Những bài cùng đề tài
Đi tới cuối thế kỷ, phản ứng tự
nhiên là ngoái đầu nhìn loáng một cái về đầu thế kỷ. Đối với ai kia, có thể
là bất giác nhìn chơi. Đối với chúng ta — đám viết lách — cái nhìn ấy có ý
nghĩa khác hơn một chút. Bởi vì thời kỳ văn học hiện đại của Việt Nam, thời
kỳ có mình trong đó, chính bắt đầu từ đầu thế kỷ XX này.
Đem cái khả năng của một cá
nhân lỗi lạc, Trương Vĩnh Ký gây được mầm manh nha của nền văn học mới, rồi
ông nằm xuống vào cuối thế kỷ trước (năm 1898). Tiếp theo ông là những hoạt
động qui mô rầm rộ của hai ông Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh, mỗi vị qui tụ
một nhóm văn nhân học giả cừ khôi. Trong vòng hăm lăm năm — một phần tư thế
kỷ — họ làm xong nhiệm vụ của thế hệ tiền phong trong giai đoạn giao thời.
Thời ấy là thời nho học suy tàn tây học mới nẩy. Mỗi nhóm Đông Dương và Nam
Phong gồm đủ hai thành phần tân cựu học. Kẻ tinh thông hán học gấp rút tổng
kết nhằm bàn giao cái vốn liếng tinh thần của tiền nhân để lại cho lớp sau
đang thiếu hán ngữ; người giỏi Pháp văn tới tấp dịch thuật, giới thiệu văn
chương tư tưởng Âu Tây bấy giờ hãy còn xa lạ đối với quốc dân. Công việc ấy
gọi là “Truyền bá Đông Tây học thuật”. Việc truyền bá cần một công cụ: vậy
phải trau luyện Việt ngữ cho thành một phương tiện xứng tầm.
Xem lại Việt ngữ, thấy lắm điều
rắc rối. Thuở Trương Vĩnh Ký là thuở phổ biến chữ quốc ngữ, tức thứ chữ dùng
mẫu tự la-tinh mà phiên âm tiếng Việt; sang thời Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm
Quỳnh mới tiến lên trau dồi cái “văn quốc ngữ” (theo cách nói của ông Phạm).
Việt ngữ có dùng được vào văn
học không? Thuở ấy lắm kẻ phân vân. Có ý kiến cho rằng: Việt ngữ kém lắm, so
với văn Tàu văn Tây thì “trẻ lên ba đã khôn sao bằng người đầu bạc”. Cánh
hăm hở sốt ruột nhất đề nghị nên gác tiếng Việt ra ngoài, trong phạm vi học
thuật hãy lấy phăng cái tiếng Pháp ra xài ngay cho tiện . Nguyễn Văn Vĩnh,
trong bài tựa bản dịch truyện Gil Blas de Santillane
kể rằng thoạt đầu, thuở ông bắt tay vào việc, trong nước ta chưa mấy ai tin
nổi có thể dùng tiếng Việt để dịch tiểu thuyết Tây. Vậy mà ông xắn tay xông
vào, rốt cuộc làm nên sự nghiệp đồ sộ; Vũ Ngọc Phan cho rằng ông là quán
quân dịch thuật Pháp văn một thời.
Nhưng chính Nguyễn Văn Vĩnh,
chính ông quán quân ấy, con người mê say cực đoan từng xác quyết học quốc
ngữ “là một sự bất đắc bất nhiên, là việc sống chết của nước Nam ta”, chính
người ấy cũng phải cho rằng tiếng Việt có chỗ yếu lớn, khiến lắm lúc không
thể đem nó ra xài được. Phải chờ trau luyện nó đã. Trong khi chờ đợi, ông
Nguyễn dùng tạm tiếng Tây! Một bài báo của ông đăng trên tờ
L’Annam Nouveau hồi 1935, nguyên cái nhan đề đã
nêu rõ lý do: “Le français, langue de discussion”. Ông kể rằng một đồng
nghiệp, đến phỏng vấn về vấn đề trau luyện Việt ngữ, đã trách ông không chịu
trao đổi ý kiến bằng Việt ngữ mà lại chọn nói tiếng Pháp. Theo ông, trong
khi tranh luận, tiếng Việt thiếu tính cách trong sáng và chính xác. Trước đó
năm năm, trong cuộc bút chiến với Phạm Quỳnh về vấn đề chế độ (lập hiến hay
trực trị), hai ông cũng đều dùng tiếng Pháp (riêng Phạm Quỳnh có đăng trên
Nam Phong bản Việt ngữ.)
Như thế, ông Nguyễn ông Phạm
thuở ấy cùng gặp nhau ở một nhận định về nhược điểm của Việt ngữ: không phải
thứ tiếng để cãi cọ. Nhưng cái ấy chưa hay ho bằng chuyện cả hai vị lại cùng
gặp nhau nữa, ở nhận định về ưu điểm của Việt ngữ: hai vị nhất trí về thành
công rực rỡ của Truyện Kiều, tin tưởng ở
Truyện Kiều, ca ngợi Truyện
Kiều. Nguyễn Văn Vĩnh đem Truyện Kiều dịch
ra Pháp văn, Phạm Quỳnh tung hô Truyện Kiều quá
lời đến nỗi Ngô Đức Kế nổi dóa.
Một cái tiếng thoạt không mấy
ai ngờ có thể dịch nổi truyện Tây, vậy mà đem ra dịch thì dịch phăng phăng
nào thơ nào truyện nào kịch, thứ nào thứ nấy thiên hạ khen hay nức nở, kết
quả sáng chói, đem viết truyện thì từng viết nên truyện hay đến nỗi “thử hỏi
cổ kim Đông Tây đã có một áng văn chương nào cảm người được sâu xa và được
rộng rãi như thế chưa?”, đến nỗi thành ra “là một kỳ công có một trong cõi
văn thế giới” (lời ông Phạm). Thế rồi cũng một cái tiếng ấy mà đem ra cãi cọ
với nhau tí chút lại không được, lại kẹt cứng. Thế có mâu thuẫn không? có
quái lạ không?
Chỗ ấy Nguyễn Văn Vĩnh đã trải
qua, nhưng không thấy thắc mắc gì. Phạm Quỳnh, ông có nghĩ ngợi về điều này.
Theo ông, văn có hai thứ văn: văn nghệ thuật và văn luận thuyết. Về văn nghệ
thuật thì Việt Nam đã đạt tới chỗ tuyệt vời; nhưng “về lối văn thuyết lý thì
hầu như không từng thấy bao giờ.”
Quả là trong các tác phẩm bằng
chữ nôm được để lại, không hề có thứ ấy. Nguyễn Văn Vĩnh dùng chữ “tranh
luận”, ý có hẹp. Cái yếu của ta không nhất thiết chỉ ở chuyện tranh luận; mà
là cái yếu chung chung về biện luận, thuyết lý, biện giải, thuyết minh, lý
luận... Không cần chờ tranh cãi nhau mới bày ra cái yếu; cứ diễn đạt cái suy
tưởng là thấy yếu ngay.
Tại sao ta yếu món ấy? Phạm
Quỳnh cũng có lời giải đáp: Vì tiếng ta giàu về phần “hình nhi hạ”, mà nghèo
về phần “hình nhi thượng”. Nói thế nghe có lạ tai. Ông Phạm giải thích: Muốn
dùng chữ triết học mà nói thì tiếng Nam ta có tính cách cụ thể (concret) hơn
là trừu tượng (abstrait). Tiếng cụ thể diễn tả những cái do giác quan cảm
nhận, tả trạng thái của sự vật “thì hay vô cùng tưởng không tiếng nuớc nào
bằng”. Vậy, tiếng ta vừa quán quân (về văn nghệ thuật), vừa bất lực (về văn
luận thuyết) là do ở chỗ quá thiên về cái cụ thể.
Tính cụ thể thắng tính trừu
tượng trong Việt ngữ, ông Phạm phát biểu thẳng, không viện dẫn một tác giả
nào, một bậc tiền bối nào. Ông là người đầu tiên nhận ra chỗ ấy chăng? Nếu
đầu tiên thì chỉ là đầu trong số các văn nhân ta thôi, chứ người nước ngoài
đã từng có kẻ thấy từ trước. Chẳng hạn giáo sĩ F. X. Marette. Trong một tập
Biên niên truyền giáo (Annales de la propagation
de la foi) in ở Paris năm 1833, ông này đã cho rằng “Việt ngữ phong phú về
tiếng để diễn tả những cái thông thường và có thể cảm nhận được, nhưng nghèo
về loại tiếng dùng vào các kỹ thuật cơ khí và các ngành mỹ thuật; Việt ngữ
tuyệt đối không có tiếng để diễn đạt các ý tưởng trừu tượng.”[1]
Kể ra người ngoài có sáng hơn
ta cũng không nên lấy làm lạ. Ta quen thuộc tiếng ta từ bé, ta không để ý;
còn như kẻ đến từ xa, từ một truyền thống văn hóa khác hẳn, kẻ quen vận dụng
tiếng nói vào vô vàn vấn đề trừu tượng, lại đang rao giảng tôn giáo, hàng
ngày chuyên nói những chuyện tâm linh mờ mịt, chợt đụng đầu vào thứ tiếng
“tuyệt đối” không có một từ trừu tượng nào, kẻ nọ phải sững sờ chứ. (Tuyệt
đối ? ông giáo sĩ nọ có quá đáng không? Dù sao, con người có xác có hồn. Chữ
xác là tiếng thuần Việt, chỉ thị một khối cụ thể; đến chữ hồn ông giáo sĩ
gặp khốn khổ ngay. Hồn là tiếng Tàu. Ta không có tiếng gọi tên cái hồn, ta
không mảy may để ý đến, không lúc nào thấy cần phải nói đến cái món trừu
tượng ấy. Sao mà dân tộc ta đố kỵ trừu tượng đến thế!)
Kẻ sững sờ đã nêu ra sự lạ
trước Phạm Quỳnh trăm năm; nhưng chỉ có thế rồi thôi. Phạm Quỳnh không thôi.
Từ cái trừu tượng, ông liên hệ sang khả năng biện luận của dân tộc. Thấy ta
kém biện luận, ông bắt tay vào việc chữa cái nhược điểm của tiếng Việt. Ông
hô hào “đoàn luyện quốc văn”, “bồi bổ quốc văn”. Bồi bổ vào cho nó thật
nhiều tiếng trừu tượng, biến nó thành một phương tiện tốt, đắc lực, thích
hợp hơn cho loại văn luận thuyết.
Trong vòng mười năm đầu của
Nam Phong, ông Phạm tính ra đã “phát hành kể có
hàng ngàn tiếng mới”, ông đã dùng chúng vào các việc biên tập, dịch thuật ,
việc truyền bá Đông Tây học thuật.
Phạm Quỳnh bắt được mối liên
quan giữa loại văn biện luận và từ ngữ trừu tượng, nhưng khi bàn về vấn đề
quốc học không thấy ông đề cập đến mối liên quan này.
Ta chưa từng có quốc học, Phạm
Quỳnh và Phan Khôi hồi đó (1931) đều bảo thế. Ông Phan tìm hiểu kỹ càng
thành tích trước tác của tiền nhân, cố xem có gì đáng gọi là quốc học chăng,
ông kết thúc: “Tìm mãi không ra cho tới ngày nay tôi mới trịnh trọng và quả
quyết mà nói rằng không có.” Ông Phạm tán đồng: “Nước Nam ta mấy mươi thế kỷ
theo học nước Tàu chỉ mới là người học trò khá, chưa hề thấy dám thoát cửa
thầy mà lập nên môn hộ riêng, không những thế lại cũng không lọt ra ngoài
vòng giáo khoa mà bước lên tới cõi học thuật nữa. Như vậy thì làm sao có học
thuật được?”
[2]
Quốc học, hai vị đều hiểu là
“gồm những phong trào về tư tưởng về học thuật trong một nước”. Vậy văn học
thì ta có, quốc học thì không; nghệ thuật thì có, học thuật thì không.
Tại sao vậy? Phan Khôi, ta
không thấy ông thắc mắc về điều này. Phạm Quỳnh vẫn kỹ càng, chu tất. Ông
giải thích: đó là vì hoàn cảnh. Có hoàn cảnh địa lý, có hoàn cảnh lịch sử,
có hoàn cảnh chính trị, thảy đều bất lợi cho sự phát triển của học thuật, tư
tưởng, ở ta.
Tôi thầm chờ đợi thêm một lý do
không được ông đưa ra: lý do bẩm chất. Chẳng hạn: Trời sinh ra dân ta vốn
không thoải mái đối với những gì là tư tưởng, là lý luận, những gì trừu
trượng. Bẩm chất ấy đã bộc hiện ra ở cái tiếng ta nói, làm gì nó lại chẳng
bộc hiện ở những điều ta viết? Ông Phạm đã nhận ra rằng ta không giỏi biện
luận vì tiếng ta nghèo trừu tượng, sao ông không nhận luôn rằng ta thiếu học
thuật cũng có phần vì lẽ ấy? Có gì khiến ông ngại ngùng chăng?
Nói “trời sinh”, chẳng qua là
buột miệng nói cách dễ dãi, nói theo cái ngôn ngữ thông dụng hàng ngày. Bẩm
chất với hoàn cảnh xét ra cũng không trái nhau, còn có thể có liên hệ. Muôn
loài sinh ra có giống giỏi bay, có giống chuyên lội, có loài mọc sừng, có
loài dài cổ, có giống thở bằng phổi, có giống thở bằng mang v.v...: xét hiện
tại thì là trời sinh ra thế, là bẩm sinh cả. Nhưng truy ngược tới tận nguồn
thì có thể là do hoàn cảnh, dám lắm. Thuở ban sơ đâu có bao nhiêu loài. Từ
một số ít, sinh vật phát triển ra nhiều. Tùy hoàn cảnh sinh sống khác nhau
mà trong quá trình tiến hóa mỗi loài biến ra một vẻ, rồi truyền tử lưu tôn
muôn vạn kiếp, hóa ra đặc tính bẩm sinh. Nói gần thì lươn ngắn chạch dài,
thờn bơn méo miệng với trai lệch mồm là bẩm sinh; nhưng nói xa thì có thể
qui cho những hoàn cảnh khác nhau. Xu hướng đố kỵ cái trừu tượng ở ta có lẽ
không bỗng dưng mà có. Xem gần nó như tuồng một xu hướng bẩm sinh; nhưng
nghĩ xa, không chừng nó đã phát sinh do một “hoàn cảnh” nào đó, trong thời
đại hồng hoang. Thời nào? bao xa? Ai mà biết! Rồi đây hoàn cảnh đổi khác, xu
hướng tinh thần nọ sẽ mất đi chăng? bao giờ mất? Ai mà biết được!
Họa chăng người ta chỉ đoán
rằng hoàn cảnh phát sinh phải xa lắm, từ trước khi ta có tiếng nói. Bởi vì
khó thể tưởng tượng nổi xưa kia ta vốn sử dụng thứ ngôn ngữ có nhiều từ trừu
tượng; rồi dần dà loại từ ấy rụng dần, biến mất dần, rốt cuộc “tuyệt đối”
không còn tiếng nào nữa. Ông Phạm nói đến hoàn cảnh, ông không có ý nói xa
đến thế. Ông chỉ muốn chỉ thị cái hoàn cảnh ta sống gần khối dân Tàu lớn,
đông và mạnh, cái hoàn cảnh khiến ta phải lo việc tự tồn đến nỗi quên việc
suy tư. Hoàn cảnh ông nói đó là gần đây, mới vài ngàn năm, e không đến nỗi
xóa tiếng của ta. Trái lại, sự tiếp xúc với nguời Tàu chính đã làm giàu thêm
tiếng ta, nhất là tiếng trừu tượng. Trong bộ Việt Nam tự điển của hội Khai
Trí Tiến Đức có 13,276 chữ, trong đó 3,443 vốn gốc tiếng Tàu; chắc chúng nó
đã bắt đầu chạy vào tiếng Việt từ thuở Bắc thuộc ấy.
Ta du nhập tiếng trừu tượng
tích cực như vậy hết nghìn năm này đến nghìn năm khác, mà mãi vẫn chưa từng
dựng nên quốc học, mà thành tích học thuật chưa có gì cả, khiến cho đầu thế
kỷ này kẻ sĩ có ý thức phải ráo riết “truyền bá Đông Tây học thuật”.
Cùng lúc ấy, thế hệ Phạm Quỳnh
– Nguyễn Văn Vĩnh lại khẩn trương bồi bổ, và các thế hệ tiếp cũng lại tiếp
tục bồi bổ quốc văn, du nhập thêm nghìn nọ nghìn kia tiếng trừu tượng mới
nữa. Thế bây giờ — cuối thế kỷ — chúng ta đang đến đâu, về mặt học thuật?
Chúng ta đã có chủ thuyết triết học riêng, có chủ thuyết kinh tế mới mẻ, đã
mở ra những trường phái chính trị đặc biệt sáng giá chăng? Các bậc trí thức,
học giả, của chúng ta đang hối hả “truyền bá học thuật Việt ra khắp Đông
Tây” gấp gấp chăng?
Chuyện ấy chưa hề xảy ra. Chỉ
thấy hoạt động ráo riết ở ta vẫn là truyền bá Đông Tây tư tưởng. Vẫn là
truyền vào, chưa phải truyền ra. Cuối thế kỷ cái truyền vào cũng ráo riết
không kém hồi đầu thế kỷ.
Chừng ấy cứu chữa chưa đạt kết
quả; có lẽ lúc này chúng ta nên góp thêm một vài suy ngẫm.
Chẳng hạn về mối liên hệ giữa
tiếng trừu tượng với khả năng biện luận suy tưởng. Đó là loại liên hệ thế
nào? Bảo rằng vì thiếu tiếng trừu tượng mà kém về biện luận, hay bảo rằng vì
ít suy luận nên không cần đến, không đặt ra tiếng trừu tượng, do đó loại
tiếng này hóa nghèo. Như thế là cho rằng hai bên có liên hệ nhân quả: cái
này sinh ra cái kia, hoặc ngược lại. Liên hệ như cha với con. Sửa cái nhân
thì cái quả sẽ đổi khác.
Mặt khác, lại có thể hiểu:
thiếu tiếng trừu tượng và kém về suy luận là hai hiện tượng cùng biểu lộ một
xu hướng tinh thần. Tiếng nói là phương tiện diễn đạt ý tình; phương tiện
tốt thì diễn đạt tốt. Nhưng mặt khác tiếng nói tự nó cũng là biểu hiện của
một xu hướng tinh thần của dân tộc, cũng là phản ảnh của một sở trường bẩm
sinh tiềm ẩn, tự bản thân nó cũng ẩn ngụ những ý tình thầm kín của dân tộc,
không sao? Là phương tiện, nó không phải thứ phương tiện như cây cuốc, lưỡi
cày, như cái búa, lưỡi dao v.v... Hai sự kiện cùng phát sinh từ một xu hướng
gốc, chứ không phải sự kiện này sinh ra sự kiện kia. Giữa đôi bên không phải
là thứ liên hệ cha với con, mà là thứ liên hệ anh em song sinh. Cả hai cùng
cội rễ, phát sinh từ một hoàn cảnh xa xôi. Hai sự kiện là hai chứng minh bổ
túc cho nhau.
Về mối tương quan giữa hai hiện
tượng này, dân tộc Ấn đã tự hiến làm một dẫn chứng lý thú. Ấn ngữ cực nhiều
tiếng trừu tượng và người Ấn cực giỏi tài biện luận. Ai cũng biết các dân
tộc La-mã, Hi-lạp và Đức là những dân tộc cừ khôi từng cung cấp cho nhân
loại những nhà triết học lừng lẫy; Keyserling, một triết gia Đức, bảo rằng
số từ ngữ triết trong tiếng sanscrit của Ấn-độ nhiều hơn tổng số từ ngữ
triết của ba thứ tiếng La-tinh, Hi-lạp và Đức cộng chung lại. Còn người Ấn
thì nhất khoái tranh luận. Trong khi ở các xứ khác lắm người ham thích xem
đá cá, đá gà, xem chọi trâu, xem cọp voi đấu nhau, xem cả người với người
đánh đấm nhau, đấu gươm đấu kiếm tranh giết nhau, thì ở Ấn từ vua quan đến
dân chúng đều khoái xem đấu võ mồm. Hễ có cuộc tranh biện giữa các vị cao
tăng thì người đông nghìn nghịt chen nhau nghe. Kẻ thắng có thể được nhà vua
trọng thưởng đến cả nghìn con bò cùng với vàng bạc, được dân chúng đón rước
cực kỳ trọng thể. (Đường Tam Tạng từ Trung Quốc sang Ấn-độ cũng tham dự
những cuộc biện đấu lớn như thế.)
Hiểu theo cái ý hai hiện tượng
nọ có tương quan song sinh thì việc du nhập, tăng bổ từ trừu tượng vào Việt
ngữ sẽ không có hiệu lực phát triển tức thì khả năng suy tưởng, xây dựng
nhanh chóng nền quốc học. Tăng bổ từ mới là cung cấp thêm phương tiện, trong
khi cái thiếu không phải chỉ là phương tiện. Dù sao, có thêm vốn từ trừu
tượng cũng làm chúng ta quen thêm, gần thêm các hoạt động nghiên cứu, suy
tưởng. “Hoàn cảnh” sinh hoạt học thuật ấy, dần dần cải biến khuynh hướng
“bẩm sinh” đố kỵ trừu tượng của ta. Và một ngày kia, ta sẽ vùng lên. Biết
đâu?
Nói thế là nói điều quá xa xôi.
Có phải Phạm Quỳnh đã ngại ngùng, và ngại ngùng chính vì chỗ xa xôi ấy? Giữa
lúc thế hệ tiền phong đang tưng bừng, hồ hởi, sao nỡ gieo điều ngờ vực, nêu
trở lực khó khắc phục?
Thực ra, không cứ là thế hệ
tiền phong, thế hệ nào cũng ghét trở lực. Quốc học đã muộn mất bốn nghìn năm
văn hiến, đến lúc này mà không dựng gấp sao được? Lên đỉnh cao trí tuệ phải
vọt lên cấp kỳ. Chần chờ, sốt ruột lắm.
Một chút so sánh với người
thiên hạ càng làm cho ta sốt ruột thêm. Ở Pháp cũng từng có thời lệ thuộc
vào tiếng La-tinh (như ta xưa kia lệ thuộc vào chữ Tàu), rồi cũng từng nổi
lên chủ trương thoát ly khỏi tiếng La-tinh mà xây dựng nền văn chương học
thuật Pháp, vào thế kỷ XV. Không đầy một trăm năm, đã có những thành công
cảø về hai thứ văn nghệ thuật và văn luận thuyết. Bên này có Du Bellay,
Ronsard, thì bên kia cũng có những Calvin (1509-1564), Montaigne (1532-
1592). Chẳng bao lâu xuất hiện Descartes (1596- 1650), Pascal (1623-1662).
Điều ấy có liên quan chăng đến
bản chất của ngôn ngữ Pháp? Nói về cái phương tiện diễn đạt tư tưởng của
tiếng Pháp, Montaigne — một vị trong thế hệ tiền phong — bảo: “Tôi thấy ngôn
ngữ của chúng ta đã đủ phong phú.” (suffisamment abondant). Có phải bản chất
ngôn ngữ ấy là một thuận lợi cho sự phát triển học thuật của Pháp? Còn ở
ta... thật là sốt ruột.
Dù sao, nên tìm một lý lẽ để hạ
hỏa, trong khi chờ đợi một nền quốc học rực rỡ.
Bấy lâu ta kém sút, không kém
sút cả. Chỉ kém một bên thôi. Thiếu kém bên ấy, quốc gia vẫn bền vững, dân
tộc vẫn tồn tại và phát triển, vẫn sống mạnh sống hùng, thắng sự xâm lăng
của nhiều nước lớn và mạnh, thắng và nuốt tươi đôi ba nước nhỏ hay yếu, dân
tộc vẫn hưởng một nếp sống có lễ nghĩa, có thuần phong mỹ tục, có nét văn
hóa riêng v. v... Ước mong, đòi hỏi phải hơn thế: vâng, thì cứ ước cứ đòi.
Nhưng cũng nên biết rằng khắp thế giới xưa nay, cái số các dân tộc xây dựng
được những hệ thống triết lý nguy nga có bao nhiêu đâu. Từ những trung tâm
lớn như Trung Hoa, Ấn-độ, Hy-lạp... ánh sáng tư tưởng tỏa dần ra, rồi nhân
loại được hưởng cả, lo gì. Vả lại, các công trình tư tưởng lớn lao rồi về
sau không hề ngăn cản nổi sự suy sụp thảm hại ở một số quốc gia thuộc những
khu vực văn minh lừng lẫy một thời. Vậy quốc học, có lẽ ta cũng không nên kỳ
vọng quá đáng vào nó.
Người có hai phía: phía cảm
thụ, phía suy tư; văn có hai thứ: thứ nghệ thuật, thứ luận thuyết. Ta xuất
sắc về một phía thứ nhất. Không chừng đó lại là phía hay ho đa. Có được các
giác quan mẫn nhuệ, có cảm xúc tinh vi, ta tha hồ hưởng thụ, sống một đời
phong phú, đậm đà. Phía thứ nhất mà kém, không thể trông cậy vào ai được; ta
không thể mượn chiếc lưỡi tinh tế của kẻ khác để thưởng thức chén trà ngon,
tô phở ngon, ta không thể nghe nhạc hay bằng đôi tai sành sõi của kẻ khác,
không thể xem tranh ngoạn cảnh bằng mắt kẻ khác, yêu đương rào rạt bằng con
tim kẻ khác. Một dân tộc có thiên khiếu về cái cụ thể, một dân tộc sở hữu
những giác quan tinh nhạy không phải là được Trời cưng sao?
Còn suy tưởng cao xa? Hãy giả
vờ nêu thử một câu hỏi liều lĩnh: món ấy có thật là cần kíp không? Cao xa
như lời Chúa, lời Phật, như bao nhiêu lời các đức Khổng Tử, Mạnh Tử,
Aristote, Socrate v.v... trước sau đều lần lượt tìm đến tai ta. Người Tàu
người Tây nghe được mấy lời, ta cũng được phép nghe đủ mấy lời. Không một
triết gia nào, không thánh hiền nào giấu giếm lời hay ý đẹp cả. Trái lại,
mọi sản phẩm cao siêu nhất, quí báu nhất đều mong được truyền bá rộng rãi.
Chỉ lo ta không cố gắng tiếp nhận, đừng ngại người không quảng bá. Rồi phát
minh điện tử, bí mật vũ trụ, thiên hạ khám phá ra đến đâu, ta tha hồ biết
theo đến đấy.
Thành quả của trí tuệ, ta hưởng
chung với người; cảm nhận các giác quan thì của ai nấy hưởng kỹ.
Vậy lớp tiền phong đầu thế kỷ
chủ trương truyền bá Đông Tây học thuật là chí phải. Rồi khi nhận thấy lớp
tiền phong cuối thế kỷ vẫn mải miết tiếp tục truyền bá Tây phương học thuật
cũng không đến nỗi phải lo lắng hoảng hốt.[3]
4 - 1999
_________________________
[1]
La langue annamite abonde en expressions pour les choses usuelles et
sensibles, mais elle est pauvre pour ce qui regarde les procédés des arts
mécaniques et les beaux arts; elle est absolument dépourvue d’expressions
pour les idées abstraites.
[2]
Nam Phong số 119, kỷ niệm đệ thập chu niên.
[3]Bài
này đọc trong Ngày Phạm Quỳnh, tổ chức tại báo quán Người Việt (ở
California, Hoa Kỳ), tháng 5 – 1999.
|