
", không thể nói đâu là chủ âm. Trong [3] có
lẽ tác giả cũng đồng ý như thế,
vì đã sắp riêng các cặp nhị âm ia, ua,
ưa, iê, ươ, uô ; và chia các bảng khác theo bán
nguyên âm.
Không làm về ngôn ngữ học nhưng chúng tôi
nhận thấy có thể theo quy luật (ít ra là) có
tính hình thức sau đây : nếu một nguyên âm có
thể thay thế bằng một phụ âm mà không
thay đổi (nhiều) cách phát âm của nguyên âm
đứng trước hay sau nó thì có thể coi nó
là bán nguyên âm. Chẳng hạn trong thì, thìn và thìa
; mú, múa và mún... trên thực tế người ta cũng
thấy dấu được đánh trên các nguyên
âm không thay đổi là i hay u. Nếu lý luận như
vậy thì có thể chấp nhận trong đó âm a
cũng là bán nguyên âm, nó không phải là âm /w/ vì thìa
khác hẳn với thìu ; trong tam âm uya ta cũng
thấy a đóng vai trò bán nguyên âm (tam âm này cũng
thật đặc biệt,người viết không
tìm được thí dụ nào ngoài khuya, có thể
còn vài tiếng pháp được việt hoá (trong
một thời ?) : rất đuya, xuya rồi).
Chỉ còn lại trường hợp iê và
ươ mới thực sự là những âm
tiết kết hợp chặt chẽ, không thể
biết đâu là chủ âm, cũng như các trường
hợp khá hiếm oo và ôô.Ở đây chúng tôi
sẽ coi như đánh dấu ở sau theo truyền
thống là đúng, và như vậy "theo định
nghĩa" những chữ đi sau của bốn
trường hợp trên là chủ âm. Điều này
cũng phù hợp với quy luật nêu trong [2] :
" nếu có thể có ký tự nào đi theo nó thì
nó là chủ âm ". Nếu quy luật này không
xuất phát 100% từ cách phát âm tự nhiên thì nó
cũng đúng trên một phần rất lớn.
Trong khoa học nhân văn có lẽ điều gì cũng
có ngoại lệ, nhưng vì trong thời đại
ngày nay, với máy tính và mạng viễn thông,
cần có chuẩn mực chính tả, ta cũng nên
lấy một quy luật tự nhiên đúng 90% thành
một quy luật chuẩn mực (loi normative) cho 100%,
nhất là khi trong các ngoại lệ nó không đi ngược
lại những thói quen đã có.
Do đó các bảng (*) sau đây, phỏng theo [3], có
thay đổi theo đề nghị nói trên. Chúng cho
thấy tất cả các nhị âm và tam âm của
tiếng Việt, mỗi bảng được
sắp xếp theo thứ tự chủ âm. Các
bảng này loại trừ hai trường hợp givà
qu, ta sẽ xem kỹ lại các trường hợp
này sau. Chúng cho phép tìm ra chủ âm một cách
giản dị : trong các trường hợp in đậm
thì chủ âm ở cuối, và trong mọi trường
hợp khác chủ âm ở ngay trước cuối
(tức ở giữa các tam âm và ở đầu các
nhị âm). Để tiện việc xem xét các
bảng đó xin nhắc lại là tiếng việt
có 11 nguyên âm, viết theo 12 cách, như sau : a, ă,
â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Trong đó ă, â, ê,
ô, ơ, ư được gọi là những nguyên
âm phụ, theo [2].
Các thí dụ trong các trường hợp in đậm
cho thấy khi nào chủ âm nằm cuối cũng có
thể thêm vào các phụ âm để làm thành
tiếng, không có (còn) ngoại lệ. Và ngược
lại, khi chủ âm không ở cuối một
nhị âm hay tam âm thì tiếng không thể có thêm
phụ âm, vì khi đó bán nguyên âm đã đóng vai
trò phụ âm để kết thúc một tiếng
rồi.
Bảng 1
Tam âm và thí dụ
oai Xoài
oao Ngoáo (ộp)
oay (Trái) khoáy
uây Nguây nguẩy
oeo (Chết) ngoẻo
iêu Nhiều
yêu Yếu
uya Khuya
uyu Khuỷu (tay)
uôi Tuổi
ươi Người
ươu Rượu
uyê Thuyền
Bảng 2
Nhị âm với bán nguyên âm cuối a và thí dụ
ia Kìa
ua Múa
ưa Khứa
Bảng 3
Nhị âm với i hay ư làm "bán nguyên âm"
đầu, và thí dụ
iê (Khập) khiễng
ươ Chườm
Bảng 4
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /j/ và thí dụ
ai Mái
ay Máy
ây Mấy
oi Thói
ôi Nhồi
ơi Mới
ui Múi
ưi Ngửi, khung cửi
Bảng 5
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /w/ và thí dụ
ao Cháo
au Tháu
âu Mấu
eo Méo
êu Mếu
iu Míu
ưu (Mắc) mứu
Bảng 6
Nhị âm có bán nguyên âm đầu /w/ và thí dụ
oa Choán
oă Xoắn
uâ Luẩn quẩn
oe Khoét
uê Tuếnh (toáng)
uô Xuống
uơ Thuë, quën
uy Suýt (nữa)
Bảng 7
Nhị âm hiếm và thí dụ
oo Goòng
ôô Gôồng
3. Mẹo bỏ dấu
Trong các bảng trên ta không bao giờ thấy
(trừ hai ngoại lệ ươ và ôô) các nguyên
âm phụ được dùng làm bán nguyên âm cả.
Điều này cũng dễ hiểu, vì bán nguyên âm
đóng vai trò thứ yếu, phát ra và nghe nhỏ hơn,
nên không thể phân biệt kỹ như giữa a
với ă... mọi thứ tiếng đều ít bán
nguyên âm. Do đó có quy luật " các nguyên âm
phụ bao giờ cũng là chủ âm ", trừ các
trường hợp ươ và ôô.
Trong hình vẽ đi kèm, các bảng này (trừ
bảng 1) được vẽ đè lên một vòng
tròn bao gồm tất cả các nhị âm có nguyên âm
phụ. Thêm vào đó ta lại phân phát các bảng
theo hai phía : bên trái là các bảng nhị âm với
chủ âm đi trước và bên phải là các
bảng có chủ âm đi sau. Cách xem xét đó cho
thấy chỉ còn lại 4 trường hợp
nhị âm chưa được quyết định
bởi vòng tròn và nửa trái : oa, oe, uy, và oo. Như
vậy (theo [2]) ta có thể tóm gọn các quy luật
bỏ dấu vào các mẹo sau :
* Chữ có ba nguyên âm : dấu ở giữa, trừ
trường hợp uyê.
* Chữ có hai nguyên âm bắt đầu bằng gi
hay qu : dấu ở sau.
* Chữ có hai nguyên âm với một nguyên âm
phụ ở sau : bỏ dấu trên nguyên âm phụ
đó.
* Chữ có hai nguyên âm khác : dấu ở trước,
trừ các trường hợp oa, oe, oo, và uy dấu
cũng ở sau.
Bốn mẹo trên giải quyết tất cả các
trường hợp. Nhưng ngoài ra có một
mẹo phụ trội khác cũng có ích : đó là
bất cứ chữ nào kết thúc bằng phụ
âm là cứ nhắm mắt bỏ dấu trên nguyên
âm cuối. Không có ngoại lệ.
4. Sự không nhất quán giữa chính tả và phát
âm
Tiếng việt được phiên âm theo mẫu
tự Latinh khá muộn trong lịch sử, với các
dấu thêm vào như ta đã biết, và được
các nhà ngôn ngữ học thời ấy sáng tạo
với nhiều kinh nghiệm của các tiếng
Latinh đi trước, cho nên đã đạt
được sự nhất quán ở mức độ
tiếng. Mỗi tiếng có một cách viết
(trừ vài trường hợp), và mỗi cách
viết đọc ra một tiếng trong mọi
ngữ cảnh, không hề nhầm lẫn. Như
thế là quá hoàn hảo rồi, các thứ tiếng
Anh , Pháp... đều không được như
vậy, nhiều khi phát âm phải tuỳ theo ngữ
cảnh. Ở đây không có tham vọng đề
nghị thay đổi chính tả, mà chỉ nêu ra
những sự không nhất quán trong chi tiết để
biết, và để hiểu những khó khăn
cần khắc phục khi sửa chính tả tự
động bằng máy tính.
Thêm nữa, thí dụ thấy trẻ em viết sai chính
tả như khuán thay vì khoán, Măi thay vì May ...
nếu chúng ta đọc tiếp những đoạn
sau thì sẽ thấy không nên mắng mỏ chúng
nhiều, vì chúng đã vô tư viết đúng theo
cách phát âm hơn chúng ta. Bảo " đánh
vần mà xem, này nhé : khờ o kho a khoa en khoan sắc
khoán ", chúng sẽ hỏi lại : " thế
tại sao viết quán " ?
Thật vậy, khi đi vào phân tích các âm vị, các
cách phát âm và sự biểu diễn chúng bằng chính
tả qua các tiếng và chữ khác nhau, ta còn
thấy nhiều chỗ chưa được
nhất quán. Thí dụ như trong bảng 5 (các
bảng khác cũng có những vấn đề tương
tự) ta thấy chỉ có một bán nguyên âm /w/,
gần u hơn o, và u được dùng nhiều hơn.
Nhưng ta lại thấy có cả au lẫn ao,
vậy chúng khác nhau ở đâu ? Thực ra khác nhau
không phải ở bán nguyên âm mà là ở chủ âm
: đáng nhẽ phải viết ău thay vì au và au
thay vì ao. Như thế ta sẽ thấy có au, ău,
âu : hoàn toàn tương ứng với các nguyên âm
a, ă , â khi chúng đứng riêng.
Nhưng tại sao khi thì o khi thì u để chỉ
một bán nguyên âm duy nhất /w/ ? Đây cũng có
lý do của nó. Nếu ta chọn u là duy nhất cho
/w/ như trên, ta có thể theo đó sửa đổi
bảng 5 và bảng 6 để cho nhất quán, và như
thế sẽ phải viết chuán thay vì choán như
hiện nay. Nhưng khi ấy nhìn vào bảng 6 dòng 1
và bảng 2 dòng 2, sẽ thấy không thể phân
biệt được đâu là Khua của Khoa
hiện nay và đâu là Khua của Khua hiện nay.
Vậy thì, để giữ sự nhất quán
ở mức độ tiếng, bỏ sự
nhất quán của /w/ (gần với u hơn o)
bằng cách thay ký tự u bằng ký tự o nếu
cần cũng chẳng sao. Và đến nay nhiều
thế hệ đã quen nếp rồi, người nào
đề nghị viết t-h-ắ-u để đọc
như tháu hiện nay và viết t-h-á-u để
đọc như tháo hiện nay thì chắc sẽ
được mời đi an dưỡng tâm
thần ở đâu đó.
Bảng 8 : nhị âm sau q và thí dụ
ua uă uâ ue uê ui uơ uô uy
thí dụ quáng quắn quấn quén quết quịt
quờn quốc quỷnh
Bảng 9 : tam âm sau q và thí dụ
uai uao uau uay uây ueo uêu uiu uơi uyê
thí dụ quải quào quạu quạy quấy
quẹo quều quíu quới quyết
5. Nhưng chỉ xin phàn nàn một điều thôi
Điều đáng phàn nàn ở đây là i ngắn
và y dài. Ngắn dài không theo thời gian phát âm, mà
theo hình vẽ chữ. Người Việt phát âm hai
ký tự này như nhau, bằng chứng là đối
với những chữ đơn âm, hai ký tự i và
y thay đổi theo thời trang. Ngày trước hay
viết kỷ luật và văn sĩ , cái mốt bây
giờ lại hay viết kỉ luật và nhiều
người lại thích văn sỹ . Tại sao
lại có hai ký tự ? nếu không tìm được
lý do ở đơn âm ta thử tìm ở nhị âm
xem sao ?
Đây rồi ! ngay bảng 4 hai dòng đầu cho
thấy rất rõ ràng sự cần thiết thêm vào
y (hay i, tuỳ bạn là văn sĩ hay bạn là văn
sỹ), để phân biệt giữa ai / Mái, và ay /
Máy. Bé cái lầm ! thưa bạn. Đó cũng
vẫn là cái lầm lẫn lịch sử để
lại đã nói trong đoạn 4. Hai chữ đó
khác nhau ở chủ âm, và thay vì ay đáng nhẽ
phải viết ăi cho đủ bộ a, ă, â .
Và, với tinh thần vô truớc cao độ, ta có
thể đọc Mái, Mắi, Mấi, thoải mái
một cách rất cartésien. Mâi một ngằi ?
Sự cần thiết không phải ở ai và ay, mà
ở chỗ " không thể cùng cách viết mà khác
chủ âm ", cũng như thí dụ trong đoạn
4, vì vậy cần bịa ra một cách viết khác,
ở đây giải pháp là thêm vào một ký
tự. Chúng ta thử xem dòng 7 bảng 4 và dòng 8
bảng 6 : ta có ui với u làm chủ âm, và uy
với y làm chủ âm. Đáng nhẽ thế là
tốt đẹp quá rồi, nhưng cái sự làu
nhàu lịch sử đáng cho chúng ta lầu bầu là
ở đây : thêm vào, nhưng lại không nhất
quán. Nói chung ký tự i được dùng riêng
nhiều hơn y (khi đứng riêng y chỉ
xuất hiện ở cuối những chữ chỉ
mang hai ký tự : kỷ, tỷ... nhưng : bỉ,
thỉ, phỉ...), thế thì nên chọn i làm
chủ âm trong mọi trường hợp mới
phải, và chỉ dùng y như là bán nguyên âm thôi. Có
thể quy ước : đơn âm thì i, trong nhị
âm hay tam âm thì dùng i làm bán nguyên âm và y làm chủ
âm ; cũng không sao. Quy định vậi cũng hăi
đấi nhỉ ? Kỳa con myu.
Nhưng thay vì thế chữ việt đáng yêu
lịch sử để lại cho chúng ta dùng
rất hồn nhiên i cũng như y lúc là chủ âm
lúc là bán nguyên âm (xem bảng 4, bảng 1, các dòng
đầu các bảng 2, 3 và dòng 8 bảng 6). Lại
còn hào phóng dùng hai cách viết cho cùng một tam âm
nữa chứ : khi kết hợp với các ký
tự khác thì phải viết iêu, khi đứng riêng
ba ký tự với nhau thì mới là yêu (sao lại ba
?). Yêu là đặc biệt, yếu đuối
yểu điệu thế thôi, mà không có thì tiêu
điều thiếu thốn. Trách chi con cháu ngẩn
ngơ chẳng biết mình văn sĩ hay văn
sỹ !
Vậy chỉ xin nhất quán một điều thôi,
trước khi quá trễ, vì chữ quý đang trên
đà trở thành quí , mong còn cứu vãn được
: nếu trong nhị âm uy đã dùng ký tự y làm
chủ âm thì phải viết quý. Uỷ quyền
chứ, làm sao viết uỉ quyền được,
nhỡ đánh dấu sai chỗ nó thành ủi
quyền, giống như ủi đất, hỏng.
6. Trường hợp
qu
Nhưng nhân tiện đây cũng bàn luôn về u và
i trong hai cụm ký tự gi và qu : tại sao đó
lại là những trường hợp đặc
biệt phải tính đến khi bỏ dấu ? Như
thể đó không phải là những nguyên âm.
Thực ra trong trường hợp gi thì đúng như
thế, vì trong mọi trường hợp (trừ
gịa trong giặt gịa) có thể thay gi bằng
z. Thí dụ zấu thay cho giấu vẫn đọc
thế, chẳng thấy âm i đâu cả.
Còn lại ký tự u. Nếu có thể thay qu
bằng một ký tự khác (chẳng hạn k, phát
âm giống qu trong tiếng Pháp) không có âm u, thì u
trong qu không mang theo âm vị gì cả, nếu không
phải coi nó là một bán nguyên âm.
Bảng 8 cho danh sách những chuỗi ký tự có
một nguyên âm đi theo qu. Trong bảng này ta không
thấy trường hợp nào có thể bỏ ký
tự u khi đọc lên cũng như cũng không
thể thay qu bằng k. Vậy ở đây rõ ràng
phải coi u là bán nguyên âm, cũng chính là bán nguyên
âm /w/. Qu của chữ việt khác hẳn qu của
chữ Pháp trong đó nhiều khi không có âm /w/.
Xem bảng này ta có thể có ba nhận xét :
Thứ nhất là sự bất nhất quán và trùng
lặp giữa cột 6 (qui) và cột 9 (quy), nếu
không ta có được 8 cột hoàn toàn tương
ứng với bảng 6. Đề nghị phải
bỏ trường hợp qui vì trong mọi biến
dạng của nó như quít, quỉ, quí... thì cách
viết quýt, quỷ, quý... cũng đều phổ
thông và nhất quán với quy ước " y là
chủ âm trong uy ", phổ biến hơn rất
nhiều. Vậy chương trình kiểm tra chính
tả nếu thấy ký tự i đi theo sau qu nên
đổi thành y, chỉ trừ trường hợp
tam âm (q)uiu. Mục đích chúng tôi không phải là cách
mạng chính tả toàn diện, mà chỉ là đề
nghị sự nhất quán trong cách viết một
nhị âm uy này. Còn sự bất nhất giữa các
chữ của những tiếng khác chuỗi nguyên âm
là thứ yếu và cũng vì vậy có nhiều.
Thứ hai, và điều này không quan trọng
lắm, là các âm uă, ua và ue. Thực ra đây là
hai cách viết khác của ba nhị âm đã có
sắn oă, oa và oe , vì chẳng hạn giữa quăn
và xoăn, hoà và quà, choé và qué thì cách phát âm tương
tự nhau, chỉ khác vì ảnh hưởng của
phụ âm.
Nhưng quan trọng hơn là giữa ua của
quả và ua của của, có cùng một cách
viết cho hai nhị âm khác nhau. Ta cũng đã
gặp hai nhị âm này trong khoa và khua ở đoạn
4, có điều ở đây theo truyền thống
không viết quoả, qoả hay coả. Cứ có q là
phải có u đi theo chẳng qua là do các vị
cố đạo Âu Tây chưa đủ phá chấp
khi phiên âm tiếng việt, qua con sông từ Âu sang
Á rồi mà vẫn váccái thuyền qu trên lưng.
Nhưng cái quá khứ ấy đưa đến
phải chấp nhận hai hình thức viết cho
nhị âm /w/a : ua cho âm qua- , và oa cho mọi trường
hợp khác. Sự bất nhất này lại dẫn
đến hai lối đánh dấu khác nhau trên cùng
chuỗi nguyên âm ua, và chỉ phân biệt được
khi đi tìm có hay không có ký tự q đằng trước.
Cuối cùng xin điểm qua các tam âm sau q trong
bảng 9 :
Quan hệ giữa uai, uay và uây thì cũng như
giữa ai, ay và ây đã xem trong thí dụ Mái, Máy,
Mấy. Và cũng theo những phân tích ở trên,
ở đây chúng ta dễ nhận thấy uai, uao,
uay, ueo, là những cách viết thay cho oai, oao, oay, oeo,
dùng trong các trường hợp khác, uây và uyê thì
giữ nguyên.
Quíu thì cũng như khuỷu. Biết rồi,
khổ lắm, nói mãi.
Còn lại ba tam âm chỉ thấy có sau q là uau, uêu và
uơi. Thực ra những chữ như khuạu,
khuệu có thể đọc thành tiếng dễ dàng,
có điều những tiếng loại này không có
trong từ điển.
Những điều này không ảnh hưởng gì
đến việc đánh dấu, vì bề gì
dấu cũng nằm giữa, trừ trường
hợp duy nhất dấu nằm sau là uyê thì cũng
đánh dấu như các tiếng không bắt đầu
bằng q.
Trong mọi trường hợp âm u là một bán
nguyên âm. Từ đó ta cũng có quy tắc dễ
nhớ là : không bao giờ có dấu trên ký tự u
của qu, vì nó bao giờ cũng chỉ định
bán nguyên âm /w/. Ngày trước, có lẽ vì ảnh
hưởng Pháp, coi chữ u trong q là chữ bỏ
đi, nên không ai mắc lỗi lầm đánh
dấu trên chữ u. Bây giờ lỗi ấy lại
xuất hiện hơi bị nhiều, chẳng
biết tại sao, tại máy tính ? Và ta có thể nói
thêm : nếu chữ u trong qu không thừa thì dù sao
qu- vẫn là trùng lặp với cu- hay co-.
7. Để kết luận
Đặc biệt trên vấn đề bỏ
dấu trên chữ việt, chúng ta có thể dựa
trên một quy luật gần như hoàn toàn tự
nhiên để lấy làm một quy luật chuẩn
mực (nghĩa là phần nhỏ nào có tính cách
độc đoán), đó là : dấu đánh trên
chủ âm, và chủ âm là nguyên âm có thể có
một hay nhiều ký tự đi theo nó trong một
chuỗi ký tự để thành chữ tiếng
việt. Vì lẽ đạt được một
quy luật chính tả đầy đủ và
nhất quán như trên về đánh dấu, lại
dễ nhớ và dễ áp dụng, là điều
rất có lợi về sau này. Hy vọng rằng bài
này, khi phân tích cách thể hiện các nhị âm và
tam âm trong tiếng việt qua chữ quốc ngữ,
biện minh được cho quy luật ấy.
Tuy nhiên, quá trình đó cũng cho thấy : tuy điều
quan trọng nhất là sự nhất quán giữa
tiếng việt và chữ việt là có thể
trở thành hoàn hảo, khi đi sâu hơn vẫn phát
hiện một số điều không nhất quán
giữa âm và ký tự. Đó là : ký tự i sau g không
phải là nguyên âm ; ký tự u và o đều có
thể dùng cho bán nguyên âm /w/ ; các ký tự i và y không
được phân chia công tác rõ ràng để làm
bán âm hay chủ âm ; qu là thừa. Các điểm này
có lý do khách quan và lý do lịch sử. Lý do khách
quan nằm ở chỗ phải giải quyết
sự phân biệt giữa mỗi cặp nhị âm
ui/uy và ua/oa, trong mỗi cặp nhị âm thì chủ
âm khi nằm trước khi nằm sau. Cách giải
quyết không được nhất quán cho lắm là
thuộc vào lịch sử.
Nhưng kinh nghiệm cho thấy những sự
bất nhất về chính tả này không có gì là
đáng kể, không cản trở gì lắm việc
học nói và viết tiếng Việt, vì chúng
vẫn nằm trong sự nhất quán và đồng
thuận trong từng trường hợp ở
mức độ chữ và tiếng.
Điều duy nhất chúng tôi thấy có thể
thống nhất ngay là nhị âm uy phải viết
với ký tự y. Việc dùng i hay y trong các nhị
âm và tam âm khác thì tuy không nhất quán nhưng có
đồng thuận. Còn việc lẫn lộn
giữa i và y khi chúng là nguyên âm độc nhất
thì chỉ có thể hi vọng có được
một đại từ điển mà mọi người
cho là nghiêm túc và đầy đủ nhất để
lấy làm chuẩn mực. Xin thêm : quy ước
trong " Từ điển tiếng việt "
của Viện Ngôn Ngữ Học là : âm i cuối
chữ viết bằng i, trừ trường hợp
uy. Tức là không chấp nhận cả kỷ
luật lẫn văn sỹ, nhưng chấp nhận
cả quýt lẫn quít.
Hà Dương Tuấn
01.2001, Paris
[1] : Ngô Thanh Nhàn, James Đỗ, Nguyễn Hoàng :
"Một số kết quả về cách đặt
tự động đúng dấu phụ vào chữ
tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ số
86, tr. 14-23, 1992. Hà Nội, Việt Nam.
[2] : Nguyễn Ngọc Giao : Bỏ dấu ở đâu
? Chính tả chữ Việt, máy vi tính và chương
trình tự động bỏ dấu. Diễn Đàn
số 13, tr. 20-21, 1.11.1992, Paris.
[3] : Nguyễn Phú Phong : Le Vietnamien fondamental, giáo trình
Đại học Paris 7, 1974.
[4] : Diễm Châu : Một điều khẳng định
và đôi điều có lẽ, Diễn Đàn
số 90, tr. 23-24, 1.11.1999, Paris
(*) : Một người bạn đã thách đố
tác giả không dùng tiếng hán việt cho các thí
dụ trong các bảng. Nhưng cũng bị thất
bại vài chỗ.