|
1. Trên b́nh diện ngôn
ngữ học lư thuyết,
chữ quốc ngữ không phải là một cách
viết thích hợp với tiếng Việt. Nó sử
dụng tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn
tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các
ngôn ngữ biến h́nh kiểu châu Âu, trong đó
đơn vị cơ bản là "tiểu âm
vị", một đơn vị được
thể hiện bằng một "âm tố“, trong khi
đơn vị cơ bản của hệ thống âm
vị học tiếng Việt là tiếng, hay "h́nh
tiết" (morphosyllabème) - vốn đồng thời là
đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp.
Trong cuốn Âm vị học và tuyến tính (Phonologie et
linéarité: Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie
contemporaine, SELAF, Paris, 1985), tôi có chứng minh rằng lư
thuyết âm vị học hiện hành chỉ có giá
trị đối với các ngôn ngữ "tiểu âm
vị" (micro-phonématiques) như các thứ tiếng châu
Âu chứ không thể dùng cho những thứ tiếng
đại âm vị (macro-phonématiques) như tiếng
Nhật, tiếng Malagasi, và nhất là các thứ
tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng
Thái, tiếng Việt, trong đó cái đơn vị âm
vị học tương đương về cương
vị cấu trúc với âm vị Âu châu là âm tiết
(tiếng) chứ không phải là âm tố. Một
thứ chữ quốc ngữ, chữ "Pin yin" hay
chữ "Romanji" che giấu và xuyên tạc cái
cấu trúc âm vị học thực của các thứ
tiếng sử dụng nó và làm cho các nhà nghiên cứu
lạc hướng hoàn toàn.
2. Đó là xét trên b́nh
diện lư thuyết ngôn ngữ học. C̣n trên b́nh
diện thực tiễn,
dùng chữ quốc
ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu,
v́ dù sao nó cũng cho phép phân biệt đầy đủ
các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt
(1). Và mặc dầu việc vay muợn văn tự này,
theo ư tôi, là một công việc có phần đáng
tiếc, nó vẫn có một thuận lợi khá quan
trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái
khối cộng đồng lớn của những nước
dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển
hiệu. Nhờ đó, một khi "tiếng" đă
được tháo rời ra thành âm, các văn bản
tiếng Việt có thể sao đúng chính tả
của bất cứ từ ngữ nào (đặc
biệt là các tên họ) được viết
bằng chữ La Tinh hoặc đă được
chuyển tự sang hệ chữ La Tinh. Điều này
làm cho việc phiên âm các tên họ của người
nước ngoài trở nên hoàn toàn vô ích và thậm chí
rất có hại, nhất là khi ta biết rằng theo
thống kê sơ bộ hơn 90 % các tên họ nước
ngoài (kể cả người Pháp và người Anh)
bị phiên âm sai chỉ v́ người viết không
biết đọc các tên họ ấy (chứ không
phải v́ quy tắc chính tả tiếng Việt không
cho phép phiên âm đúng). Vả lại làm sao có thể
biết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm
thứ tiếng trong nhân loại? Trong t́nh h́nh văn hoá
của thế giới ngày nay, việc truyền thông,
trao đổi được thực hiện chủ
yếu là qua văn bản, cho nên chính tả quan
trọng hơn phát âm rất nhiều. Cái thói phiên âm
sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn
cứ (chưa bao giờ được kiểm
nghiệm), cho rằng quần chúng ít học và học
sinh không thể viết đúng và đọc đúng
những từ như volt, watt, ampère hay những tên như
Marx, Engels. Thật ra nhiều người trong số chúng
tôi đă làm thí nghiệm trên con cái chúng tôi với
những kết quả hết sức rơ ràng: chỉ
cần chép một vài lần và ôn lại từ ba
đến năm lần bằng cách "ám tả"
theo trí nhớ là các cháu đủ thuộc vài chục
tên riêng cho đến bốn năm năm sau, cùng
với vài ba trăm tên khác được học thêm
trong những năm kế theo. (2)
3. Kể từ
những năm 20 của thế kỷ cho đến khi
Cách mạng tháng Tám thành
công, đă có nhiều người Pháp đề
nghị cải tiến chữ quốc ngữ mà họ
cho là bất hợp lư. Rồi đến khi miền
Bắc được giải phóng, suốt ba năm
trời đă diễn ra không biết bao nhiêu cuộc
họp, đă in không biết bao nhiêu bài vở và
kỷ yếu bàn về cách cải tiến chữ
quốc ngữ, rồi cuối cùng người ta
mới nhận ra rằng đó là một công việc
không những hoàn toàn vô ích mà c̣n hết sức có
hại, lặp lại một cách vô duyên một giai
đoạn đă qua của lịch sử chính tả
ở châu Âu mà ngày nay người Anh và người Pháp
mỗi khi nhớ lại không khỏi cảm thấy
bẽ bàng. Số là năm 1897, sau khi Hội Ngữ âm
học quốc tế (IPA) ra đời và công bố
hệ tự mẫu gọi là Alphabet Phonétique
International, một số hội viên và hàng trăm người
khác khởi động một phong trào rầm rộ
cực lực lên án chính tả Anh và Pháp mà họ cho
là hết sức phi lư, cần phải bỏ ngay v́
đó là "một nghĩa địa của những
h́nh thái cổ lỗ đă lỗi thời từ lâu"
để thay nó bằng một thứ chữ viết
phản ánh cách phát âm một cách trung thành và nhất
quán, theo nguyên tắc "mỗi chữ ghi một âm và
mỗi âm ghi bằng một chữ".
May thay, với sự đóng góp của những người
am hiểu ngôn ngữ hơn, người ta đă
nhận ra rằng chữ viết có một chức năng
khác với lời nói, chủ yếu là ở chỗ người
đọc một văn bản rất khác với người
tham gia đối thoại, và chữ viết được
đọc bằng mắt chứ không phải nghe
bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ trên
một văn bản rất khác với cách nhận
diện từ ngữ khi nghe một lời nói bằng
miệng với sự hiện diện của người
phát ngôn ngay trong khi đối thoại. Khi một
hệ chữ viết đă được dùng trong vài
ba thế kỷ, nó trở thành một truyền
thống văn hoá. Mỗi từ ngữ dần dần
có một diện mạo riêng, một Gestalt mà người
ta đă quen thuộc đến mức không thể thay
đổi được nữa. Và cái Gestalt thị giác
do cách viết tạo nên được liên hội
với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp
cách phát âm ra sao, và nhờ đó mà người đọc
phân biệt được các từ đồng âm
mặc dầu không có sự giúp đỡ của t́nh
huống đối thoại hay của sự hiện
diện của người đối thoại mà người
kia có thể hỏi lại ngay khi không hiểu v́ không
biết người phát ngôn muốn dùng từ nào trong
số những từ đồng âm. Đó là chưa nói
rằng chính tả c̣n cho biết khá nhiều điều
hữu ích về từ nguyên, và do đó, về nghĩa
của những từ dùng căn tố Hy Lạp, La Tinh
hay Sanskrit, về gốc gác của những tên riêng, và
do đó, về quốc tịch hay tôn giáo của người
đương sự. Cho nên từ khi có cái phong trào
''bài xích và cải cách chính tả Anh, Pháp“ cho đến
nay đă đúng một thế kỷ mà hai hệ
thống chính tả này vẫn tồn tại y nguyên, và
ngày nay họa chăng chỉ có những người không
được b́nh thường may ra mới c̣n nghĩ
đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp,
mặc dầu so với chữ quốc ngữ, hai
thứ chính tả này c̣n xa cách phát âm gấp bội.
4. Chữ viết không
phải là phiên âm, v́ ngôn ngữ không phải chỉ là
âm thanh: nó c̣n có nghĩa
nữa. Cho nên một hệ thống chữ viết lư
tưởng phải phản ánh, ít nhất là một
phần cái nghĩa của từ ngữ. Từ cổ
đại, loài người đă có một hệ
thống chữ viết gần đạt đến cái
lư tưởng ấy: chữ Hán. Một bằng
chứng sáng rực của tính ưu việt của
chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của
việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc
một loại h́nh hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng
Nhật, một thứ tiếng đa âm tiết
thuộc loại h́nh chắp dính (agglutinating). Khi dùng cho
tiếng Nhật, nếu không kể mợt số
rất ít những từ gốc Hán được người
Nhật phát âm hao hao như tiếng Hán (các từ Hán -
Nhật c̣n giữ dạng đơn âm hay chỉ
biến thành song âm), chữ Hán chỉ biểu thị
nghĩa, rồi thông qua nghĩa mà biểu thị âm
(khi hiểu nghĩa rồi, người Nhật mới
chọn giữa hai ba cách phát âm có thể bằng cách
căn cứ vào văn cảnh). Dựa vào những thành
quả ngoạn mục của việc dạy tiếng
Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc
chứng dislexia (không học được cách "đánh
vần"), một số nhà ngữ học Mỹ
đă thấy rơ tính ưu việt của một
hệ thống văn tự phi ngữ âm và đă đi
đến chỗ tin rằng đó chính là thứ
chữ tương lai của nhân loại. Vả lại
ai cũng biết rằng chính là nhờ chữ Hán mà
người Trung Quốc, vốn nói nhiều ngôn
ngữ khác nhau (về phương diện ngôn ngữ
học, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông,
tiếng Triều Châu là những ngôn ngữ khác nhau
chứ không phải là những phương ngữ, v́
khoảng cách giữa các thứ tiếng ấy xa hơn
khoảng cách giữa các ngôn ngữ Salvian như
tiếng Nga và tiếng Nam Tư (Serbo - Croatian) hay
tiếng Bulgari rất nhiều), có được
một công cụ giao tiếp chung. Một nhà ngữ
học Pháp gọi chữ Hán là ''một thứ esperanto
cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa“.
Thứ esperanto này c̣n có tầm tác dụng vượt
xa bờ cơi Trung Quốc: nó c̣n là phương tiện
giao tiếp đắc lực giữa người Hán và
cá sứ giả ''man tộc“ như người Hàn, người
Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và
các thứ ''rợ“ khác, vốn thường bút đàm
với người Hán (và với nhau) hơn là ngôn
đàm.
5. Nói đến đây,
tôi chắc chắn các vị hiểu tại sao chính
tả tiếng Anh và tiếng Pháp "bất hợp lư“
đến thế mà vẫn không thể thay đổi
được. Khi
lớn tiếng lên án chữ viết đương
thời, những người Anh và những người
Pháp cấp tiến ngày ấy cũng như những người
Việt cấp tiến của thời kỳ 1954 (và ngay
đến ngày nay h́nh như vẫn c̣n sót lại)
chỉ chăm chăm vào một tiêu chuẩn duy
nhất: ngữ âm (hay âm vị học). Họ phán
xử hệ thống chính tả bằng cách đạt
câu hỏi: Nó đă phản ánh thật đúng cách phát
âm chưa ? Nó đă nhất quán đi theo nguyên tắc
"âm và chữ tương ứng một đối
một“ hay chưa ? C̣n những tiêu chuẩn khác th́
họ không cần biết đến. Ở đây tôi
chỉ xin nhắc đến tiêu chuẩn "truyền
thống“ hay "tập quán“. Như trên kia đă nói,
khi người ta đă có nhiều thế kỷ để
quen với diện mạo văn tự của các
từ ngữ, cái diện mạo ấy trở thành cái
hồn của chữ nghĩa. Nó biểu hiện ư nghĩa
của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm
(vốn thay đổi tùy theo từng vùng), thành thử
mọi mưu đồ cải cách đều là
một sự xúc phạm đến truyền thống văn
hoá. Viết gia (trong gia đ́nh) thành za hay da, viết lư
(trong luân lư) thành lí, viết yêu thành iêu hay iâw,
viết qua thành kwa hay cwa trong nhiều thập kỷ
nữa vẫn sẽ được tri giác như
những lỗi của một lớp người
thiếu hiểu biết, nếu không là một lớp
người coi khinh hàng chục thế hệ đi trước,
trong đó có những bậc thầy đă dựng nên
cả một nền văn học hiện đại. Và
như thế để làm ǵ ? Chẳng lẽ chỉ v́
muốn tiết kiệm khoảng 2% luợng giấy in sách
? Chỉ cần tiết kiệm cỡ chữ "corps
10“ bằng cỡ chữ "corps 9“ cũng tiết
kiệm được gấp mười lần như
thế. Dĩ nhiên, một cuộc cải cách như
thế sẽ không có hại ǵ đến mấy
triệu học sinh vỡ ḷng mới bắt đầu
học thứ chữ mới. Nhưng ta cứ thử tính
số tiền tổn phí để in lại tất
cả các sách vở cần thiết cho các thế
hệ học chữ mới. Và thử tính xem có sáu mươi
mấy triệu người lớn trở thành mù
chữ (hay ít ra cũng thành những người
dốt nát chuyên viết sai chính tả do những
tập quán cũ và cách đánh vần các văn
bản một cách khó nhọc, ít ra là trong dăm
bảy năm sau cải cách).
Nhược điểm của chữ quốc ngữ không
phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ
thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ
nó có tính chất thuần tuư ghi âm, và hoàn toàn bất
lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa
mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược
điểm ấy lộ rơ nhất và tai hại
nhất là trong trường hợp các từ đồng
âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy
vậy, cũng gần giống như chữ Anh và
chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là
bất hợp lư chính là những chỗ làm cho nó phân
biệt nghĩa và cội nguồn của các từ
đồng âm như gia và da, lư và lí (trong lí nhí) (3)
v.v.
Đáng tiếc là những trường hợp như
thế không lấy ǵ làm nhiều. Nhưng có vẫn c̣n
hơn không, như khi ta thay chữ quốc ngữ
bằng một thứ chữ thuần túy ghi âm. Bỏ
chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không c̣n hoán
cải đuợc nữa, nhưng ta c̣n có thể
bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách
dạy chữ Hán như một môn bắt buộc
ở trường phổ thông. Người Việt
sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu không
thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt,
vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn
từ vựng tiếng Việt.
GS Cao Xuân Hạo
(Tiếng Việt, mấy vấn đề ngữ âm,
ngữ pháp, ngữ nghĩa - NXB Giáo Dục, TP Hồ Chí
Minh, 1998)
(*) Báo cáo đọc tại Hội nghị "Chữ
quốc ngữ và sự phát triển của văn hoá
Việt Nam", Trường Đại học Tổng
hợp, TP Hồ Chí Minh 1995
(1) Về những cái lợi và cái hại của
chữ quốc ngữ, xin xem bài Chữ Tây và chữ Hán,
thứ chữ nào hơn? (Kiến thức ngày nay,
số 14, ngày 15-6-1994). Cũng xin xem thêm các mục dưới
dây.
(2) Xin xem bài Về cách viết và cách đọc các tên
riêng nước ngoài trên văn bản tiếng
Việt, cũng đăng trong tập này.
(3) Xem thêm Cao Xuân Hạo, 1996
|