1.
KHÁI QUÁT VỀ TIẾNG VIỆT
1.1 TIẾNG VIỆT
Trong
số 54 dân tộc ở Việt Nam thì dân tộc
Việt (còn gọi là Kinh) chiếm số lượng
tuyệt đối, tổng số dân lên tới trên
72 triệu người (con số năm 1993). Dân
tộc Tày có 1,2 triệu, dân tộc Thái trên 1
triệu, các dân tộc Hoa, Khme, Mường, Cơ
Ho, Chàm, Sán Dìu trên 900 nghìn người.Tiếng
Việt là ngôn ngữ cộng đồng của dân
tộc Việt và cũng là công cụ giao tiếp
chung cho các dân tộc sống trong nước
Việt Nam.
Theo một số tài liệu nghiên cứu thì
tiếng Việt thời thượng cổ là
thứ tiếng chưa có thanh điệu. Hệ
thống phụ âm đầu trong tiếng Việt có
những phụ âm đơn và phụ âm kép như
bl, tl, pr, pl ... Các âm cuối bị mất dần
một số trong quá trình phát triển (như âm
cuối l mất đi, âm cuối r chuyển thành i),
nói riêng âm h mất đi và xuất hiện dấu
ngã trong tiếng Việt.Hệ thống thanh điệu
đã xuất hiện dần.
Vào đầu công nguyên, tiếng Việt chưa có
thanh điệu, đến thế kỉ VI xuất
hiện ba thanh và đến thế kỉ XII mới
có đủ sáu thanh như hiện nay.
Sự biến đổi của âm đầu và
cuối là nguyên nhân làm xuất hiện hệ
thống thanh điệu trong tiếng Việt.
Sự biến đổi trong hệ thống các âm
đầu diễn ra tương đối rõ hơn
trong hệ thống nguyên âm: âm vô thanh chuyển thành
hữu thanh (p à b, t à d và k à g). Các phụ âm kép kl,
tl, bl, khl ... mất dần, làm xuất hiện các âm
uốn lưỡi tr và s (tlăm à trăm (thế
kỉ 17); blăng à trăng (thế kỉ 18), khlông
(thế kỉ 15) à sông (thế kỉ 17), nhóm ml
chuyển thành l hoặc nh (nlầm à lầm,
nhầm, mlẽ à lẽ, nhẽ)
Kho từ vựng tiếng Việt phong phú với
những từ cơ bản có nguồn gốc Nam Á
và Tày Thái cổ. Kho từ vựng trong quá trình phát
triển còn tiếp nhận và thuần hoá cả
về ngữ âm lẫn ý nghĩa một bộ
phận khá nhiều từ gốc Hán (như
đũa, đục, muôn, mũi, móc, mùa...).
Hệ thống ngữ pháp tỏ ra bền vững
với những phương thức hư từ và
trật tự từ, trật tự cú pháp, trật
tự tổ hợp từ và khong biến hình từ
(amorphous), giữ đặc điểm riêng của
tiếng Việt.Tiếng Việt là loại hình ngôn
ngữ đơn lập âm tiết tính (monosyllablism)
và có thanh điệu.
2.
CHỮ VIỆT
Các tài
liệu lịch sử hiện còn (Đại
Việt sử lược, An nam chí nguyên, Việt
sử thông giám tổng luận) đều có chép
thời Hùng vương "chính sự dùng lối
kết nút."
Tuy nhiên chưa có tài liệu nào cho biết rõ hơn
về việc khi nào có chữ viết được
bắt đầu dùng ở Việt Nam.
Việc sử dụng chữ Hán cùng với văn
hoá Trung Hoa lan xuống phía Nam là đi kèm với
việc chinh phục và thôn tính đất đai
của các triều đại phong kiến phương
Bắc, song đến thời kỳ độc
lập từ thế kỷ X, người Việt
đã chủ động sử dụng chữ Hán
cho nền văn hoá của mình.Chữ Hán là
loại chữ biểu ý. Mỗi chữ là một
loạt ký hiệu biểu diễn trong ô vuông để
biểu hiện cho một sự vật, sự
kiện hay một ý niệm. Tuy mỗi chữ
vẫn có tương ứng với một phát âm nào
đó nhưng nói chung không có cách ghi biểu thị
cho hệ thống cấu tạo ra từ dựa trên
các thành tố ghi âm đơn giản.
Chữ Hán truyền vào Việt Nam trong thời kì
Trung quốc chiếm đóng và đô hộ Việt
Nam trong ngót 1 000 năm.
Đất Giao Chỉ bị nhà Hán cai trị từ
năm 111 trước công nguyên. Chữ Hán được
sử dụng chủ yếu trong công việc hành chính,
giáo dục.
Lịch sử còn ghi lại Thái thú Giao Chỉ là Sĩ
Nhiếp (187-226 sau công nguyên) là người đã
đứng ra mở mang việc học hành, thúc
đẩy sử dụng chữ Hán trong giáo dục.
Không có mấy các tác phẩm văn học, lịch
sử của thời kì này còn lại cho tới nay,
do việc trải qua nhiều cuộc chiến tranh
giữ nước và điều kiện lưu
giữ không thuận tiện.
Đặc điểm lớn nhất trong sự
tồn tại chữ Hán ở Việt Nam là chữ
Hán dần dần bị đồng hoá và bị
hấp thu vào trong văn hoá của Việt Nam.
Nhiều tinh hoa văn hoá chữ Hán đã được
dân tộc Việt Nam hấp thu. Nhiều tác phẩm
văn học và văn hoá của Việt Nam đã
được viết bằng chữ Hán...
Qua nhiều triều đại, chữ Hán đã
được dùng như chữ viết chính
thức trong bộ máy hành chính của các nhà nước
phong kiến Việt Nam.
a.
CHỮ NÔM
Chưa có sự thống nhất trong giới nghiên
cứu về việc chữ Nôm được hình
thành từ bao giờ và như thế nào, do việc
không còn tài liệu lịch sử chính xác về
vấn đề này.
Một số ý kiến cho rằng chữ Nôm hình thành
từ thời Sĩ Nhiếp.
Một số ý kiến khác cho rằng chữ Nôm
xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ 8,
thứ 9.
Sau đó được hình thành và hoàn chỉnh vào
khoảng cuối thế kỉ thứ 10 đến
thế kỉ 12, trong điều kiện Việt Nam
đã trở thành một quốc gia độc
lập không phụ thuộc vào Trung hoa nữa.
Chữ Nôm được xây dựng trên cơ
sở chữ vuông Hán, cách đọc dựa theo âm
Hán-Việt.
Chữ Hán chủ yếu là chữ biểu ý, nhưng
khi xây dựng chữ Nôm thì yếu tố ngữ âm
đã gia tăng thêm nhiều.
Muốn đọc hiểu chữ Nôm, không thể
thiếu thông tin ngữ cảnh và sự suy đoán
logic của người đọc để chọn
ra ý nghĩa đúng đắn nhất, do không có tương
ứng một đối một giữa từng
chữ Nôm với âm hay ý mà nó biểu diễn.
Đây là một hệ quả sẽ phải tính
tới khi thiết lập quan hệ tương
ứng giữa chữ Quốc ngữ, vốn hoàn toàn
biểu thị theo ngữ âm, và chữ Nôm, để
có thể có các bộ chuyển tự, và trong
nhiều trường hợp phải coi đó là
bộ trợ giúp chuyển tự thông minh (vì
cần chọn nghĩa sát hợp) giữa hai
loại chữ viết này cho cùng một ngôn
ngữ. Như vậy một đặc thù rất
đáng để ý của chữ Nôm là ở
chỗ kết hợp cả yếu tố biểu ý
và biểu âm.
Chữ Nôm là một tập hợp các kí hiệu hình
diễn tả cho các từ tiếng Việt, biểu
diễn dựa trên cơ sở cách viết chữ Hán
và các bộ trong chữ Hán có cải biên.
Chữ bao giờ cũng đi kèm với nghĩa,
đó là đặc trưng chung của chữ
biểu ý và vẫn được gìn giữ trong
chữ Nôm. Cho nên dù yếu tố biểu âm có len vào
để diễn tả cho tiếng Việt, thì
yếu tố biểu ý vẫn còn rất đậm.
Về mặt cấu trúc thì chữ Nôm hoàn toàn khác
với chữ ghi âm, mỗi tiếng được
biểu hiện bằng một kí hiệu riêng -
một chữ vuông - cho nên phải tạo ra rất
nhiều kí hiệu mới dùng được. Cũng
do đó, công việc tạo ra đủ các chữ
Nôm để diễn đạt tư tưởng người
Việt đã phải trải qua nhiều thời
gian mới đi đến chỗ hoàn chỉnh.
Như vậy về mặt hình chữ thì gần như
tất cả các chữ Nôm đều có nguồn
gốc từ một nguồn chữ Hán nào đó.
Tuy nhiên về mặt ngữ nghĩa và việc
sử dụng thì có nhiều chữ Nôm không có thành
phần tương đương với chữ Hán,
có nghĩa là không tồn tại trong chữ Hán.
Các chữ Nôm cấu tạo bằng cách vay mượn
nguyên chữ Hán được gọi là phép
giả tá.
Một cách cấu tạo nữa cũng được
gọi là giả tá là dùng chữ Hán, thêm dấu cá
hoặc dấu nháy và đọc chệch đi cho
đúng tiếng Việt.
Chữ Nôm được cấu tạo bằng
một yếu tố nghĩa và một yếu tố
âm được gọi là phép hình thanh.
Chữ Nôm được cấu tạo bằng hai
thành phần chỉ nghĩa được gọi là
phép hội ý.
Một điều dễ thấy là chữ Nôm chưa
bao giờ được chính quyền tiến hành các
công tác chuẩn hoá và thống nhất. Do đó phát
sinh việc có nhiều cách viết chữ Nôm không
thống nhất, một ý được biểu
diễn bằng nhiều cách viết chữ khác nhau.
Đến thời vua Quang Trung thì chữ Nôm rất
thịnh hành trong công việc hành chính, đơn
từ kiện cáo và các sắc phong, chỉ dụ
của vua quan đôi khi cũng dùng chữ Nôm.
Đến thời Minh Mệnh nhà Nguyễn (1820-1840)
chính quyền phong kiến bỏ chữ Nôm dùng trong
hành chính mà lại quay về dùng chữ Hán, nhưng
phải dùng đúng theo chuẩn từ điển
Khang Hy. Chữ Nôm từ đó chỉ còn lại
trong dân gian.
b.
CHỮ QUỐC NGỮ
Chữ Quốc ngữ hình thành và xuất hiện
đi kèm với tiến trình người châu Âu sang
Việt Nam để truyền đạo và sau đó
là sự xâm lược của Pháp.
Từ giữa thế kỉ thứ 16, nhất là vào
cuối thế kỉ, nhiều giáo sĩ người
châu Âu sang truyền đạo ở Việt Nam.
Để tiến hành công việc giảng đạo,
dịch và in các sách đạo, họ đã học
tiếng Việt và tìm cách ghi âm cách nói tiếng
Việt bằng chữ cái la tinh.
Ban đầu việc ghi âm hoàn toàn tuỳ theo
mỗi giáo sĩ, về sau họ mới xây dựng
nên lối chữ viết ít nhiều thống
nhất.
Do vậy chữ Quốc ngữ trong thời kì ra
đời đầu tiên, là một tác phẩm
tập thể của nhiều người châu Âu và
người Việt Nam giúp sức, đưa tư tưởng
ghi âm như các chữ của châu Âu vào ngôn ngữ
Việt.
Trong gần 3 thế kỉ hình thành, chữ Quốc
ngữ chủ yếu chỉ được dùng trong
giới công giáo.
Có thể thấy rõ ba giai đoạn chính trong quá
trình hình thành và phát triển chữ Quốc
ngữ:
* Giai đoạn hình thành ban đầu, do một
số người gần như các chuyên gia bên ngoài
vào quan sát, lắng nghe tiếng Việt, rồi
vận dụng tri thức ghi âm châu Âu để
tạo ra cách ghi âm tiếng Việt, với sự
cộng tác của một số người Việt
vô danh. Giai đoạn này chủ yếu thực
hiện trong giới công giáo.
* Giai đoạn thứ hai (từ cuối thế
kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20) là
giai đoạn truyền bá, chữ Quốc ngữ
len lỏi vào tầng lớp trí thức Việt nam,
với sự tiếp thu nhanh chóng của giới trí
thức và sự động viên của chính
quyền thực dân hồi đó.
* Giai đoạn thứ ba là giai đoạn đông
đảo người Việt Nam tiến tới
đón nhận chữ Quốc ngữ và sử
dụng phổ cập nó như thứ chữ
của chính mình, kể từ sau Cách mạng tháng Tám
1945.
So với chữ Hán, chữ Nôm, thì chữ Quốc
ngữ dễ học, dễ phổ cập văn hoá
và nâng cao tri thức khoa học, kĩ thuật cho
quảng đại quần chúng.
Về bản chất, chữ Quốc ngữ là
loại chữ ghi âm, cơ bản theo nguyên tắc
ngữ âm học. Nó sử dụng một số kí
hiệu nhất định mượn của hệ
thống chữ cái la tinh, có bổ sung thêm các
dấu nguyên âm và dấu thanh. Một số đặc
điểm riêng trong cách ghi tiếng Việt dẫn
tới một số khó khăn nhất thời trong
quá trình đưa chữ Quốc ngữ vào máy tính,
song về cơ bản đều đã được
khắc phục.
3. VAI TRÒ
CỦA CHỮ NÔM TRONG QUÁ KHỨ
Chữ Nôm ra đời đã tạo điều
kiện cho nền văn hoá thành văn của dân
tộc và tiếng Việt văn học hình thành và
phát triển. Chữ Nôm hình thành và phát triển
trong quá khứ thực sự đã trở thành công
cụ không thể thiếu được cho
nhiều thế hệ người Việt Nam
diễn đạt tư tưởng và trí tuệ cũng
như tình cảm trong nhiều tác phẩm thành văn
của các thời đại trước.
Có thể thấy ngay vai trò thứ nhất của
chữ Nôm là dùng làm phương tiện cơ
bản trong các sáng tác văn học. Mặc dầu
dòng văn học trong chữ Hán vẫn tồn
tại trong nhiều triều đại, xu hướng
dùng chữ Nôm trong các tác phẩm văn học
vẫn không ngừng tăng lên. Những áng thơ Nôm
đầu tiên có thể đã xuất hiện
từ đời Trần, thế kỉ 14.
Tập thơ chữ Nôm đầu tiên là Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi, thế kỉ 15.
Tiếp sau đó là hàng loạt các tác phẩm
diễn ca lịch sử như Thiên Nam ngữ
lục (thế kỉ 16), Việt sử diễn âm
(thế kỉ 17) v.v..
Các tác phẩm truyện thơ và ngâm khúc liên
tiếp xuất hiện trong các thế kỉ 17 cho
tới tận đầu thế kỉ 20.
Đỉnh cao văn học là Truyện Kiều
nổi tiếng của Nguyễn Du, Chinh phụ ngâm
khúc của Đoàn Thị Điểm đều
đã được viết bằng chữ Nôm.
Các tác phẩm Nôm như Cung oán ngâm khúc của
Nguyễn Gia Thiều, Sơ kính tân trang của
Phạm Thái, Thơ Nôm của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế Xương,
Nguyễn Khuyến... vẫn còn được
rất nhiều người ưa chuộng cho
tới ngày nay.
Một vai trò thứ hai rất rõ của chữ Nôm
là được dùng để ghi chép văn hoá dân
gian. Với chữ Nôm, kho tàng văn hoá truyền
miệng của Việt Nam có được công
cụ hữu hiệu để ghi lại thành văn
bản và khắc ván lưu truyền ca dao, tục
ngữ, thành ngữ và nhiều kịch bản chèo,
tuồng, các sách thuốc, sách y đã được
viết bằng chữ Nôm.
Trong dân gian, chữ Nôm còn được dùng xen
lẫn với chữ Hán để ghi lại sinh
hoạt xã hội, gia phả, lịch sử, địa
chí, bản đồ, đo đạc đất
đai, ghi lại số người sống ở các
làng xã, ghi lại địa chất, thổ nhưỡng,
thuế khoá, thiên tai, v.v. là những việc xảy
ra hàng ngày.
Điều này cũng tựa như trống đồng
được đúc với các cảnh sinh hoạt
của thời xưa được tái tạo
lại.
Chữ Nôm còn có vai trò thứ ba là phương
tiện để chuyển dịch và phổ
biến văn hoá Trung Hoa và các tôn giáo. Nhiều tác
phẩm Hán văn đã được dịch sang
chữ Nôm và phổ biến trong dân chúng.
Chữ Nôm lên đến đỉnh cao sử
dụng khi nó được chính quyền của vua
Quang Trung dùng làm văn tự trao đổi chính
thức trong công việc hành chính. (Nhưng sau đỉnh
cao này thì chữ Nôm lại trở về với nơi
nó được gìn giữ nhiều nhất là trong
dân gian. )
Có thể nói chữ Nôm đóng góp phần rất
lớn trong những bước đầu phổ
cập của các tín ngưỡng, tôn giáo ở
Việt Nam.
Các kinh sách truyện đạo Nho, đạo
Phật, Kitô giáo đều đã được biên
soạn và viết trong chữ Nôm để phổ
biến trong dân chúng.
Toà thánh Vatican hiện nay vẫn còn lưu giữ
nhiều văn bản chữ Nôm là bản dịch
của Kinh thánh.
Các kinh sách đạo Phật cho đến hiện
nay vẫn được in trong chữ Hán và chữ
Nôm và các nhà sư đều phải học chữ
Nôm để đọc những kinh sách này.
Tư tưởng của Đạo Lão, Đạo
Khổng cũng qua con đường chữ Nôm mà
thâm nhập vào các tầng lớp dân chúng.
Chữ Nôm như vậy là loại chữ chủ
yếu được các tầng lớp nhà nho bình
dân và nhân dân gìn giữ và sử dụng có
hiệu quả qua nhiều triều đại
mặc dầu chỉ đôi khi nó mới được
nhà nước chấp nhận là chữ chính
thức. Đặc điểm đó vẫn còn cho
tới ngày nay, khi chữ Nôm vẫn còn tồn
tại trong một số sinh hoạt xã hội không
chính thức, song không phải là ít quan trọng trong
đời sống văn hoá tinh thần hiện nay..
4.
HIỆN TRẠNG CHỮ NÔM VÀ CÁCH TIẾP CẬN
MỚI
Chữ Nôm đã đi cùng với dân tộc
Việt Nam trong nhiều thế kỉ, kể từ
ngày giành được độc lập từ
sự lệ thuộc phương Bắc.
Sau khi đạt tới sự phát triển mạnh
mẽ nhất vào thế kỉ 18 và 19, thì người
ta chứng kiến sự đi xuống của
chữ Nôm trong việc sử dụng.
Bắt đầu từ việc chữ Nôm không
được phép sử dụng trong các công
việc hành chính như chữ Hán, rồi việc bành
trướng mạnh mẽ của chữ Quốc
ngữ đã đẩy vị trí chữ Nôm sang bên
lề, trở thành thứ chữ của lịch
sử. Tuy nhiên sức sống của chữ Nôm không
phải đã tắt hẳn.
Chữ Nôm vẫn còn được sử dụng
trong các nghi lễ tôn giáo ở trong các đình chùa,
mặc dầu những người viết và đọc
chúng có thể không hoàn toàn hiểu hết tất
cả chữ Nôm. Các lá sớ cầu vẫn
được viết bằng chữ Nôm và giới
tăng lữ, tu sĩ vẫn thường xuyên
gửi người tới các Viện nghiên cứu,
các trường đại học để học
chữ Nôm.
Có thể nói ngày nay, số người biết
chữ Nôm nhiều hơn cả là trong Phật giáo.
Như vậy trong thực tế, bên ngoài giới
nghiên cứu và giới Phật học thì hầu như
mọi người dân thường không còn biết
tới chữ Nôm nữa. Chừng nào mà việc
sử dụng chữ Nôm còn chưa có cơ hội
phổ cập cho nhiều người dân dùng thì
chừng đó nó còn có thể tiếp tục mai
một đi.
Tuy nhiên sự ngưỡng mộ và lòng mong muốn
sử dụng chữ Nôm ở từng con người
Việt Nam không phải là đã tắt. Trong
nhiều gia đình Việt nam vẫn còn lưu
truyền các cuốn gia phả của dòng họ do
nhiều thế hệ trước để lại.
Chúng được viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm để ghi lại tên tuổi, thế
thứ, công trạng của những người
trong dòng họ. Đây là tài liệu lưu trữ
quí giá của các gia đình, dòng họ.
Mối quan tâm tới chữ Nôm thể hiện
nhiều ở những người lớn tuổi,
những người có thời gian tìm hiểu, suy
ngẫm về cuộc đời, dòng họ, dân
tộc. Và còn có những khát khao lớn của các
thế hệ mới để có thể hiểu
được phần lịch sử gần gũi
của ông cha để lại.
Với tình trạng hiện tại, hầu như các
thế hệ mới không thể nào có cách kế
thừa và hiểu nổi chữ Nôm của lịch
sử, cho dù chúng vẫn hiện hữu trong từng
gia đình.
Tất cả các áng văn thơ, các tác phẩm
kiệt xuất trong lịch sử thư tịch
Việt Nam còn lưu giữ lại cũng là trong
chữ Hán Nôm.
Các tác phẩm này đều đã có niên đại
hàng mấy trăm năm và một số tài
liệu đang trong quá trình bị thời gian
huỷ hoại, mặc dầu đã được
bảo quản cẩn thận. Quá trình huỷ
hoại này là không thể nào tránh khỏi nếu không
có các biện pháp tái tạo, in mới và chuyển
nội dung sang các phương tiện lưu trữ
mới.
Khả năng bị mất đi những vốn văn
hoá cổ bao giờ cũng hiện hữu, dù có
cố gắng bảo quản đến đâu,
vấn đề huỷ hoại cũng vẫn
chỉ là vấn đề thời gian. Một
số tác phẩm nổi tiếng trong chữ Nôm
đã được phiên chú ra chữ Quốc
ngữ và in rộng rãi, nhưng còn rất nhiều
tác phẩm vẫn còn chưa được phiên chú.
Vẫn có nhu cầu xuất bản song song các tác
phẩm bằng cả chữ Nôm và chữ Quốc
ngữ.
Riêng với kho tàng ấn phẩm chữ Nôm hiện
được lưu lại, Nhà nước hàng năm
vẫn chi ra nhiều tiền của cho công tác lưu
giữ, bảo tồn chúng.
Kho sách và thư tịch cổ đặt tại
Viện Hán Nôm là một cố gắng của Nhà nước
để tập trung tất cả các nguồn tư
liệu vào một nơi bảo quản. Việc làm
này là cần thiết nhưng mang tính phòng ngự và
không triệt để.
Mặt hạn chế của việc này là không
mở rộng và khuyến khích nhiều người
dùng chữ Nôm, một hình thức lưu giữ
sống.
Một trong những vấn đề rất lớn
được đặt ra cho chữ Nôm là nếu
không có biện pháp nào để khôi phục
sức sống của nó trong lòng các gia đình, con
người Việt Nam thì chữ Nôm sẽ thực
sự trở thành một thứ chữ chết. Nhưng
người Việt Nam vẫn tự hào về
truyền thống chữ Nôm của mình và không
muốn bị mất đi vốn di sản này.
Việc lưu giữ các tác phẩm chữ Nôm
tại một nơi tập trung không cho phép mở
rộng số lượng người thâm nhập
đến kho tàng văn hoá này.
Tuy nhiên, nếu không có những hình thức mới
để phổ cập chữ Nôm thì khó mà khôi
phục được việc sử dụng nó trong
nghiên cứu và trong đời sống xã hội.
Trên phương diện quốc gia, Nhà nước
đã thành lập Viện Hán Nôm, nơi tập trung
các chuyên gia về chữ Nôm để tiến hành
các nghiên cứu và gìn giữ về chữ Nôm.
Viện Hán Nôm chịu trách nhiệm quản lí
một kho sách lớn gồm các văn tự cổ
về chữ Hán và chữ Nôm, được thu
thập từ nhiều nguồn khác nhau, kể
cả bản sao dập các văn bia đá cổ
trong cả nước.
Viện có một đội ngũ nghiên cứu viên
khoảng 60 người về các vấn đề Hán
Nôm và xuất bản hàng tháng tạp chí Nghiên
cứu Hán Nôm. Việc giảng dậy về chữ
Nôm cũng được tiến hành ở các Đại
học quốc gia Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh.
Tuy nhiên số người biết chữ Nôm quả
thực là rất ít ỏi so với một dân
số trên 75 triệu người hiện nay.
Vấn đề rất lớn được đặt
ra đối với chữ Nôm của Việt Nam là
làm sao bảo tồn và phát huy được
vốn văn hoá - tinh thần mà nhiều thế
hệ người Việt đã đúc kết, ghi
lại trong các tác phẩm chữ Nôm.
Việc bảo tồn có thể chỉ nhìn vào khía
cạnh gìn giữ những gì của quá khứ còn
để lại, càng lâu càng tốt. Theo hướng
này nhiều kho tàng, hệ thống bảo quản có
thể được thành lập và tập trung
phần lớn các tác phẩm liên quan tới chữ
Nôm, tới quá khứ để gìn giữ.
Điều kiện gìn giữ có thể tốt hơn
nhưng điều kiện phổ cập cho mọi
người dùng lại khó khăn hơn và không tránh
được sự suy hỏng với thời gian.
Có thể phát triển những hình thức bảo
quản khác như xây dựng các bản sao dưới
dạng điện tử cho các tác phẩm cổ,
như làm microfilm, quét scanner vào máy tính, làm CD-ROM...
rồi lưu trữ tại một chỗ.
Những cách này có thể tạo bản sao tốt
cho việc lưu trữ nhưng vẫn chưa
thật tiện cho sử dụng. Chẳng hạn
để tìm kiếm các tài liệu cổ cần có
các bảng chỉ báo, mục lục trong chữ Hán
Nôm; để tìm kiếm tài liệu, các trích
dẫn văn bản cần rút ra được các
trích đoạn nguyên gốc chữ Hán Nôm.
Tất cả những điều này sẽ không
giải quyết nổi nếu chỉ có các bản
sao, dù dưới dạng điện tử.
Do đó để bảo tồn và phát huy được
vốn văn hoá tinh thần phong phú trong các di
sản ghi lại trong chữ Nôm, chúng ta có thể
theo một cách tiếp cận khác, tích cực hơn
và toàn diện hơn. Đấy là việc làm sao
cho chữ Nôm trở thành có sẵn cho mọi người
Việt có thể dùng được, chữ Nôm
đi vào việc sử dụng thường xuyên
của nhiều người. Điều này từ xưa
đến nay gặp khó khăn bởi lẽ
việc học chữ Nôm không phải là dễ, và
số người biết chữ Nôm ngày càng ít.
Chữ Quốc ngữ hiển nhiên là phương
tiện không gì thay thế nổi trong giao dịch hàng
ngày. Chắc chắn chữ Nôm không thể nào còn
ở vị trí thứ chữ chính của ngôn
ngữ dân tộc như đã từng biết đến
trong lịch sử. Tuy nhiên, khi mà cuộc sống
vật chất đã không ngừng được
cải thiện thì nhu cầu văn hoá cũng
sẽ ngày càng cao hơn.
Và một nhu cầu văn hoá dân tộc sẽ không
thể thiếu được với mọi người
Việt là tìm hiểu về quá khứ ngọn
nguồn của mình, tìm hiểu về cha ông mình thông
qua những di sản văn hoá cổ còn lại, mà
cụ thể là văn hoá chữ Nôm.
Rất may là công nghệ thông tin, ra đời trong vài
chục năm qua, đang trở thành công cụ
đắc lực giúp cho việc lưu trữ và
phổ biến tri thức trên toàn thế giới ,
đang nổi lên thành một công cụ đầy
hứa hẹn cho việc khôi phục việc sử
dụng chữ Nôm trong các gia đình và mọi người
Việt Nam. Một cách tiếp cận đúng đắn
tới chữ Nôm, tận dụng được
những thành tựu mới của kĩ thuật
hiện đại, sẽ vừa có tác dụng giúp
cho việc lưu trữ các di sản chữ Nôm
tốt hơn, vừa có tác dụng khuyến khích
việc dùng chữ Nôm phổ biến hơn, là
một vấn đề cần có những suy nghĩ
và triển khai thích đáng.
5. CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN VỚI CHỮ NÔM
5.1 MỤC ÐÍCH VÀ MỤC TIÊU
Sự phát triển mạnh mẽ của công
nghệ thông tin cùng với việc hình thành các kho
tri thức, thông tin điện tử trên mạng
Internet là một hình mẫu lí tưởng để
có thể thúc đẩy sự trở lại
của chữ Nôm trong lòng người Việt Nam và
trong các hoạt động xã hội.
Với việc các xã hội tiến tới xã
hội thông tin, với việc phổ cập máy tính
trong xã hội, một điều kiện thuận
lợi mới có thể mở ra cho chữ Nôm
nếu các máy tính có khả năng chuyển tải
chữ Nôm và nếu có những phần mềm thích
hợp cho phép khai thác thông tin và tri thức trong
chữ Nôm. Do đó có thể nói một cơ
hội mới cho việc tái phổ biến chữ Nôm
trong chừng mực nào đó đã hình thành.
Vấn đề là, những người đi đầu
phải tiến hành công tác dọn đường và
chuẩn bị phương tiện thuận lợi
cho mọi người sử dụng.
Mục đích cơ bản của việc tiến hành
công tác tin học hoá chữ Nôm như vậy là
nhằm vào khả năng phục hồi phần nào
việc sử dụng chữ Nôm như là một phương
tiện thể hiện và chuyển tải văn hoá
- thông tin từ quá khứ đến hiện tại
và tương lai trong đời sống văn hoá xã
hội Việt Nam. Công việc này không thể
tiến hành được nếu chỉ theo cách
cổ điển, truyền thống, mà không nhờ
tới khả năng hiện đại của công
nghệ thông tin, trong đó cho phép thể hiện
mọi loại hình chữ viết và cho phép việc
dùng chung tri thức trên quy mô toàn cầu. Từ
một kho thông tin tri thức được tích
luỹ và tổ chức lại trên mạng thông tin
điện tử, người dân Việt Nam với
một trình độ học vấn nhất định,
có thể thâm nhập vào đó để sử
dụng, dùng chung.Mục đích trước mắt
của công tác tin học hoá chữ Nôm là để
có thể chuyển các kho tàng tư liệu văn hoá-
lịch sử của dân tộc Việt Nam trong
dạng chữ Nôm, dù hiện được lưu
trữ ở đâu trên thế giới, vào các kho thông
tin điện tử, các Web site trong nước cũng
như trên thế giới.
Chỉ có hình thức lưu trữ nhân bản
dạng điện tử này thì mới đảm
bảo cho sự gìn giữ lâu dài văn bản và văn
hoá chữ Nôm.Để thực hiện được
mục đích lớn lao này, chúng ta có nhiều
mục tiêu cần đạt tới dần từng
bước.
Mục tiêu thứ nhất là phải tiến hành mã
hoá chữ Nôm vào trong bộ mã quốc tế chung,
từ đó tạo điều kiện để các
nhà sản xuất khi làm ra công cụ xử lí thông
tin thì cũng xử lí luôn được cho chữ
Nôm.
Mục tiêu thứ hai là xác định rõ các qui cách
vào và ra thông tin chữ Nôm để định hướng
cho việc triển khai các sản phẩm phần
mềm xử lí chữ Nôm. Tiếp sau khi đã có mã,
cần phải tiến hành quá trình chuẩn hoá hình
chữ Nôm và tạo dựng bộ phông chữ Nôm
thể hiện trên các máy tính. Đồng thời
phải xác định ra cách gõ đưa thông tin
chữ Nôm vào máy tính phù hợp với thói quen
sử dụng của người Việt.
Mục tiêu thứ ba sau khi thực hiện xong hai
mục tiêu trên là xây dựng cơ sở dữ
liệu lưu giữ tất cả các văn
bản, tác phẩm hiện có trong kho lưu trữ
về chữ Nôm. Đồng thời với điều
này là việc tổ chức và duy trì các trang Web
giới thiệu về các kho lưu trữ này,
tổ chức các thư viện điện tử
(hay thư viện số).
Có hai hình thức lưu trữ thông tin cần
thực hiện. Hình thức thứ nhất là lưu
trữ hình ảnh của từng trang, từng
bộ văn bản cổ, để thấy
được nguyên dạng của chúng. Hình
thức thứ hai là lưu trữ theo đơn
vị kí tự chữ Nôm, để thuận
tiện cho công tác tìm kiếm, tham khảo, nghiên
cứu và phát triển về sau.
Mục tiêu thứ tư, bên cạnh việc tiến
hành các mục tiêu trên là phải xây dựng và hình
thành một đội ngũ chuyên viên mới
về chữ Nôm và tin học để duy trì
hệ thống chữ Nôm dạng điện tử
và thực hiện việc đưa vào máy tính
tất cả các tư liệu, tài liệu có liên
quan tới chữ Nôm.Mục tiêu thứ năm
(gắn liền với giáo dục, đào tạo và
phổ cập máy tính) là dần hình thành một xu
hướng nhiều người dân có thể thâm
nhập và sử dụng kho tư liệu chữ Nôm
trên máy tính khi tham khảo các tư liệu cổ và
qua đó chữ Nôm trở thành gần gũi
với cuộc sống hàng ngày của mọi người
hơn.
5.2.
NHỮNG CỐ GẮNG CỦA BƯỚC ÐẦU: MÃ
HÓA CHỮ NÔM
Unicode và ISO (International Organization for Standardization) đang
cùng nhau xây dựng bộ mã vạn năng cho
mọi hệ chữ viết của các dân tộc,
kể cả các hệ chữ viết hiện
tại không dùng nhưng đã có trong lịch
sử. Bộ mã ISO 10646 và Unicode (một phần trùng
với ISO 10646) sẽ là cơ sở cho mọi máy tính,
thiết bị xử lí thông tin.
Nhiều công ti CNTT quốc tế lớn đã và
đang xây dựng các phần mềm chạy với
bộ mã Unicode và xu hướng toàn thế giới
chuyển sang bộ mã này là tất yếu trong
thời gian sắp tới.
ISO và Unicode chấp nhận cấp thêm mã cho các
loại chữ viết vốn có ý nghĩa lớn và
được dùng nhiều trong lịch sử cũng
như các chữ viết của các dân tộc trước
đây chưa được đăng kí.
Do vậy đây là thời cơ thuận lợi
để chúng ta có thể đưa chữ Nôm vào
bảng mã chuẩn quốc tế, bên cạnh bộ
mã chữ Việt phổ thông hiện có. Nếu
hệ chữ viết nào không được mã hóa
vào bộ mã này thì sẽ rất khó khăn cho
việc dùng máy tính xử lí nó.
Bên ngoài nước, nhận thấy tầm quan
trọng của vấn đề và sự gấp rút
của thời hạn tham gia xây dựng chuẩn
quốc tế, nhóm chuyên gia Ngô Thanh Nhàn, Đỗ Bá
Phước, Nguyễn Hoàng, được uỷ
nhiệm đại diện cho Việt Nam, đã tích
cực nêu vấn đề đưa chữ Nôm vào
bộ mã thế giới cho các tổ chức tiêu
chuẩn quốc tế.
Trong kì họp lần thứ 5 của Nhóm nghiên
cứu liên hợp Trung Nhật Hàn (China/Japan/Korea Joint
Research Group - gọi tắt là CJK-JRG) tổ chức
tại Honolulu, Hawai, Mĩ năm 1992, Việt Nam
lần đầu tiên đã có đại diện chính
thức tham dự kì họp này và đã đưa
ra yêu cầu: Đưa chữ Nôm vào kho chữ chung
của các chữ biểu ý.
Thống nhất các chữ Nôm vốn trùng với
chữ Hán và đề nghị bổ sung thêm 1772
chữ Nôm thuần Việt không trùng chữ Hán vào
bảng mã này.
Nỗ lực này đã được sự
tiếp nối tham gia của Ban kĩ thuật công
nghệ thông tin TCVN/JTC1 của Việt Nam và tiếp
sau đó là Viện Hán Nôm (Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn). Chuyên gia trong nước và ngoài
nước đã được đều đặn
cử tới tham dự các cuộc họp của Nhóm
báo cáo viên chữ biểu ý (Ideographic Rapporteur Group -
IRG) để trực tiếp yêu cầu đưa
chữ Nôm vào kho chữ chung và thực hiện các
nhiệm vụ có tính kĩ thuật.
Qua các cuộc họp nhóm công tác quốc tế,
Việt Nam đã yêu cầu và được
chấp thuận có một cột V dành cho chữ Nôm,
với khoảng gần 4500 chữ đã được
thống nhất với các chữ biểu ý trong khu
vực và được cấp mã trong mặt
phẳng 1 của ISO 10646 và trong Unicode.
Các triển khai về chữ Nôm và tin học đã
được tiến hành tập trung tại
Viện Hán Nôm. Nguyễn Quang Hồng cùng các
cộng tác viên, đã tập hợp được
hơn 9 000 chữ Nôm dựa trên các tự điển
chữ Nôm hiện có và các tài liệu nguyên gốc
nhằm cung cấp danh sách chữ cho việc mã hoá.
Nhóm chuyên viên tin học thuộc Viện Hán Nôm
đã tích cực tham gia việc vẽ phông cho các
chữ Nôm. Các chuyên gia mã hoá chữ Nôm trong và ngoài
nước đã hoàn thành hai dự thảo về
tiêu chuẩn Việt nam cho chữ Nôm, đã
được Tổng cục Tiêu chuẩn chất lượng
xét duyệt và ban hành thành tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN 5773:1993 và TCVN 6056:1995.
Viện Hán Nôm, cùng với sự hỗ trợ
của Tiểu ban chuẩn thuộc Chương trình
quốc gia về CNTT, đã đứng ra chịu trách
nhiệm chính trong việc huy động chuyên gia và
tiềm lực trong nước để theo đuổi
việc đưa chữ Nôm vào bảng mã quốc
tế. Hơn 4 200 chữ Nôm thuần Việt (kể
cả 1 772 chữ Nôm thuần Việt đã đề
nghị từ đầu) đã được
đăng kí đưa vào kho chữ biểu ý Đông
Á và sẽ được dự kiến mã hoá trong
mặt phẳng 2 của ISO 10646.
Như vậy về cơ bản các chữ Nôm
thuần Việt đã được khai thác
gần hết để đưa vào kho chữ
biểu ý IRG. Không thể nói là đã có toàn bộ
các chữ Nôm, nhưng với số lượng trên
25 000 chữ Hán đã có trong Unicode, bổ sung thêm
khoảng 4 200 chữ thuần Nôm nữa, có thể dùng
trong vùng và dùng riêng, thì có thể nói làm tạm
đủ để biểu diễn cho các chữ Nôm
trên máy tính.
Như vậy khâu mã hoá chữ Nôm có thể xem như
bước đầu được giải
quyết.
Đi kèm với quá trình mã hoá và triển khai các
hệ thống xử lí chữ Nôm, thì điều
cần phải nhấn mạnh là tiến trình
chuẩn hoá chữ Nôm cũng thực tế
được tiến hành. Các chuẩn quốc gia
đã ban hành là nỗ lực chuẩn hoá bước
đầu cho một số mã chữ Nôm.
Nhưng chính các sản phẩm phần mềm
một khi được sử dụng thì sẽ góp
phần làm "chuẩn hoá" cho chính chữ Nôm,
cả về hình chữ lẫn mã hoá, chữ
viết và các qui tắc tương ứng với âm
đọc.
Như vậy có thể nói là chữ Nôm lần
đầu tiên có được cơ hội hệ
thống hoá và "chuẩn hoá" trong lịch
sử tồn tại và phát triển của nó.Vấn
đề còn lại là triển khai các công cụ
phần mềm cần thiết để người
dùng có thể sử dụng được khả năng
đa ngữ trên cùng một hệ thống máy tính.
5.3 CÁC
VẤN ÐỀ CẦN TRIỂN KHAI TIẾP THEO
Với sự phát triển của các phần mềm
mới, có khả năng xử lí đa ngôn ngữ
trên máy tính, khả năng máy tính xử lí cho
chữ Nôm đồng hiện với chữ Quốc
ngữ và các thứ chữ khác là có thể
thực hiện được. Tuy nhiên, một
số vấn đề cần có các hoạt động
nghiên cứu triển khai cụ thể thì mới thúc
đẩy công việc này trở thành hiện
thực.
Các chữ Nôm xin đăng kí vào bộ mã chuẩn
quốc tế của chúng ta hiện nay mới
chỉ có các font chữ bitmap 96x96. Để
đưa vào các hệ thống máy tính, cần có
việc xây dựng và hoàn chỉnh, làm font đẹp
hơn và chuyển sang các dạng PostScript, TrueType,
TrueType Open.Một điểm kĩ thuật cần
xử lí là các chữ Nôm thuần Việt hiện
bị xếp vào mặt phẳng 2, có nghĩa là
hiện chúng chưa có mặt trong bộ mã Unicode.
Để dùng được chữ Nôm với
bộ mã Unicode, cần thiết phải đưa các
chữ Nôm thuần Việt này vào vùng mã dùng riêng
(Private Use Area) của Unicode. Do đó cần có
phần mềm phụ thực hiện việc này khi
các hệ điều hành chính không hỗ trợ cho
khả năng này.
Khi các vấn đề về phông chữ và
việc bố trí đưa chữ vào không gian mã
Unicode đã được giải quyết thì
tới vấn đề cần xây dựng cách
đưa thông tin chữ Nôm vào từ bàn phím.
Bối cảnh xem xét vấn đề bàn phím
đưa vào cho chữ Nôm là đại đa
số người Việt, quen thuộc với bàn phím
chữ Việt hoặc bàn phím tiếng Anh thông thường,
quen thuộc cách diễn đạt tiếng Việt,
nay muốn đưa vào thông tin chữ Nôm.
Do chữ Nôm và chữ Quốc ngữ thực
chất đều dùng để diễn tả các
từ tiếng Việt, cho nên theo thói quen thông thường
là người dùng muốn sử dụng chữ
Quốc ngữ để tra tìm chữ Nôm. Và qua quá
trình này, người dùng cũng làm quen dần
với chữ Nôm đã có thời bị lãng quên.
Như vậy chữ Nôm sẽ được
nhận dạng theo toàn thể hình chữ ứng
với âm đọc, chứ không theo việc hình thành
chữ từ cách viết tay, từ từng nét
sổ.
Do đó cần phải phát triển các bảng tra tương
ứng từ cách biểu diễn âm tiết
tiếng Việt viết trong chữ Quốc ngữ
sang các hình chữ Nôm và ngược lại, từ
một hình chữ Nôm, cần có bảng tương
ứng với tất cả các âm tiết viết
trong chữ Quốc ngữ. Chỉ khi có hai bảng
tra này thì việc đưa vào và sử dụng
chữ Nôm mới có thể dễ dàng cho mọi người
Việt.
Khả năng đưa chữ Nôm vào theo bộ và
số nét, theo cách viết chữ Nôm trở thành khó
khăn và bất tiện cho người Việt, và
do đó khó mở rộng được phạm vi
người sử dụng.
Khi đã có đủ các công cụ đưa
chữ vào, thể hiện đưa chữ ra trên màn
hình, máy in, thì có thể xem xét tới các ứng
dụng soạn thảo văn bản chữ Nôm.
Điều này có thể trông đợi ở các chương
trình xử lí văn bản đa ngữ đang
được phát triển và đưa ra thị trường.
Với khả năng tổng quát xử lí cho
mọi ngôn ngữ, có thể xem xét thêm yêu cầu
phụ về việc cho phép soạn thảo chữ
Nôm với cách gõ thông tin và hình chữ Nôm như
đã xác định ở trên. Điều này đòi
hỏi hoặc các chuyên gia CNTT trong các công ti lớn
tham gia hỗ trợ, hoặc một nhóm chuyên gia CNTT
độc lập phát triển các phần mềm
phụ để giúp cho chương trình soạn
thảo văn bản tổng quát xử lí chữ Nôm.
Tiếp đó là việc thiết lập cơ
sở dữ liệu các văn bản chữ Nôm. Có
hai hình thức tạo cơ sở dữ liệu
chữ Nôm là kho các hình ảnh thật của các văn
bản chữ Nôm (kho ảnh các trang sách) và kho các văn
bản chữ Nôm được gõ lại vào máy
theo từng chữ Nôm. Hai hình thức này bổ sung
lẫn cho nhau và không loại trừ nhau. Tất
cả các văn bản cổ đều cần
được ghi vào các thiết bị lưu
trữ dung lượng lớn. Tổ chức một
hệ cơ sở dữ liệu cấp quốc gia
về kho văn bản chữ Nôm này là việc
rất xứng đáng và nên tiến hành. Tuy nhiên
việc này cũng chỉ có thể làm được
một khi đã có những công cụ xử lí
đủ mạnh trên máy tính, đồng thời có
một đội ngũ chuyên viên sử dụng thành
thạo các công cụ đó.
Việc tổ chức lưu giữ hình ảnh
của các văn bản chữ Nôm trong máy tính
bằng việc dùng máy quét đưa tất cả
các hình ảnh của văn bản cổ vào máy tính
rồi sau đó có thể đọc lại các hình
ảnh đó để sử dụng là một cách
thức lưu trữ nhân bản cần thực
hiện.
Việc này đòi hỏi nhiều đầu tư kĩ
thuật và tổ chức thông tin. Tuy nhiên cần
phải có các hệ thống phần mềm khai thác,
cho phép đưa vào từng chữ Nôm, soạn
thảo văn bản từ từng chữ Nôm
nếu muốn khai thác được kho lưu
trữ này, vì đây là việc xử lí về
ngữ nghĩa, không chỉ hình ảnh. Toàn bộ
hệ thống lưu trữ hình ảnh sẽ không
thể thâm nhập tới được nếu không
có việc tra cứu qua các hệ thống mục
lục, chỉ dẫn trong chữ Nôm.
Các trích dẫn cũng không thể thực hiện
được nếu chỉ có hình ảnh. Và khi
cần có các ấn bản chữ Nôm đi kèm các
thứ chữ khác thì phần lưu trữ hình
ảnh văn bản cổ không đáp ứng
được.Viêc triển khai xây dựng các trang
Web cho phép khai thác thông tin chữ Nôm cũng rất
quan trọng và cần thiết để khuyến khích
nhiều người tích cực sử dụng
chữ Nôm trên máy tính. Công việc này có thể
tiến hành ngay mà không nhất thiết phải
đợi xây dựng xong cơ sở dữ liệu
các văn bản chữ Nôm. Trang Web về chữ Nôm
sẽ là nơi tập trung thể hiện được
tất cả những thành tựu tin học hoá cho
chữ Nôm, một nơi mở rộng giao lưu
về chữ Nôm trên toàn cầu.
Vai trò và vị trí của nó trong việc động
viên và thúc đẩy việc sử dụng chữ
Nôm là rất lớn trong tương lai nên cần có
sự quan tâm thích đáng. Tất cả các vấn
đề tổ chức thông tin trong các văn
bản có chữ Nôm này đều có thể
được xem xét dưới dạng tổ
chức các thư viện điện tử để
cho nhiều người thâm nhập tới được.
Trong vấn đề triển khai thông tin trên Web và
tổ chức các cơ sở dữ liệu, do
những tiến bộ nhanh chóng của công nghệ
đang diễn ra, cũng cần phải tính tới
việc tạo ra văn bản dạng XML với
chữ Nôm và Quốc ngữ trong Unicode, tuân thủ các
chuẩn quốc tế và công nghiệp để có
tiềm năng phổ biến rộng rãi cho
nhiều người dùng và tránh bị lạc
hậu về những cách tổ chức và trình
bầy thông tin.
XML (eXtensible Markup Language) là một chuẩn mới
nổi lên cho các văn bản có cấu trúc, để
vượt qua giới hạn của HTML (HyperText
Markup Language) nhưng vẫn cung cấp được
sức mạnh của SGML (Standard Generalized Markup
Language, ISO 8879) mà không phức tạp như SGML.
Một văn bản có cấu trúc, có cả nội
dung lẫn các đánh dấu, cung cấp một tiêu
bản phong phú và linh hoạt cho việc xử lí cơ
sở dữ liệu cũng như cho việc trình
bầy thông tin.
Như đã thảo luận trước đây,
việc xử lí cho chữ Việt - cả chữ
Quốc ngữ lẫn chữ Nôm - đòi hỏi
một chuẩn mã hoá với các phông hoàn toàn 16 bit.
Các nhà cung cấp nội dung có dự định
dựa trên hệ điều hành như Windows NT hay
MacOS, sẽ hỗ trợ đầy đủ cho
việc quốc tế hoá, bằng việc tôn
trọng các chuẩn quốc tế như XML và
Unicode, và các công nghệ như PostScript và TrueType.
Nhà cung cấp nội dung có thể được
lợi rất nhiều từ tuyển tập phong phú
các công cụ đã có sẵn và phổ biến trên
Internet, một số trong chúng có thể được
may đo tuỳ theo nhu cầu đặc biệt
của nhà cung cấp nội dung. Tuy nhiên không
phải mọi người nhận tin tiềm năng
đều có thể có được trong hệ máy
tính của mình cùng các hệ điều hành và phông
như của nhà cung cấp nội dung. Do đó,
với thông tin được cung cấp cho người
nhận, chẳng hạn qua trình duyệt Web, phải
tiến hành chuyển đổi định dạng
thích hợp cho họ.
Tài liệu XML/Unicode cung cấp các khả năng như
vậy. Việc dựa trên các chuẩn quốc
tế và công nghiệp cũng làm giảm khả năng
lạc hậu về định dạng dữ
liệu trong tương lai.Các nhiệm vụ cụ
thể để tiến hành công việc đưa
chữ Nôm lên các trang Web và tổ chức các cơ
sở dữ liệu có thể được phác
hoạ theo ba giai đoạn sau:
GIAI ÐOẠN THỨ NHẤT
Xác định cách mã hoá Vùng sử dụng riêng
(Private Use Area) cho chữ Nôm. Đăng kí việc mã
hoá này với IANA.
Thêm các kí Nôm bipmap 96x96 vào bộ phông Unicode, như
Bitstream's Cyberbit. Xây dựng phông outline cho chữ Nôm.Chuyển
từng chữ Nôm thành các tệp GIF và JPEG.Xây
dựng bộ chuyển đổi từ tài liệu
XML/Unicode Việt Nam cho TrueType sang tài liệu HTML cho
GIF/JPEG
GIAI ÐOẠN
THỨ HAI
Xây dựng phương pháp đưa vào cho chữ
NômXây dựng một động cơ tìm kiếm
cho Quốc ngữ và chữ Nôm
GIAI ÐOẠN
THỨ BA
Quét và chuyển đổi các tài liệu Nôm vào
XML/UnicodeCũng giống như quá trình hình thành
chữ Quốc ngữ, khi mà đại đa số
người Việt còn chưa biết gì mấy
về cách ghi tiếng Việt, thì một số chuyên
gia am hiểu vấn đề cần đi trước
để tạo ra các công cụ thuận lợi cho
mọi người về sau dùng.
Nếu như trước đây công việc chủ
yếu do các giáo sĩ - chuyên gia ngôn ngữ người
châu Âu tiến hành, với sự trợ giúp của
người Việt Nam, thì ngày nay công việc
chủ yếu sẽ là những người biết
chữ Việt Nam ở trong và ngoài nước, am
hiểu kĩ thuật mới tiến hành.
Để làm được những vấn đề
đó, có hai khía cạnh cần xem xét tới. Khía
cạnh thứ nhất sẽ là việc tập trung
các chuyên gia am hiểu vấn đề và tạo nên
đủ các công cụ thuận lợi cho người
dùng. Khía cạnh thứ hai sẽ là việc huấn
luyện người dùng sử dụng các công
cụ mới để viết ra chữ Nôm, sử
dụng chữ Nôm thành thạo. Quá trình phổ
biến, phổ cập này chắc cũng cần
nhiều thời gian, nhưng nhất thiết
phải hình thành được đội ngũ
những người biết dùng máy tính để
sử dụng chữ Nôm và đưa thông tin
chữ Nôm vào trong máy. Nếu như chữ Quốc
ngữ có thể phải mất BA TRĂM NĂM
để phát sinh và ổn định, thì sự
"tái sinh" của chữ Nôm trên máy tính sẽ
nhanh hơn nhiều.
6. KHÓ
KHĂN VÀ TRIỂN VỌNG
Mặc dầu đã thu được một số
kết quả trong cố gắng bước đầu
đưa chữ Nôm vào bộ mã quốc tế, song
khả năng thực thi tiếp các vấn đề
kĩ thuật tin học hoá ở trong nước
vẫn còn là điều nan giải và khó khăn.
Đội ngũ cán bộ tin học tại chính
Viện Hán Nôm vẫn còn yếu và chưa có người
đủ tầm cỡ đến quán xuyến
một công việc có tầm vóc lớn, chưa nói
đến việc còn nhiều người khác chưa
hiểu được hết công việc này.
Khả năng kĩ thuật tin học của
Viện Hán Nôm trong thời gian trước mắt chưa
đáp ứng được yêu cầu. Nhưng
Viện có khả năng hấp thu và sử dụng
các kĩ thuật, phần mềm công cụ mới
nếu được trang bị và huấn luyện
thích đáng.
Với tư cách là một viện nghiên cứu chuyên
ngành về Hán Nôm, nếu cấp lãnh đạo
của Viện thực sự đánh giá đúng ý
nghĩa to lớn của công tác tin học hoá kho
chữ Nôm thì có thể huy động được
tiềm lực của Viện và sự hỗ
trợ của Nhà nước cho công tác này. Cấp
lãnh đạo Viện và Trung tâm Khoa học Xã
hội và Nhân văn đã có những quan tâm và
quyết tâm theo đuổi việc đưa chữ
Nôm vào bộ mã quốc tế. Tuy nhiên việc tin
học hoá toàn bộ công tác nghiên cứu và bảo
trì kho sách chữ Nôm thì cần có những quyết
tâm dài hơi hơn và sự chỉ đạo sâu
sắc hơn. Việc tin học hoá này gắn
liền với việc thay đổi cách nghĩ, cách
làm của mọi người trong Viện, và đây
cũng vẫn còn là một vấn đề khó khăn
và cần nhiều thời gian nữa.Khó khăn
lớn nhất là việc hiện chưa có khả năng
thu hút lớp người trẻ năng động,
giỏi về tin học mà lại quan tâm tới
việc tin học hoá chữ Nôm nói chung trong cả nước.
Các công ti CNTT trong nước không thể để
ý đến khu vực này vì thị trường
hiện tại gần như là không có. Mà để
giải quyết vấn đề sử dụng
chữ Nôm thì cần phải có các phần mềm
cho phép xử lí đa ngữ. Các cố gắng
hiện tại của nhóm nghiên cứu tin học
tại Viện Hán Nôm vẫn chỉ là xoay xở
trong cái khung hạn hẹp của những phần
mềm kiếm được, do đó không giải
quyết được vấn đề mỗi khi có
việc nâng cấp hay thay đổi phần
mềm.Các trở ngại về kĩ thuật để
có thể sử dụng chữ Nôm trên máy tính,
mặc dầu vượt khỏi tầm giải
quyết và quan tâm của lực lượng chuyên
viên tại Viện Hán Nôm, không phải là không
giải quyết được trên bình diện
quốc gia và quốc tế. Để giải
quyết các vấn đề kĩ thuật này,
cần thiết phải sử dụng tri thức chuyên
ngành của các chuyên gia Việt Nam hiện đang
tham gia vào các công ti CNTT trong nước và quốc
tế. Với việc có công cụ đến
mức nào đó thì sẽ có thể tạo nên
mối quan tâm bên trong nước về việc
sử dụng chữ Nôm. Cũng chỉ khi đã có
công cụ đủ mạnh thì việc triển khai
xây dựng cơ sở dữ liệu các văn
bản, sách chữ Nôm mới được
tiến hành có hiệu quả. Trong những việc
này, cần tìm ra các nguồn kinh phí để có
thể phối hợp sự đóng góp của các
chuyên gia trên toàn thế giới nhằm đưa
chữ Nôm vào hệ thống máy tính. Nhu cầu trước
mắt có thể là một hình thức phối
hợp nào đó giữa các chuyên gia quan tâm tới
việc phát triển phần mềm cho chữ Nôm trên
một số môi trường tính toán phổ
biến như Windows hay Mac. Một khi có môi trường
thuận lợi này thì có thể thúc đẩy
sự phổ biến trong nội bộ Việt Nam,
từ đó dần hình thành thị trường và
lớp người phát triển phần mềm
chữ Nôm trong nước.
Có thể cần xem xét tới việc hình thành ra
một phong trào hiện đại hoá công nghệ dùng
cho chữ Nôm để động viên giới công
nghệ thông tin tích cực tham dự và hậu
thuẫn cho việc sử dụng kĩ thuật
mới. Nên đề cập tới vấn đề
treo các giải thưởng tin học để
khuyến khích cho các tài năng trẻ phát triển
các phần mềm xử lí cho chữ Nôm, thậm chí
cả với việc đưa văn bản chữ
Nôm vào trong máy tính. Việc tổ chức các đại
hội văn hoá chữ Nôm để khuyến khích
các gia đình giới thiệu những tài liệu
cổ trong chữ Hán-Nôm mà mình còn giữ và sau
đó giúp đỡ họ trong công tác in ấn là
điều rất nên làm. Tất cả những
điều này sẽ được mọi người
dân hưởng ứng nếu có chủ trương
và sự động viên của Nhà nước.
Có thể dần dần xây dựng một tổ
chức liên kết tất cả các chuyên gia
Việt Nam trong và ngoài nước xoay quanh việc khôi
phục và nghiên cứu, phát huy giá trị của di
sản văn hoá chữ Nôm. Sau khi hình thành đủ
công cụ xử lí cho chữ Nôm thì công việc
tiếp sẽ là tổ chức thư viện điện
tử, đưa lên mạng máy tính các tác phẩm
chữ Nôm quan trọng, tiến hành phiên chú sang
chữ Quốc ngữ. Một liên kết rộng rãi
các học giả quan tâm tới chữ Nôm trên quy mô
toàn Việt Nam và thế giới như vậy có
thể giúp ích rất nhiều cho việc khơi
dậy sự quan tâm đến chữ Nôm trong nước.
Các trung tâm dịch thuật các tác phẩm Nôm sang
Quốc ngữ nên được phát triển
rộng rãi.
Hơn nữa những công việc này nên được
tiến hành phổ cập trên mạng máy tính để
cho tất cả mọi người quan tâm đều
có thể thâm nhập tới và sử dụng
được những văn bản chữ Nôm. Các
tổ chức có khả năng in ấn cả
chữ Hán Nôm lẫn chữ Việt sẽ đáp
ứng cho nhu cầu in ấn trong quảng đại
quần chúng. Và sẽ càng tốt hơn nếu
tại từng máy tính, mọi người đều
có khả năng in ấn ngay những công trình
của mình trong cả chữ Hán Nôm lẫn chữ
Quốc ngữ.
Tất cả những việc này sẽ có thể giúp
ích cho việc hình thành một tầng lớp trí
thức "Nôm học" hiện đại, am
hiểu cả chữ Quốc ngữ, chữ Nôm
lẫn công nghệ thông tin, để làm việc
chuyển tải các giá trị văn hoá tinh thần
cổ của lịch sử sang chữ Quốc
ngữ. Một khi đội ngũ những người
biết chữ Nôm trên máy tính này đã được
hình thành thì nó sẽ tự phát triển trong lòng các
gia đình và các thế hệ người Việt
mới. Lúc đó vai trò gìn giữ và phát huy chữ
Nôm lại có thể trả về cho nhân dân. Nhưng
rõ ràng là hiện nay đang cần có một chủ
trương sáng suốt và mạnh bạo, một
định hướng rõ ràng, một sự thúc
đẩy mạnh mẽ ban đầu cho công
cuộc lớn lao này.
Các chính quyền tại Việt Nam trong lịch
sử không phải đã rất chú trọng tới
việc bảo tồn và phát huy chữ Nôm như
một thứ chữ của dân tộc. Chính nhân dân
trong lịch sử mới là người đứng
ra gìn giữ và phát huy chữ Nôm như một công
cụ diễn đạt tư tưởng, văn hoá
của mình. Kĩ thuật khắc ván trong dân gian
đã cho phép in ấn nhiều tác phẩm văn
học nghệ thuật trong chữ Nôm và phổ
biến. Nhưng từ khi chữ Quốc ngữ
nổi lên thay thế cho chữ Nôm thì việc in
ấn và phổ cập chữ Nôm mất dần.
Từ năm 1895 đến nay, hầu như không có
nỗ lực và khả năng nào từ phía các chính
phủ ở Việt Nam để in các chữ Nôm. Kĩ
thuật ngày nay đã tốt hơn rất nhiều
lần việc khắc ván in chữ ngày xưa,
thế nhưng thực sự chưa có những
dự án dù là nhỏ để in ấn và phổ
biến chữ Nôm. Và kĩ thuật khắc ván in
chữ Nôm thực tế cũng đã bị mai
một, kết quả các tác phẩm trong chữ Nôm
không còn được phổ biến nữa. Cũng
đã có xuất bản một số sách, văn
bản hiện đại trong đó có chữ Nôm
viết tay, hay gần đây hơn, dùng máy tính
để sắp chữ và in chữ Nôm.
Tuy nhiên đó chỉ là những cố gắng
của từng cá nhân, của từng công ti, chưa
có những xem xét của Nhà nước trong vấn
đề này.Các cuộc chiến tranh lớn với
Trung hoa, Pháp, Nhật và Mĩ cũng không thể nào
phá huỷ được cây cầu nối chúng ta
với lịch sử dân tộc qua chữ Nôm, chúng
chỉ phá huỷ được một phần
nhỏ di sản vật chất của vốn văn
hoá tinh thần này. Nhưng nếu chúng ta không có ý
thức gìn giữ, không làm gì để khôi
phục và phát huy chữ Nôm, thì thực sự chính
chúng ta là người phải chịu tránh nhiệm
cho sự sập đổ của cây cầu này. Vai
trò của giới trí thức và trong công việc này
rõ ràng rất lớn, trách nhiệm của Nhà nước
trong công việc này là không nhỏ. Nếu trong
lịch sử, nhân dân (kể cả nho sĩ) là người
cưu mang, gìn giữ và phát huy chữ Nôm, thì ngày
nay trách nhiệm này dồn vào tầng lớp trí
thức và nhà nước, bởi vì tầng lớp
nho học trong nhân dân không còn nữa. Nếu trong nhân
dân không hình thành nên được một lớp
người am hiểu và ham thích khai thác nghiên
cứu về chữ Nôm, thì sự sập đổ
cây cầu nối với quá khứ qua chữ Nôm là
điều chắc chắn.
Nguyễn Quang Hồng
Ngô Thanh Nhàn
Đỗ Bá Phước
Ngô Trung Việt
|