|
|
Trong xã hội loài người, nhu cầu giao tiếp
và trao đổi thông tin là không thể thiếu. Chính
nhờ nhu cầu giao tiếp và trao đổi thông tin
mà tiếng nói và chữ viết đóng một vai trò
rất quan trọng. Ngay từ xa xưa, khi chưa có
chữ viết, con người lúc đó đã dùng các
hình vẽ để biểu đạt và trao đổi
thông tin với nhau. Và cũng từ đó có thể nói,
hình vẽ là tiền thân của chữ viết. Trong
lịch sử chữ viết nhân loại, hầu
hết các ngôn ngữ, chữ viết trên thế
giới đều có nguồn gốc sơ khai từ
những hình vẽ, ban đầu chỉ là những hình
vẽ đơn giản nhằm trao đổi thông
tin với nhau, cùng với thời gian các nét vẽ
dần được đơn giản hoá và trở
thành các dạng chữ viết như ngày nay.
Việt Nam là một quốc gia có nền văn hoá phát
triển rất sớm. Các nhà nghiên cứu văn hoá
và ngôn ngữ luôn đặt câu hỏi liệu
từ xa xưa trong lịch sử, nền văn minh này
đã có chữ viết chưa. Với những hình
vẽ hoạ tiết rất sinh động trên
trống đồng Đông Sơn cho nên trong giới
nghiên cứu khoa học lịch sử Việt Nam đang
tồn tại những giả thiết về một
thứ văn tự cổ nào đó của người
Việt từ thời các Vua Hùng dựng nước.
Với các nét vẽ sinh động, trang trí hoa văn
rất đặc biệt diễn tả toàn bộ
mọi khía cạnh trong đời sống sinh hoạt
cộng đồng, từ đó có cơ sở để
khẳng định, ngay từ xa xưa trong lịch
sử người Việt cổ đã có loại văn
tự riêng của mình. Tuy nhiên, điều này
cần thiết phải có sự nghiên cứu và tìm
hiểu sâu sắc hơn nữa vì đó mới
chỉ là giả thiết. Trong nền văn hiến
ngữ văn cổ điển Việt Nam còn lưu
truyền đến ngày nay chỉ còn biết đến
có chữ Hán và chữ Nôm trong lịch sử hình thành
và phát triển của mình. Do đó chữ Hán và
chữ Nôm vẫn là nền tảng của quá trình phát
triển văn hóa nói chung và ngôn ngữ nói riêng.
Trong đại thể, từ chữ vuông của
tiếng Hán đến chữ vuông của tiếng
Việt là con đường rất gần gũi,
bởi vậy, một văn bản chữ Nôm và
một văn bản tiếng Hán thoạt nhìn khó phân
biệt. Về nguồn gốc của chữ Nôm cho
đến nay có rất nhiều ý kiến khác nhau, các
học giả phương tây cho rằng chữ Nôm là
tiếng nói của người phương Nam. Điều
này phù hợp với cấu tạo của chữ Nôm,
gồm có bộ khẩu và chữ Nam ở bên
cạnh. Tiếng Việt và tiếng Hán dù có thể
bắt nguồn từ những ngữ hệ khác nhau,
song về mặt loại hình chúng lại rất
gần gũi nhau. Cả hai đều là ngôn ngữ
thuộc loại đơn lập âm tiết tính, mà
đặc điểm chung cơ bản là mỗi âm
tiết hầu như đều mang nghĩa, đều
có thể sử dụng như một từ mà không
biến hình. Chính vì vậy mà chữ Hán với mô hình
biểu âm, biểu ý cho từng âm tiết một
sẽ là hình ảnh lý tưởng cho văn tự
tiếng Việt thời bấy giờ. ở chữ Nôm,
do mỗi một âm tiết được biểu
hiện bằng một chữ vuông, cho nên người
ta đã phải tạo ra rất nhiều chữ thì
mới sử dụng được. Chính vì vậy
chữ Nôm đã sử dụng triệt để các
nguyên tắc cấu tạo của chữ Hán để
hình thành và cấu tạo, như mượn nguyên
dạng chữ Hán để làm chữ Nôm, hoặc mượn
các yếu tố có sẵn có của chữ Hán
rồi đem ghép lại, hoặc có thể mượn
một trong ba góc độ của một từ như
âm đọc, hình dáng và ý nghĩa để tạo
ra chữ Nôm, với những cách vay mượn
biến hóa sáng tạo tài tình mà ông cha ta đã đạo
dựng nên một hệ thống chữ Nôm rất
phong phú và đa dạng, do đó có trường
hợp có chữ Nôm hoàn toàn trùng với chữ Hán
song âm và nghĩa lại khác hẳn nhau. Hoặc có trường
hợp chữ dùng đơn thuần về mặt âm
còn nghĩa thì khác hẳn, ví dụ như từ
một trong tiếng Hán và từ một trong chữ Nôm.
Đứng về mặt tiếp xúc, giao lưu ngôn
ngữ và văn hoá trong lịch sử có thể nói,
chữ Hán du nhập vào Việt Nam bằng nhiều
con đường khác nhau nhưng tựu chung lại
việc truyền bá này thông qua hai con đường
là truyền bá phật giáo và truyền bá nho giáo.
Phật giáo được truyền vào Việt Nam
từ rất sớm và đã để lại
những thành quả về ngôn ngữ rất đặc
biệt.
Phó giáo sư Đặng Đức Siêu, Chủ
nhiệm bộ môn Hán Nôm và văn hóa Việt Nam, Khoa
ngữ văn - Đại học Sư phạm Hà
Nội phát biểu:
"Từ thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên và cho
đến khoảng thế kỷ thứ 10, chữ Hán
đã tìm được con đường thâm
nhập vào trong hoạt động văn hóa, tinh
thần của người Việt một cách dễ
dàng hơn và lại nhờ một hoàn cảnh
hết sức đặc biệt đó chính là sự
truyền bá Phật giáo, chúng ta biết rằng
Phật giáo vào Việt Nam rất sớm và vì nó là
một tôn giáo, một tín ngưỡng, đi vào
Việt Nam với tư cách sứ giả hòa bình, cho
nên Việt Nam đã sớm tiếp nhận và có
một ấn tượng, một tình cảm rất sâu
sắc đối với phật giáo nhưng chắc
chắn rằng trong 5, 6 thế kỷ đầu Công
Nguyên hoạt động Phật giáo nó cũng không
được triển khai một cách mạnh mẽ
vì Trung Hoa tiếp nhận Phật giáo khá chậm nhưng
sau khi Trung Hoa đã tiếp nhận Phật giáo thì
họ lại Trung quốc hóa Phật giáo khá nhanh
bằng cách dịch rất nhiều các Kinh Phật
bằng chữ Phạn ra chữ Hán và viết rất
nhiều sách bàn về những kinh Phật đó và
tất cả những sách đó tất yếu sẽ
được chuyển vận vào Việt Nam một
cách dễ dàng hơn."
Có thể nói việc truyền bá Phật giáo đặc
biệt là kinh Phật đã tạo ra nhu cầu tìm
hiểu là lý giải những giáo lý càng trở nên
cấp thiết hơn chính vì vậy việc học
chữ Hán trong giai đoạn này cũng đã phát
triển hơn, khi Nho giáo vào Việt Nam, việc
học và sử dụng chữ Hán trở thành
một nhu cầu thiết thực hơn như chủ
động đào tạo nhân tài cho đất nước
theo con đường nho học và sử dụng
chữ Hán một cách phổ biến và có hiệu
quả trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội nếu như trong giai đoạn trước
việc học tập chữ Hán chủ yếu dùng
để hiểu biết những lý lẽ của
đạo Phật thì sau này việc học tập
chữ Hán trở thành một nhu cầu chính
thống, học chữ Hán để hiểu biết
đồng thời học để thi cử,
chọn hiền tài cho đất nước mà qua
đó có thể nói rằng việc sử dụng
chữ Hán đã trở nên rộng khắp không
chỉ dùng để ghi chép các công việc quản lý
hành chính mà nó còn có vai trò quan trọng trở thành
chữ viết trong hệ thống thi cử nho học
xưa kia.
Theo dòng chảy của thời gian, nhiều sự
kiện lịch sử đã diễn ra và có thể nói
sau việc truyền bá của Phật giáo thì Nho giáo
cũng tìm được con đường du
nhập vào Việt Nam. Nho Giáo - một học
thuyết Chính trị đạo đức ra đời
trước đó hơn một nghìn năm đã góp
phần to lớn tạo lập nên Nhà nước
Trung Hoa với nền văn hoá phát triển rất
rực rỡ, sự kiện mở đầu cho quá
trình lựa chọn đó được trịnh
trọng ghi trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
"Năm Canh Tuất, niên hiệu Thuần Vũ
thứ hai năm 1070 đời Lý Thánh Tông, mùa thu tháng
tám cho dựng Văn Miếu đắp tượng
Khổng Tử... " việc cho xây dựng Văn
Miếu Quốc Tử giám vào Năm 1070 của Vua Lý
Thánh Tông đã tạo điều kiện thuận
lợi cho việc học tập và sử dụng
tiếng Hán ngày một phát triển. Nếu như
trong giai đoạn trước, việc học
tập chữ Hán chủ yếu dùng để
hiểu biết những lý lẽ của đạo
Phật thì thời điểm này, việc học
tập chữ Hán trở thành một nhu cầu chính
thống, học chữ Hán để hiểu biết,
đồng thời trở thành việc học tập
thi cử của các khoá sinh. Từ đó sử
dụng chữ Hán đã trở thành rộng khắp
không chỉ dùng để ghi chép trước
thuật quản lý hành chính mà nó còn có vai trò quan
trọng, trở thành chữ viết trong hệ
thống thi cử nho học xưa kia. Tiêu biểu như
năm 1075 dưới thời Lý Nhân Tông (1072 - l128)
khoa thi Nho học đầu tiên ở Việt Nam đã
được tổ chức. Từ đó cho đến
năm 1919 là năm mở khoa thi cuối cùng ở
Huế, cả nước có 2.898 người đỗ
đại khoa và đây là lực lượng chủ
yếu gây dựng nền văn hiến Việt Nam qua
nhiều thế kỷ.
Qua phần tìm hiểu vai trò của chữ Hán trong
sự hình thành của chữ Nôm giúp chúng ta những
người hàng ngày, hàng giờ sử dụng
tiếng Việt, tiếng nói của ông cha chúng ta lưu
lại từ ngàn đời. Đồng thời,
việc tìm hiểu này, cũng giúp chúng ta có những
kiến thức căn bản về chữ Hán và
chữ Nôm để qua đó có thể dễ dàng
tiếp nhận những tinh hoa trong kho tàng văn hoá
chữ Hán và chữ Nôm mà ông cha chúng ta để
lại
|