|
Bài này là phần dẫn nhập tổng quát,
sửa soạn cho từng phần trình bày chuyên sâu hơn
về nhạc tính dễ nhận diện, từ
ngữ dễ nhận diện, thể Thơ dễ
nhận diện, mà bấy lâu, Thơ Hải Ngoại
đã đóng góp.
Trước hết, ta cũng nên biết qua về
từ ngữ chủ nghĩa hiện đại trong văn
chương thế giới, để phân biệt
với từ ngữ hiện đại hóa riêng cho văn
chương Việt Nam, ở trong cũng như ở
ngoài nước.
Điểm qua vài cuốn sách nghiên cứu Văn
Học ở trong nước. Như cuốn "Quá Trình
Hiện Đại Hóa Văn Học Việt Nam - 1900 -
1945" (Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin - Hà
Nội 2000). Các ông Phan Cự Đệ Mã Giang Lân
đã nghiên cứu riêng về Thơ. Nét hiện
đại hóa trong Thơ Thời kỳ 1900 - 1945 là Thơ
Mới, đó là sự tổng hợp ảnh hưởng
của Thơ Đường; ảnh hưởng
của Thơ Pháp Thời Lãng Mạn, Tượng Trưng;
nhào nhuyễn với truyền thống dân tộc.
Đây là một ví dụ cụ thể về sự
nhào nhuyễn đó: "Trong Thơ Lưu Trọng Lư
có một tiếng gà rất Việt Nam. Trong Thơ
Đường tiếng gà rất hiếm, ta thường
nghe tiếng cuốc kêu, tiếng oanh hót, tiếng
nhạn ngang trời... Tiếng Thu của Lưu
Trọng Lư có một ít nhạc điệu Verlaine,
nhưng chủ yếu vẫn là nhạc điệu dân
tộc" (Phan Cự Đệ). Theo tác giả Mã
Giang Lân, cũng trong cuốn sách ấy, thì nét
hiện đại hóa của Thơ Mới suy thoái nhường
chỗ cho nét hiện đại hóa mới hơn
nữa là trường phái Thơ Tượng Trưng:
"Sang những năm 1940 - 1945, Thơ Mới lâm vào
bế tắc khủng hoảng cao độ, bắt
đầu thời kỳ suy thoái của nó với
tập THƠ SAY (1940) của Vũ Hoàng Chương.
nhường chỗ cho "Bộ ba Trường Thơ
Loạn" tức Chế Lan Viên, Bích Khê và Hàn
Mặc Tử". Và trong cuốn "Một Số
Vấn Đề Văn Học Việt Nam, do nhà
xuất bản Văn Học - Hà Nội 1999", tác
giả Nguyễn Hữu Hiếu cũng gọi trường
phái Tượng Trưng là "Trường Thơ
Loạn" nêu lên yếu tính của Thơ Tượng
Trưng là hình ảnh ám thị và nhạc tính do
sự láy đi láy lại của âm thanh các con
chữ, của nhịp điệu ngắt câu. Ám
thị qua biểu tượng cầu kỳ đôi khi
cường điệu, phóng đại. Chú trọng
quá về Nhạc Tính, đôi khi nặng về kỹ
thuật, lạm dụng, không thành thực với tâm
hồn: "Thơ Tượng Trưng không mô tả
mà ám gợi thông qua hình ảnh, ngôn từ và
nhạc tính... Với một mật độ dày
hệ thống hình ảnh, Thơ gợi cảm giác.
Ở Chế Lan Viên, đó là những bóng ma,
những đầu lâu, xương trắng (Điêu Tàn),
ở Bích Khê là những sọ người, những
châu thân thiếu nữ, những sông trăng chảy
ngọc, những hào quang khiêu vũ, những rượu
hú ma, những hương trinh bạch... trong (Tinh
Huyết), và ở Hàn Mặc Tử những hồn,
những máu, cùng với trăng xuất hiện
gần suốt cả tập Thơ... Nhạc là
tất cả, trước khi nói đến cái hay
của ý tứ... Những kiến trúc đầy âm
vang... Với những bài Thơ đầy nhạc tính,
cùng với sự chú trọng khả năng ám
thị sự vật, khai sinh cho nó những ý nghĩa
tượng trưng, trong các nhà Thơ Loạn, Bích Khê
đi gần với tượng trưng nhất"
(Nguyễn Hữu Hiếu, sách đã dẫn). Cũng
trong cuốn sách này, tác giả Hồ Tấn Trai
phủ nhận tất cả nét hiện đại hóa
của Văn Học Miền Nam, chỉ nêu ra cái
mới tiêu cực, gần như lặp lại Thơ
Tượng Trưng trong bài "Về Ảnh Hưởng
Của Chủ Nghĩa Hiện Sinh Trong Văn Học
Ở Sài Gòn, 1954 - 1975". Tác giả viết:
"Bởi vì những thủ pháp biểu hiện
của Thơ hiện sinh chủ nghĩa cũng là
những thủ pháp đã được dùng trong Thơ
tượng trưng, đặc biệt là sử
dụng biểu tượng và câu Thơ tự do... Trước
đây, nhà Thơ tượng trưng cho mình có
sứ mệnh đi tìm những dấu hiệu nói lên
mối tương quan bí ẩn giữa con người
và vũ trụ, còn ngày nay nhà Thơ hiện sinh
tự gán cho họ cái nhiệm vụ thần bí là tìm
lại cái bản thể uyên nguyên của con người,
bằng cách nhìn vào hư vô, nhìn vào hố thẳm,
họ nói chính những cái này sẽ làm cho cá nhân xao
xuyến lo âu...
Thơ tiêu cực suy đồi ở Sài Gòn có
nhiều dạng, song ở đây cần nói đến
loại Thơ tự mệnh danh là Thơ tự do, Thơ
hôm nay, với những cây bút như Thanh Tâm Tuyền,
Sao Trên Rừng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Mai
Trung Tĩnh, Tô Thùy Yên, Viên Linh, Quách Thoại..."
(Hồ Tấn Trai, sách đã dẫn, từ trang 222
đến trang 232).
Lược qua vài nét hiện đại hóa trong Văn
Học ta trước năm 1975, để thấy các
trào lưu này cũng ít nhiều xuất phát từ
chủ nghĩa hiện đại của Văn Chương
Nghệ Thuật Ấu Mỹ, qua các chủ nghĩa Lãng
Mạn, Tượng Trưng, Siêu Thực, Hiện
Sinh... Tuy nhiên, vài dạng của chủ nghĩa
hiện đại Ấu Mỹ như Kịch Phi Lý
ấp úng những điều vô nghĩa trên sân
khấu, Thơ Siêu Thực Viết Do Tự Động
Từ Vô Thức, có lẽ chưa có ai áp dụng vào
Văn Học Việt Nam. Nhưng Phản Tiểu
Thuyết, cũng là một dạng của chủ nghĩa
hiện đại, đã có vài người áp
dụng trong Văn Học Miền Nam trước năm
1975. Sau năm 1975, nhất là sau thời kỳ cởi
mở, Thơ trong nước được đúc
kết có vẻ đa nguyên qua ba ý kiến, phê phán hướng
Thơ về hiện đại như sau: "Quan
điểm được đa số đồng tình,
đó là khẳng định thành quả của Văn
Học Cách Mạng về đội ngũ sáng tác,
nội dung thời đại và chất lượng
nghệ thuật. Loại ý kiến thứ hai, về cơ
bản là phủ định giá trị Thơ kháng
chiến.
Sau Thơ Mới là nhóm Xuân Thu Nhã Tập và nhóm
"Sáng Tạo" ở Miền Nam trước ngày
giải phóng khả dĩ khiến Thơ đã nhúc nhích
đi tới hiện đại.
Ngoài ra Thơ Việt Miền Bắc mấy chục năm
qua về cơ bản vẫn là Thơ Mới theo hướng
lặp lại... Loại ý kiến thứ ba thừa
nhận những di sản quá khứ, trong đó có di
sản Thơ kháng chiến, nhưng đòi hỏi
phải đổi mới Thơ theo xu hướng suy
đồi (tức Tượng Trưng), siêu thực,
hình thức, kiểu Thơ Phương Tây. Những tác
giả này coi Thơ thuộc cõi vô thức, Thơ là
cảm tính, là sự va đập âm thanh, là nghệ
thuật của chữ.." (Vũ Duy Thông, trong
cuốn "Cái Đẹp Trong Thơ Kháng Chiến
Việt Nam 1945 - 1975, nhà xuất bản Giáo Dục -
2000). Đúc kết trên có vẻ không tán thành hướng
Thơ về hiện đại theo kiểu phương
Tây cuối thế kỷ 19 và đầu thế
kỷ 20.
Bây giờ đã vượt qua chủ nghĩa
hiện đại, với chủ nghĩa Hậu
Hiện Đại. Chủ nghĩa này cũng phức
tạp và đôi khi mâu thuẫn về hướng
Tiến Tới Tân Kỳ: "Chủ nghĩa Hậu
Hiện Đại (Post - Modernisme) cũng muốn khép
lại giai đoạn kéo dài ngót một thế
kỷ, trong đó nền Văn Hóa bị ngự
trị bởi chủ đề về tính hiện
đại, xem xét theo hướng ấy thì hình như
chủ nghĩa Hậu Hiện Đại báo hiệu
thế kỷ 21 sẽ phải là thế kỷ Văn
Hóa" ("La Culture du 20 e Siècle. Dictionnaire d'histoire
Culturelle Michel Fragonard - Bản dịch do Nhà Xuất
Bản Chính Trị Quốc Gia - Hà Nội 1999).
Phản Tiểu Thuyết (Anti - Novel - Nouveau Roman),
Kịch Phi Lý (The Theatre of the Absurb), Thơ Cụ
Thể (Concrete Poetry), được coi như những
dạng của Hậu Hiện Đại. Nhưng
Hậu Hiện Đại cũng không dễ định
nghĩa và cũng mơ hồ như nhiều chủ
nghĩa hay trường phái "Post - modernism is different
from Modernism, even a reaction against it. It is no easier to define than
many other - isms. Like them, it is amorphous by nature" (The Penguin
Dictionary of Literary Terms and Literary Theory - Nhà Xuất
Bản Penguin Books, 1999). Đọc bài "Mấy
Vấn Đề Thi Pháp Thơ Ca Việt Nam Thời
Kỳ Đổi Mới" của tác giả
Phạm Quốc Ca (trong sách đã dẫn: Một
Số Vấn Đề Văn Học Việt Nam"),
ta thấy những phản bác, tranh luận, bỉ
thử qua lại, về Thơ hiện đại
ở trong nước; có nhiều nét tương đồng
với những xôn xao bất đồng ý kiến
về Thơ ở hải ngoại. Vì vậy, xin trích
nguyên văn để độc giả hải
ngoại nào hệ lụy về Thơ thấy mình như
đang ở trong cuộc. Xin trích lại những ý
kiến mà không theo một thứ tự nào: "Chúng
ta mong được thấy sự nảy nở
một nền Thơ đa thanh đa sắc chứ không
muốn một kiểu Thơ nào đó chiếm lĩnh
thi đàn mà độc tấu... Họ chủ trương
Thơ hiện đại phải đặc biệt chú
trọng biểu tượng âm thanh và cách tổ
chức ngôn từ (con chữ) ... Phản ứng
lại một cách gay gắt hướng đó, có người
lại cho rằng: Tính hiện đại của Thơ
không nằm trong hình thức mà là nội dung. Nếu
người viết có cách nhìn, cách nghĩ hiện
đại thì câu Thơ lục bát vẫn có thể
hiện đại... xu hướng biểu hiện
bản năng tình dục, chưa thấy phát
hiện, sáng tạo được thế giới nào
khác sâu sắc thâm thúy. Cùng với tính dục là ngôn
từ tục tĩu, thô lỗ... Một số thi sĩ
có tài năng thật sự và nổi tiếng trong trào
lưu đó đã trở về với Thơ
truyền thống... Để đổi mới Thơ,
một số người đã đem ngôn ngữ
đường phố, những cặn bã đời
sống vào Thơ..." (Phạm Quốc Ca - sđd.
từ trang 256 đến 274).
LÊ ĐẠT là nhà Thơ nổi bật nhất
thuộc xu hướng hiện đại hóa thi ca. Ông
có tập Thơ "Bóng Chữ" gây nhiều tranh
luận, gay gắt là các bài báo giữa Đặng
Tiến và Trần Mạnh Hảo. Tác giả Đặng
Tiến rất ca ngợi những bài Thơ tân kỳ
về từ ngữ của Lê Đạt, đôi khi
vẽ rắn thêm chân theo kiểu phê bình sáng tạo.
Chính về điểm thêm thắt này mà tác giả
Trần Mạnh Hảo đả kích, tuy nhiên tác
giả này đồng ý với nhận xét tinh vi này
của ông Đặng Tiến: "Sự thật thì
Thơ Lê Đạt tạo rung cảm mới bằng
một vài thủ pháp: đảo ngữ, ẩn
ngữ, nhấn mạnh vào ngữ âm, khi thác tính
đa nghĩa trong từ vựng, sử dụng điển
cố văn học". Mà những điều trên
đều là những thủ pháp của Thơ Cũ
(gồm Thơ Cổ Điển, Thơ Lãng Mạn, Thơ
Tượng Trưng, Thơ Tự Do), nghĩa là
vẫn chưa hiện đại hóa hoàn toàn. Ta
thử nêu ra vài đoạn Thơ của Lê Đạt,
một bên là Thơ với từ ngữ sắp
xếp quá độ hiện đại hóa, một bên
là Thơ thấp thoáng thủ pháp của Thơ cũ,
thì rõ ràng độc giả sẽ thấy Thơ chưa
thoát thói lề xưa của Lê Đạt mới là
Thơ hay. Đây là phía cực đoan hiện đại
hóa:
Địa ngục trắng Hít - Nixon xổng xích
F ẹp
F dẹp
B. 52 bẹp
... anh lòng anh hái hoa
hoa hái hoa bông thắm
hoa bông hoa rõ hồng
hoa hồng bông hồng bông.
Và đây là phía thấp thoáng thủ pháp cũ:
... Anh đến mùa thu nhà em
Nắng cúc lăm răm vũng nhỏ
Mà cho đấy rửa lông mày
Nông nỗi heo may từ đó
...Thành tích
Mấy trang giấy sờn
Mấy câu Thơ bụi
núi Vô Sơn.
|
...
Đã lược qua về từ ngữ chủ nghĩa
hiện đại, chủ nghĩa Hậu Hiện
Đại, hướng hiện đại hóa của
Thơ trong nước, bây giờ ta bước
tới phần dẫn nhập những bản sắc
dễ nhận diện về hiện đại hóa
trong Thơ Hải Ngoại Việt Nam. Trước
hết là dễ nhận diện về từ ngữ dùng
trong thi ca. Để gọi là từ ngữ theo hướng
hiện đại của Thơ Hải Ngoại thì
từ ngữ đó phải khác với từ ngữ
lãng mạn Thời Thơ Mới (1932 - 1945), khác
với từ ngữ Tân Kỳ và Hiện Sinh trong Thơ
Thời Văn Học Miền Nam (1954 - 1975). Ngôn
ngữ "Nổi Loạn đồng nhịp với
Hiện Sinh" trong Thơ Tự Do của Thanh Tâm
Tuyền; ngôn ngữ "tân kỳ khai mở Lục Bát
mới" do dùng từ lạ không bỏ chất Thơ
của Cung Trầm Tưởng; ngôn ngữ "tân
kỳ đậm đặc mật độ" trong
thơ bảy chữ Tô Thùy Yên, ngôn ngữ "tân
kỳ pha với Thiền Hư Không" trong Thơ Bùi
Giáng, Nguyễn Đức Sơn, Viên Linh, Trần
Tuấn Kiệt, Phạm Thiên Thư; ngôn ngữ "tân
kỳ mật ngọt tình yêu" hay "tân kỳ cay
đắng tình yêu" trong Thơ Nguyên Sa, Nhã Ca,
Trần Dạ Từ, ngôn ngữ có màu sắc nhà binh
trong Thơ Hà Huyền Chi. (Và còn nhiều nhà Thơ quân
nhân mà người viết không nhớ hết);
hoặc ngôn ngữ hiện thực thời Mỹ
đến miền Nam trong Thơ Du Tử Lê (và còn
nhiều nhà Thơ viết về xã hội thời
kỳ này mà người viết không nhớ
hết)... Những ngôn ngữ đó thuộc về Thơ
Thời Văn Học Miền Nam. Vậy ngôn ngữ
gọi là hiện đại hải ngoại phải
khác thì mới là hiện đại hóa. Ta cần
phải nói đến ngôn ngữ muốn nhập
xuống đường phố và thể Thơ nghiêng
hẳn về tự do của nhà Thơ Trần
Hồng Châu, một nhà khoa bảng đầy chữ
nghĩa hàn lâm. Ngôn ngữ hàn lâm như bản
sắc không thể lẩn tránh được trong Thơ
Trần Hồng Châu. Ông không thể nhập hồn vào
bụi đời, cả cung cách sống và ngôn
ngữ nghênh ngang như một Cao Đông Khánh. Ta
thử trích một vài đoạn trong bài Thơ
được chọn làm nhan đề thi phẩm
mới nhất của ông (Văn Học xuất
bản 1999) là thấy bản sắc, và đôi khi ý hướng
muốn đi lệch bản sắc đó:
... Hạnh phúc là lúc hết phải điên đầu
chuyện chính trị salon văn hóa thời trang
anh được vứt bỏ đồ lớn
tiếp tân và lụa là cravate
sợi dây cổ thòng lọng.
Để đi dép lẹp xẹp mặc áo rằn ri
ra ngồi quán dì Năm với anh Tám xe lam
và khô mực râu ria xồm xoàm
... Hạnh phúc là khi bước vào giảng đường
chiêu niệm hồn xưa kiều nữ
những Ophelia những Giáng Hương và Quỳnh Như
Kinh Bắc
hương sắc trần gian
châu về hợp phố..
(Hạnh Phúc Đến Từ Phút Giây - Trần
Hồng Châu)
|
Ngôn ngữ hàn lâm, nhiều từ phải quy chiếu
với kho kiến thức về văn học thế
giới, đã hiện diện suốt trong ba tập
Thơ của Trần Hồng Châu xuất bản
tại hải ngoại: "Nửa Khuya Giấy
Trắng" (1992), "Nhớ Đất Thương
Trời" (1995), "Hạnh Phúc Đến Từ Phút
Giây" (1999). Chợt nhớ mơ hồ trong một
tạp chí bài Thơ Uống Trà của Trần
Hồng Châu, uống trà mà gác chân gác cẳng trên bàn.
Đó cũng là hình ảnh một chút lệch hướng
với bản sắc sử dụng ngôn ngữ thi ca
trong Thơ Trần Hồng Châu. Có lẽ đây là
một chủ đề nghiên cứu Thơ Trần
Hồng Châu: "Vỏ bọc dầy của chữ
nghĩa hàn lâm trong Thơ Trần Hồng Châu". Cũng
là một bản sắc, nhưng không phải là
bản sắc hướng về hiện đại hóa.
Ngôn ngữ đường phố cũng không
phải ngôn ngữ hiện đại hải
ngoại. Dĩ nhiên, nên gạt ra ngoài ngôn ngữ
viết tự động từ vô thức của trường
phái Siêu Thực; ngôn ngữ ám gợi bằng
biểu tượng của trường phái Tượng
Trưng. Vậy ngôn ngữ hiện đại của
Thơ Việt Nam hải ngoại là ngôn ngữ nào?
Xin dùng từ Hiện Đại với cái nghĩa là
"làm mới làm khác" với ngôn ngữ Thơ
của các thời kỳ trước đây của Văn
Học Việt Nam, không có nghĩa là "tân
tiến" đã được mọi người
công nhận, hoặc đã "bắt kịp"
với các trào lưu chủ nghĩa hiện đại
hay hậu hiện đại của thế giới.
Hiện đại chỉ giới hạn là cái riêng
đang hiện hữu trong Thơ đăng trên
một vài tạp chí Văn Học Hải Ngoại như
"Tạp Chí Thơ", "Tạp Chí
Việt", "Tạp Chí Hợp Lưu"...
Dễ nhận ra là đa số các bài Thơ đều
không ưa rõ nghĩa (như Thơ Nguyễn Đăng
Thường, Phạm Việt Cường, Lưu Hy
Lạc, Hoàng Xuân Sơn, Thường Quán, Huỳnh
Mạnh Tiên, Chim Hải, Phạm Miên Tưởng...)
Sự tối nghĩa trước đây đã có
Thanh Tâm Tuyền thuộc thời Văn Học
Miền Nam trước 1975, nhưng Thơ Thanh Tâm
Tuyền là "Thơ Nổi Loạn đồng
nhịp với Hiện Sinh" đã phản ảnh
được một thời kỳ. Dễ nhận ra
nữa là từ ngữ Thơ chỉ được
coi như những vật liệu sắp xếp thành câu,
không cần tượng hình, không cần chất Thơ
theo nghĩa mỹ cảm. Điều này tương
đồng với quan niệm của một nhánh
thuộc trường phái "Thơ Cụ
Thể": Ngôn ngữ chỉ là vật liệu
vật lý chẳng khác vật liệu vỏ chai hay bánh
xe hơi mà họ đã sắp xếp thành các bài Thơ,
nhằm nói lên một ý nghĩa, không cần đến
chất Thơ, và cũng rất tối nghĩa (ví
dụ một vài đoạn Thơ trong Tạp Chí Thơ,
Tạp Chí Việt:
...bàn cờ năm tháng
mưa rơi
trên mấy ô gỗ ẩm mốc
đầu này
tên vua đen
bên kia con hậu trắng
không còn tốt xa mã pháo...
(Chân Phương)
...hớp ngụm hồn nhiên
nhả vào dấu
lượm lại mớ tuổi cuối
chuyến về
vẫn ngồi sau tóc
(Chim Hải)
|
Dễ nhận ra nữa là Thơ của họ áp
dụng rất nhiều các dấu, triển khai mở
rộng từ áp dụng khởi đầu của Du
Tử Lê với dấu dùng trong computer. Du Tử Lê còn
tận dụng đủ các loại dấu mà chẻ
nát câu Thơ lục bát, tuy vẫn giữ khuôn
khổ của câu sáu câu tám. Làm như vậy là phá
vỡ sự êm đềm vốn từ lâu của
lục bát, sự êm đềm mà có người cho là
ê a ủy mị. Nhờ dấu mà Du Tử Lê cũng
tạo được nhịp mới cho lục bát,
nhất là ở câu tám. Trước đây chưa bao
giờ có kiểu Thơ lục bát mà chữ cuối
trong mỗi câu đứng riêng, biệt lập, đủ
nghĩa:
...Cõi em muốn dạt chân về
Cõi đau nhân thế, cõi thề thốt, quên.
...Rừng mù lối tóc chim bay
Bớt son, môi cỏ, buồn lay lá, người.
...Nứt từng vết nẻ trên da
Thanh xuân vó ngựa, đìu hiu bãi, vùi.
|
Tác giả Tôn Nữ Hoàng Hoa (trong "Du Tử Lê, Tác
Giả Và Tác Phẩm", tập IV, nhà xuất
bản Nhân Chứng, 2000), nhận định đã có
một phong trào làm Thơ theo kiểu Du Tử Lê:
"Có kiểu làm theo Thơ lục bát và đã đổi
nhịp điệu ở câu Thơ, hay làm Thơ theo
hiểu bỏ rất nhiều dấu chẳng hạn
như dấu chấm, dấu phẩy, dấu hỏi,
dấu than, dấu chấm phẩy, dấu slash, hay là
trong một câu Thơ có lung tung dấu". Vài tác
giả dùng các dấu theo hướng hiện đại
hóa đó như: Hoàng Cường Long (dùng nhiều
dấu hai chấm), Hà Nguyên Du (dùng nhiều dấu
chấm than), Huỳnh Mạnh Tiên (dùng nhiều
dấu gạch ngang và dấu slash), Quỳnh Thi (bỏ
trống một khoảng trong câu), Nguyễn Thị
Ngọc Nhung và Phan Thị Vàng Trăng (dùng nhiều
dấu chấm câu. Sau dấu chấm câu thì chữ
đầu viết Hoa nhưng không xuống hàng).
Phạm Miên Tưởng và Trần Lộc Bình
(Gạch bất chợt dưới vài chữ trong bài
Thơ). Sử Mặc dùng dấu chấm thêm lượng
thời gian trong âm nhạc như Thơ Nguyễn Xuân
Thiệp, phối hợp với các dấu khác trong văn
chương:
...Duy nhất, ở giữa thần bài
Chấm than! Đen ngòm. vực. gió
Cái đuôi, còn phất phơ dài
Chao ơi kiếp người rị mọ!
(Sử Mặc)
Đoạn Thơ này trích trong tạp chí Văn
Học số 184 (tháng 8 năm 2001). Tạp chí này cũng
đã đăng nhiều bài Thơ của Nguyễn
Xuân Thiệp, áp dụng nhiều "dấu chấm
thêm lượng thời gian" của Ấm Nhạc
làm cho Thơ tự do của Nguyễn Xuân Thiệp có
chất Thơ huyền ảo mênh mang trên thảo nguyên.
Và đây cũng là cái khí hậu Thơ đó:
tháng chín. cơn mưa nào ở Oklahoma
thoáng mùi tử đinh hương
quanh trời sấm dội
con chim màu đỏ trở về
một mình. đứng hót trong mưa
mưa long lanh
từng giọt. rơi ngoài trí nhớ. rơi trên lá
trên những khóm lan thấp thoáng dưới trời.
...
Tôi làm thơ
cho bạn bè. cho những người cùng khổ
cho sấm dội. cho đổ vỡ. cho mây xa
tôi làm thơ
và con chim màu đỏ
hót. một mình. dưới trời mưa thưa.
(Nguyễn Xuân Thiệp)
Là dấu nghỉ thời gian, dấu chấm không
phải là chấm câu, không cần viết hoa sau đó.
Điều mới là "dấu chấm thêm lượng
thời gian của âm nhạc" nên Thơ tự do
của Nguyễn Xuân Thiệp không có gì tối nghĩa
vẫn là mỹ cảm của Thơ cũ. Thơ
tự do của Lê Thị Thẩm Vân cũng sáng
sủa ý nghĩa, có cái nhìn đầy nhân bản,
với lời Thơ hiện thực xã hội về
người homeless; người đàn bà Việt làm
vất vả, lãnh trợ cấp; cô gái đĩ
Việt trên đất Nam Vang:
...lẫn trong
tiếng xe cộ, bóp còi, kèn hụ
là thân xác co quắp, tóc xoắn bệt bởi
bụi đất rác mùi
tanh hôi
gã homeless
về đâu đêm đông dài dằng dặc?
...Tôi người đàn bà đam mê
trò chơi sắp xếp những con chữ
Những con chữ
biết mủi lòng...
(Homeless)
... Tiệm ăn nằm cuối đường
cụt, bà làm mười hai tiếng một ngày, sáu
ngày một tuần, suốt năm không ngày nghỉ
lễ, bệnh, hè. Tiền tip chủ lấy trọn.
...Một chiều cuối đông
Tai nạn
"Trần Thị Bân, sanh quán tại Việt Nam, 47
tuổi"
Lục trong ví
xấp foodstamps 58 đồng...
(Người Đàn Bà Việt Nam)
...Giữa hai cánh tay, cặp đùi không còn một
cọng lông
nhưng um khét mùi cỏ cháy
ông quắp lấy em
gọn bâng như ông nội bế em đặt vào giường
thuở em
lên năm sáu bảy mỗi khi ham chơi quên ngủ
ngoài sân trước
... hai tròng mắt em vẫn mở. "Trời
chắc là sắp mưa..."
em nói thầm với tấm phên mỏng, thưa, che
chắn căn nhà thổ trên đất Phnom Penh
(Lê Thị Thấm Vân)
(Trích bài: Người Con Gái Việt Nam Da Vàng.
Thời Bình)
Quá hiện thực nên văn phong có vẻ lạnh lùng
phơi bày sự thật. Khác với Thơ Tự Do
của Nguyễn Xuân Thiệp gây ấn tượng
thi vị. Mỹ cảm hay hiện thực, không
phải là hướng hiện đại hóa (mà thường
thấy là tân kỳ đến lập dị, tối
nghĩa, không cần chất Thơ). Dễ nhận ra
nữa trong cách làm Thơ mới là đưa ảnh
hưởng "Thơ Cụ Thể" vào Văn
Học Việt Nam. Một số Thơ tạo hình
lạ nhưng có chất Thơ như dùng nhiều
chữ "xe" sắp xếp thành một xa lộ
lưu thông bận rộn (Ngu Yên); sắp xếp hai câu
Thơ lục bát thành những ngọn lửa bốc
lên (Lê Văn Tài); hình bàn cờ tướng thay cho
lối đi tìm khuây khỏa những ngày vô cảm
(Nguyễn Hoàng Nam); một trang chữ in nhập nhòe
Thơ Chinh Phụ Ngâm thay cho xúc cảm đọc
đoạn trời đất nổi cơn gió
bụi, trống hành quân lung lay bóng nguyệt (Khế
Iêm); một khung trống chỉ có một chữ chim
đặt trên chữ bay, thay cho lời mô tả
bầu trời bao la (Ngu Yên).
Dễ nhận ra nữa về hướng hiện
đại hóa Thơ là các từ ngữ táo bạo
dung tục, mà người liều lĩnh hơn
cả là Đỗ Kh., vượt xa Nguyễn Đức
Sơn thời Văn Học Miền Nam. Những người
cùng khuynh hướng nhưng kín đáo hơn như
Võ Đình Tuyết, Nguyễn Thị Hoàng Bắc...
Dễ nhận ra nữa về hướng hiện
đại hóa là lối "Thơ-vắt-dòng" và
"nhạc-tính-hóa lời nói thường ngày",
mà Khế Iêm là người cổ xúy với lối
Thơ "Tân Hình Thức Việt Nam" dựa vào
đặc tính ngôn ngữ Anh trong Thơ "Tân Hình
Thức Hoa Kỳ". Đặc tính ngôn ngữ Anh là
nói "Nhấn" hay "Không Nhấn" vào
những từ tùy theo xúc động khi đang nói.
Khế Iêm lấy ví dụ nhà Thơ TIMOTHY STEELE đã
nhạc-tính-hóa lời nói giận dỗi của
một cô gái khi cãi vã với người tình. Ngoài
Khế Iêm với quan niệm rõ ràng là nhạc tính hóa
lời nói thông thường thành Thơ Tân Hình
Thức, còn nhiều người nữa trong tạp chí
Thơ và rải rác trên vài tạp chí khác đã làm
Thơ theo kiểu vắt dòng, nghĩa là chữ
cuối của câu Thơ trên nối liền với câu
dưới thì mới trọn nghĩa, cứ thế
cả một đoạn Thơ với cách vắt dòng
như trên. Nối liền nghĩa từ câu này
xuống câu khác, nên không cần viết hoa ở
đầu dòng mỗi câu. Những người thường
làm Thơ theo kiểu vắt dòng: Khế Iêm,
Nguyễn Đăng Thường, Lê Giang Trần, Hà
Nguyên Du, Trần Phục Khắc, Lưu Hy Lạc,
Đỗ Kh., Nguyễn Đạt, Quỳnh Thi, Hoàng Xuân
Sơn, Nguyễn Thị Thanh Bình, Phan Tấn Hải,
Phạm Việt Cường, Đoàn Minh Hải,
Nguyễn Lương Ba... Anh Ngữ nói nhấn, còn người
Việt không nói nhấn như vậy, nên nhạc tính
hóa lời nói thường ngày trong Thơ Tân Hình
Thức Việt Nam có phần bị hạn chế. Xin
trích ví dụ với những bài Thơ ngắn
nhất:
hăm bốn tháng sáu đồng ký hiệp
ước chung thân, đóng hết chỉ chừa
duy nhất một cánh cửa, cả hai
không được tháo nịt che hai bên
mắt ngựa, đến bốn cái móng sắt
phải được gỡ ra khỏi hai đôi
chân v.v...
(Hà Nguyên Du. Trọn bài: Đến Với Em)
sau một đêm mưa rào tôi
ra xó vườn nhỏ thấy một đóa bạch
hồng mới ló lộng lẫy trong
buổi sớm mây tôi ngắm ngửi
nó một chầy rồi chưa kịp mắng
mầy
chỉ là đóa hồng là đóa
hồng là đóa thì bỗng nghe
trong bụi rậm có tiếng thì thầm a
rose is a rose is a
(Nguyễn Đăng Thường. Trọn bài: Surprise,
Surprise)
Vang âm Thơ tự do mờ tối ý nghĩa của
Thanh Tâm Tuyền; Thơ bị chẻ ra bằng
nhiều dấu; nhất là dấu slash "hoán
chuyển thi đoạn tùy theo độc giả"
của Du Tử Lê; đi đến tận cùng
chữ dung tục với Thơ Đỗ Kh., áp
dụng trường phái Thơ Cụ Thể;
Nhạc-tính-hóa lời nói thường ngày với
Khế Iêm; Thơ "vắt dòng" của nhiều
người trong tạp chí Thơ; đưa dấu
chấm chấm thêm lượng thời gian vào văn
chương với Thơ Nguyễn Xuân Thiệp...
Đó là những dấu hiệu vài bản sắc
hiện đại hóa của Thơ Hải Ngoại.
Trần văn Nam
(Trong sách dự thảo: THI NHÂN VIỆT NAM HẢI
NGOẠI)
|