|
Tiếng nói là nhịp cầu cảm thông để
trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xă
hội giữa con người cùng ḍng giống xứ
sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn
ngữ văn tự có ảnh hưởng rất
lớn và quan hệ mật thiết đến sự
hưng vong của giống ṇi. Dân tộc có một tŕnh
độ văn hóa cao, càng văn minh th́ họ
lại càng chú trọng đến ngôn ngữ văn
tự.
Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có
cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói.
Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân
thiểu số c̣n dùng thổ âm và một số
địa phương dùng phương ngữ hay phát
âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói,
nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là
tiếng Việt Nam.
Vậy
tiếng Việt có tự bao giờ!?
Tiếng Việt bắt nguồn từ đâu!?
Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đă là
một tiếng nói thật sự thuần Việt hay
là một kết quả của sự hỗn hợp
trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!
Trước khi t́m về cội nguồn tiếng
Việt, việc phải làm đầu tiên là ta
phải đi ngược ḍng thời gian để t́m
ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó,
ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói
của dân tộc. V́ thời gian lịch sử xa xăm
mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt
Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt
thật khó mà khẳng định một cách chính xác.
Kê cứu theo sử kư, truyền thuyết, giả
thuyết và nhất là những ư kiến, lập
luận, ức thuyết của các học giả,
sử gia Việt, Pháp, Tàu th́ vấn đề này càng
rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu
thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép lại những
điều đă đọc để các bạn
rộng đường thảo luận và kính xin các
bậc thức giả sửa sai hoặc góp ư giùm cho.
Nguồn
gốc dân tộc Việt
Tiếng Việt vào thời đại sơ cổ:
Kể từ trời mở viêm bang
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra
Cháu đời Viêm Đế thứ ba
Nối ḍng Hỏa Đức gọi là Đế minh
Quan phong khi giá Nam hành
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều
Vụ Tiên vừa nở đào yêu
Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên
Ḍng thần sánh với người tiên
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra
Phong làm quân trưởng nước ta
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Hóa Cơ dựng mối luân thường
Động Đ́nh sớm kết với nàng Thần Long
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị v́(1)
Theo truyền thuyết (tục truyền) th́ khai mở
họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr. CN) là Lộc Tục, con
trai vua Đế Minh. Sau Đế Minh nhường ngôi
lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương
Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương
Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy
quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cơi nước Xích
Quỷ phía bắc giáp Động Đ́nh Hồ (Hồ
Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía
tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp
bể Đông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước
Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN)
và lấy con gái Động Đ́nh Quân là Long Nữ đẻ
ra Lạc Long Quân Sùng Lăm.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên Âu Cơ,
sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa con theo
mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bể
Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm
vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương,
tức Quốc tổ của dân tộc Việt Nam ngày
nay. (2)
Tuy nhiên, theo sách Đại Việt Sử Lược do
Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có
ghi một đoạn rất quan trọng như sau:
"Đến đời Trang Vương nhà Chu, năm
696-682 tr. CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng
ảo thuật, áp phục được các bộ
lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô
ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang...
Truyền được 18 đời, đều
gọi là Hùng Vương."(3)
Như vậy là Hùng Vương đă xuất
hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó
cho tới năm 257 tr. CN th́ nước Văn Lang
bị Thục An Dương Vương thôn tính. Tính
ra họ Hùng trị v́ được 439 năm,
nếu đem ra 18 đời, th́ mỗi đời
trung b́nh từ 25 tới 30 năm. Như thế có
phần xác thực hơn là nói họ Hồng Bàng và
họ Hùng cai trị cả mấy ngh́n năm như
truyền thuyết ghi chép.
Thế nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh
Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại
thấy ghi rằng: về đời vua Thành Vương
nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là
họ Việt Thường đem chim trĩ sang
cống hiến. V́ ngôn ngữ bất đồng, Chu
công phải dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau
được. Căn cứ vào sử kư của Tư
Mă Thiên, bộ sử xa xưa nhất của Trung Hoa có
ghi chép như sau:
"Năm Tân Măo thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN)
đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bộ Giao
Chỉ có họ Việt Thường, qua ba lần
sứ dịch, dâng chim trĩ trắng."(4)
Nếu đúng như vậy th́ họ Hùng Vương
đă trị v́ ít nhất là trên 800 năm. Không
đúng theo sử kư của Tiền Hi Tộ, trong
Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không
đúng với Việt Nam Sử Lược của
Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.
Đó là chiếu theo sử kư và tục truyền để
t́m ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng ta cũng
đă thấy nhiều điều không trùng khớp
hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng
cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có
thể chắc rằng dân tộc Việt bấy
giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính v́
thế mà vua Chu đă phải ba lần kiếm t́m người
thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.
Về gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép
của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập
luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp,
viết rằng:
"Theo ư kiến của những nhà kê cứu
của nước Pháp, th́ người Việt Nam và
người Thái đều ở miền núi Tây
Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng
Hà lần xuống đông nam, lập ra nước
Việt Nam ta bây giờ. C̣n người Thái th́ theo sông
Mê kông, lập ra nước Tiêm La (Thái Lan) và các nước
Lào."
Lại có nhiều người Tàu và người
Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước
Tàu có giống dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán
tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi,
chiếm giữ vùng sông Hoành hà lập ra nước
Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người
Tam miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc
đào tị xuống miền Việt Nam ta bây
giờ. (5) Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng
không tin vào giả thuyết này.
Trong quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Đức
Tịnh (tr. 171 - 188) khi viết về lịch sử
tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Đức
Tịnh tán thành thuyết của các học giả cho
rằng Việt ngữ là một thứ tiếng
thuộc về ḍng Thái. V́ ḍng tiếng Thái có hai
đặc điểm: giọng trầm bổng như
tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi
của loại tiếng Ấn độ - Mă Lai. Nhà bác
học Schmidt cho rằng ḍng tiếng Thái thuộc
về tông-chi rộng-răi bao trùm các ngôn ngữ
của những thị tộc Đông Nam Á và Đại dương
châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt
tên cho tông chi ngôn ngữ này là ''tông chi Úc - Á''. Nhưng
thuyết của ông không được chứng minh
một cách đầy đủ. Bác sĩ Rivet, trong
đại hội các nhà tiền sử học họp
tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có đưa ra
một ức thuyết: Từ miền nam châu Á
hoặc từ Nam dương quần đảo, vào
một thời đại tối cổ, đă có
những đoàn di dân tản mác đi theo h́nh rẻ
quạt, vượt trùng dương đến ở
những đảo rải rác trên Thái b́nh dương
và Đại tây dương ... Người ta thường
gọi chung họ là các giống Đại dương
nhân (Océaniens). Đó là những người Ne'gritos,
Me'lane'sien (Australien), Indone'sien và Mông cổ. Theo các nhà
nhân chủng học, có lẽ trước tiên,
tại bán đảo Đông dương có hai giống
người Me'lane'sien và Indone'sien. Do đó, có thể
ức đoán rằng vào thời sơ cổ, đă
có những thị tộc người Indone'sien ở vùng
trung châu Bắc Việt và miền bắc Trung
Việt. Một mặt khác, trước đời nhà
Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp vùng lưu
vực sông Dương Tử, từ miền Vạn
Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc
miền biển cũng đă có chi nhánh của
chủng tộc Indone'sien, mà sử gia Tàu gọi
họ là giống Man di. Những phần tử
Việt tộc này đă di cư lần xuống
miền Nam theo đường sông hoặc đường
biển.
Theo Đào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở
miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm
dùng thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng
buồm, nhân gió bấc vượt biển đến
các miền duyên hải phương nam, đại khái
vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mă phía
Bắc Việt ngày nay. Đến mùa gió Nồm, họ
lại vượt biển trở về nguyên quán.
Thế là ngay từ những ngày rất xưa, đă
có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc
theo bờ biển nước Bắc Việt với
những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc,
ở vùng Phước Kiến. Khi nước Việt
bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng
Việt tộc tràn xuống miền nam càng nhiều.
Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào
miền bắc Việt nam, là nơi đă quen biết
trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ
là Lạc, và một nền văn hóa tuy có chỗ tương
đồng với thổ dân trước nhưng
đă chịu ít nhiều ảnh hưởng của
giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ
có tên Lạc Việt ấy là v́ trong các cuộc vượt
biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước
Kiến đi và về đồng thời với
một giống hậu điểu thuộc loại
ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ
đă nhận giống chim ấy là vật tổ .(6)
Theo nhà sử học người Pháp, ông Léonard
Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách Trung
Hoa, th́ dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân
Bách Việt gốc ở tỉnh Chiết Giang (Trung
Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi
lần xuống phía nam, hợp với dân bản
xứ, nhờ vào điều kiện địa dư
thuận tiện, đă chống lại sự xâm lăng
của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời
Triệu Đà, nhờ chế độ cai trị dễ
dăi mà Triệu Đà khôn khéo biệt lập, tự
củng cố địa vị ở phía nam xứ
Trung Hoa, tránh được ảnh hưởng
của người Tàu .(7)
Nhưng lập luận này đă không đứng
vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương
diện ngôn ngữ đă chất vấn trong bài '' Xét
về cội rễ tiếng Việt Nam'' như sau: (8)
"Bọn dân Việt hồi đó, rợ Bách
Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói
tiếng ǵ? Nếu là tiếng Trung Hoa th́ không
hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà
xuất hiện ra một thứ tiếng khác hẳn
tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung
Hoa, th́ các rợ Bách Việt ấy tất phải có
một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như
vậy th́ sao trong suốt các rợ Bách Việt
ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này c̣n
phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà
vẫn giữ được tiếng nguyên âm, c̣n
thời các rợ khác ở Nam Phương nước
Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng
Trung Hoa cả? Nếu ta thừa nhận cái thuyết
của ông Léonard Aurousseau, th́ cái vấn đề
tiếng nói tưởng cũng khó giải quyết
vậy".
Theo ông Lê Ngọc Trụ (9) th́ dân tộc Việt Nam
đă có từ lâu đời sinh sống tại đồng
bằng Bắc Việt. C̣n nhóm người Việt (Câu
Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn Xuân
Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đă di cư
xuống miền nam theo đất liền đến
chung sống với các dân tộc khác như Việt-Đông-Hải
vùng Ô Châu, Mân-Việt vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng
Quảng Đông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh
Quảng Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào
tới cả Thanh Hoá (Cửu Chân). Nhưng họ
chỉ là nhóm người thiểu số và bị
đồng hóa, chứ họ chẳng phải là
gốc tích tổ tiên Việt Nam như ông Léonard
Aurousseau đă nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ c̣n
cho rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đă cư
trú ở những vùng triền núi từ sông Đà
(Hắc giang) tới Quảng B́nh, sống chung hoà
với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày
nay, tiếng nói ở những vùng này có nhiều
chỗ tương tợ tiếng Mường. Dân Mường
là dân miền núi, cho nên họ rút lần rải rác
vào sâu dăy Hoành Sơn, do đó họ không bị
ảnh hưởng văn hoá của các đại cường
quốc Ấn Tàu, và chính v́ thế họ vẫn
giữ được các cổ tục và tiếng nói
của họ cũng không bị thay đổi
nhiều. Nên khi so sánh hai thứ tiếng Mường
Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường
có lẽ từ một nguồn gốc mà ra. Thí
dụ:
Mường Thạch Bi Hà Tĩnh Hà Nội
ka Ga Gà
kảy Gái Gái
kốk kộk Gốc
ka?w Ga.w Gạo
Tiến sĩ Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng
có cùng quan điểm lập luận như giáo sư
Lê Ngọc Trụ và cho rằng, dân Bách Việt phát
xuất từ miền Duyên hải miền nam Trung Hoa và
giống dân Lạc Việt sinh sống lâu đời
tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam
hoàn toàn không cùng chủng tộc. Sau nhiều cuộc
xung đột, hai giống tộc này đă chịu ḥa
đồng chung sống với nhau như một đại
tộc. Về sau, người Mường, cũng là
sắc dân Lạc, đă chạy vào ẩn núp trong núi
rừng, cao nguyên, để tránh sự xâm lăng
đô hộ của người Tàu. Nhờ đó,
họ vẫn giữ nguyên được ngôn ngữ,
phong tục tập quán và kỹ thuật đúc
trống đồng mà trước thời kỳ
Bắc thuộc đă được đúc tại
miền duyên hải Bắc việt và lưu vực sông
Mă (nền văn hoá thạch khí Ḥa B́nh và Bắc Sơn
với nền văn hoá đồng đen Đông Sơn).
Do đó các nhà nhân chủng học cho rằng: '' người
Mường là Tiền-Việt'' (proto Vietnamiens)(11) , v́
trong ngôn ngữ, tục lệ có nhiều điểm
tương đồng với người Lạc. Ông
có t́m được bản văn Mường-Việt
nói về sự tích của sông Pờ (sông Bờ,
tức sông Hồng ngày nay) trong quyển Cours de Langue
Annamite của A. Cheon, do nhà in F-h Schneider, xuất
bản tại Hà Nội năm 1899-1901 (nguyên văn):
"Khây khước măng pâu pô. Khi trước nghe
người ta nói rằng cỏ mống ông, thên
hốp là rằng có một ông tên gọi là ông Tùng,
mà cở hai bợ chồng; ông Đồng, mà cở hai
bợ chồng nă rú ra tế nă lấp cải nó
rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nă tan
lẽ ksông sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao
tất Thạch Bi. Bơ nă Bờ vào đất
Thạch Bi. Vợ nó mê, ti lê ksú tê, nă lấp mới
đi lấy đá, để nó lấp ksông. Ḷng
klởi skinh tha sông. Ḷng trời sinh ra mốch ông
hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; me
thuỗng mê thếch pât bởi mói xuống mới thách
vật với ông Tùng. Nă me pao ḷ, nă ông Đồng. Nó
mới vào ḷ; nó tỏ ming nă pât ông Tùng đỏ ḿnh
nó mới vật ông Đồng. Ông Tùng mê chẩi
hết ḿng, ông Đồng mới cháy hết ḿnh, mê
chết. Cho đên cải ksông mới chết. Cho
đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh
cải cấy chẳng lấp được, mới
nên cái Thác pờ dỉ. Thác bờ ấy."
Đọc đoạn văn trên, ta thấy tiếng
Việt được chuyển dịch xen kẽ
lẫn vào bản văn tiếng Mường, rất
tối nghĩa. Cho nên tôi mạo muội viết ra hai
bản Mường và Việt rơ ràng để quí
vị dễ đọc và so sánh:
Bản văn tiếng Mường:
"Khây khước măng pâu pô, cỏ mống ông
thên hốp ông Đồng, mà cở hai bợ chồng nă
rú ra tế nă lấp cải ksông Pơ. Nă tan lẽ
ksông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nă mê, ti lê ksú
tê nă lấp ksông. Ḷng klởi skinh tha mốch ông
hốp là ông Sách me thuỗng mê thếch pât bởi ông
Đồng. Nă me pao ḷ, nă tỏ ming nă pât ông Đồng.
Ông Đồng mê chẩi hết ḿng, mê chết. Cho
đên cải ksông dỉ chăng lấp ản, mê dênh
cải cấy cái Thác pờ dỉ."
Bản văn dịch sang tiếng Việt:
"Khi trước nghe người ta nói rằng, có
một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai vợ
chồng nó rủ nhau để nó lấp cái sông
Bờ. Nó toan lấy sông Bờ vào đất
Thạch Bi. Vợ nó mới đi lấy đá, để
nó lấp sông. Ḷng trời sinh ra một ông gọi là
ông Sắt mới xuống mới thách vật với
ông Tùng. Nó mới vào ḷ, nó đỏ ḿnh nó vật
ông Tùng. Ông Tùng mới cháy hết ḿnh, mới
chết. Cho nên cái sông ấy chẳng lấp
được, mới nên cái Thác bờ ấy."
Khi nhắc đến nguồn gốc của Việt
ngữ, ông Phạm Thế Ngũ cũng có nêu giả
thuyết là người Việt có cùng tông tổ
với người Mường, v́ các nhà khảo
cổ, khi xét về phong tục, lịch sử cũng
như ngôn ngữ của người Việt, đă
thấy có rất nhiều điểm giống với
người Mường. Hiện nay, trong tiếng
Việt có rất nhiều tiếng tương tự
với tiếng Mường, và có thể xem đó là
h́nh thức tối cổ của tiếng Việt tương
đương, thí dụ :(12)
một Hai ba trời đất núi sông trâu gà tằm
ăn lá dâu
móc Hai pa tḷy tất nủy không tlu kà thảm ăn lá
tô
Thứ tiếng cổ ấy, về sau, trong ngôn
ngữ người Việt, thâu nhận thêm những
yếu tố vay mượn của các chủng
tộc lân cận mà trở thành tiếng Việt. Và
ông kết luận rằng: "dân tộc Việt Nam
là kết quả tạp chủng và lai lẫn với
các dân tộc đă sinh sống trên bán đảo
Đông dương, và tiếng Việt là kết quả
trại lẫn của nhiều thứ tiếng của
các dân tộc ấy." (13)
Trong quyển Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc
Việt Nam(14), ông B́nh Nguyên Lộc đă có một
số nhận định và chứng minh khoa học
cụ thể về vấn đề nan giải nêu trên.
Theo ông, viết thượng cổ sử khác xa
với viết sử. V́ viết sử chỉ cần
sử liệu, c̣n viết thượng cổ sử
th́ cần phải chứng minh bằng khoa học, do
đó muốn t́m ṭi về các chủng tộc ta
phải vận dụng kiến thức khoa học chính
xác của ngành Chủng Tộc Học (Anthropologie
physique). Riêng về nguồn gốc của một
chủng tộc th́ khoa học chỉ nh́n nhận 3
chứng tích sau:
Khoa Chủng Tộc Học
Khoa KhảoTiền Sử
Khoa Ngôn Ngữ Tỷ Hiệu (Études comparatives des
Langues)
Theo ông trên thế giới ngày nay không c̣n chủng
tộc nào là thuần chủng. Ngay cả trên cao nguyên
của nước ta có người Thượng mà ta
cứ ngỡ là thuần chủng, nhưng thực
sự họ đă lai giống đến nhiều
lần rồi. Về vấn đề nguồn
gốc dân Việt, ngôn ngữ Việt, từ lâu
đă có những nhà bác học Pháp thuộc viện
Bác Cổ Viễn Đông, các sử gia, ngữ học
gia, giáo sư Việt Pháp khổ công t́m ṭi nghiên
cứu, nhưng vẫn chưa t́m được
một giải đáp thoả đáng. Và họ đă
đưa ra một số ức thuyết khá hỗn
loạn:
Ông Kari Himy cho rằng tiếng ta có bà con với
tiếng Môn
Ông H. Maspe'so bỏ Việt Ngữ vào chung với Thái
ngữ
Ông E. Souvignet cho rằng tiếng Việt có liên hệ
với Mă Lai
Bs. Reynand nhấn mạnh về ngữ vựng Miên
Việt giống nhau quá nhiều
Gs. Lê Ngọc Trụ và Sử gia Nguyễn Phương
khẳng định tiếng ta là tiếng Tàu
Sg. Phạm Văn Sơn kết luận Việt ngữ
+ Việt chủng là một chủng tộc, một ngôn
ngữ riêng biệt
Từ năm 1920 nhờ những cuộc phát kiến
ngẫu nhiên của dân chúng vùng Đông Sơn tỉnh
Thanh Hóa đă khai quật được một
số cổ vật đồng pha kế tiếp nhau
ở cách lưu vực sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông
Cả, sông Mă, sông Đà, sông Nhị, sông Lệ. Nghiên
cứu sơ khởi cổ mộ Đông Sơn, người
ta t́m thấy người chết có đồ tùy táng,
trong đó có trống bằng đồng thau khá
rực rỡ. Ước tính theo số tuổi cổ
vật, mộ này ắt đă được chôn trước
thời Hai Bà Trưng (40- 43) đến 32 năm. Nhưng
qua đó vẫn chưa xác định được
người dưới mồ là người bản
xứ, v́ rất có thể họ là dân tộc khác
sang nước ta rồi sau khi chết được
mai táng tại đó. Măi về sau, khi khai quật
được nhà bằng gỗ và tre đă hoá
thạch, các nhà nghiên cứu khảo cổ đưa
ra được một kết luận quan trọng.
Nhà ấy có lối kiến trúc giống như h́nh nhà
khắc trên trống đồng trong cổ mộ.
Bấy giờ mới chắc chắn được là
người có trống chôn theo là người bản
xứ. Hợp kim của trống khai quật được
phân chất và kết quả đưa ra đó là
hợp kim đặc biệt, khác hẳn với
hợp kim của Tàu, Ấn Độ hay của Tây phương
thời đó. Các nhà bác học gọi người
trong mộ táng được khai quật thuộc
chủng tộc Indone'sien. Indone'sien, thuật ngữ
của ngành Chủng Tộc học có nghĩa là
Cổ Mă Lai, chứ không thuần nghĩa thông thường
được chú giải trong các tự điển
ngôn ngữ hiện nay là người dân của
xứ Nam Dương quần đảo. Mặc dù các
dân tộc Nam Dương, Mă Lai Á đều từ
gốc chủng tộc Cổ Mă Lai mà ra nhưng đă
không c̣n thuần giống.
Chủng Cổ Mă Lai phát tích từ Tây Tạng, hay nói
rơ hơn là tại chân cao nguyên Tây Tạng, vùng đất
quanh chân núi Himalaya (Hi-Malaya có nghĩa là núi của người
Malaya).
Từ 6000 năm trở về xưa hơn, dân Cổ
Mă Lai từ quanh cao nguyên Tây Tạng xuống chiếm
đất Ấn Độ, đẩy lui thổ dân kém
cỏi nơi đó lên vùng đồi núi và hợp
chủng với chủng tộc Melane'sien đă có
mặt từ lâu trên đất Ấn (Chủng
Melane'sien chẳng những là thổ trước trên
đất Ấn mà c̣n t́m thấy di tích ở
khắp đất Trung Hoa và Đông Nam Á). Nền văn
minh của họ tồn tại được một
ngàn năm th́ bị dân Aryen xâm lăng đánh đuổi.
V́ vậy, một mặt giống dân Indone'sien di cư
về hướng Nam, đến bán đảo Mă Lai
Á, sang Nam Dương quần đảo, rồi từ
đó sang Madagascar đến tận Phi Luật Tân.
Mặt khác họ di dân sang Đông Ấn, rồi từ
Đông Ấn họ đi sang Hoa Nam (Trung Hoa), hoặc
đi bằng đường biển sang Đông Pháp
(danh từ cổ chỉ các nước Cổ Việt
Nam, Ai-Lao, Cao Miên).
Vào khoảng 2500 năm sau, dân từ các vùng đất
quanh núi Hy Mă Lạp Sơn (Himalaya) dưới sự
thống lănh của Xy Vưu tới Hoa Bắc (Trung
Hoa). Nhóm dân này được gọi là Cửu Lê
gồm 9 nhóm, làm bá chủ Hoa Bắc không được
bao lâu th́ bị người Tàu từ Tây Bắc dưới
quyền của Hiên Viên xâm nhập. Dân Cửu Lê thua
và bị đánh đuổi, chia làm hai: chi Âu và chi
Lạc. Toàn thể chi Âu vượt Hoàng Hà để
nam thiên, c̣n chi Lạc th́ lại chia hai, một số
cũng vượt Hoàng Hà, số kia theo đường
biển sang Đại Hàn, Nhựt Bổn, Đài Loan và Đông
Nam Á. Rời đồng bằng Hoa Bắc th́ dân chi
Âu chiếm địa bàn núi rừng ở Hoa Nam , c̣n
dân chi Lạc th́ chiếm địa bàn sông ng̣i
ở Hoa Nam và ở các vùng đất mới. Nơi
đây, họ đă gặp các dân thổ trước
nhưng đồng chủng cho nên đă sống chung
ḥa không gây chiến tranh lấn đất. Người
Tàu dùng danh từ Việt để chỉ bất
kỳ thổ dân nào từ sông Dương Tử
đổ xuống, tức nhiều nhóm dân gốc
Cổ Mă Lai nhưng khác chi. Theo sử Tàu th́ có ba nhóm
Lạc: Lạc bộ Trăi bị gọi là rợ Đông
Di, có địa bàn ở sông Bộc, tỉnh Sơn
Đông lên đến Hà Bắc; Lạc bộ Chuy bị
gọi là rợ Khuyển Nhung, có địa bàn vùng sông
Lạc (Thiểm Tây Ba Thục, ngày nay con sông Lạc này
được đổi viết thành bộ
Thủy); và Lạc bộ Mă, bị gọi là rợ
Nam Man chỉ dân Việt ở Hoa Nam. Về phía Nam,
đất Ngũ Lĩnh là địa bàn của các
quốc gia Bách Việt trong đó có Đông Âu, Mân
Việt và Tây Âu nhưng không có Cổ Việt.
Mặc dù về mặt chủng học tộc, ta
thuộc về Bách Việt nhưng không phải là dân
của ba nước kể trên. Trong ba nước này,
Tây Âu là một quốc gia cường mạnh
nhất, gồm ba quận Nam Hải (Quăng Đông),
Quế Lâm (Quăng Tây) và Tượng Quận (phần
đất giữa Quăng Tây và Vân Nam). Theo bức dư
đồ ngôn ngữ Ethnolinguistico Groups of Mainland
Southeast Asia do Human Relations Area Files Yale University xuất
bản th́ Tây Âu là địa bàn của người
Thái, một dân tộc thuộc chủng Mă Lai mà người
Tàu xưa gọi là dân Âu. Thái là một danh tự xưng
của họ khi bị Hoa tộc lấn đất
dữ dội. Nhà Tần tiêu diệt cả ba quốc
gia Bách Việt này và họ lại phải nam thiên
xuống thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày
nay. Thái có nghĩa là '' tự do, thoái khỏí'. Trước
đó họ xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Tiếng Quan
thoại phiên âm danh tự đó cũng là Ngê-U. Duy
chỉ các nhà nho đọc sai ra là Âu, chứ người
Mường họ vẫn đọc đúng là Ngu. Người
Thái ở miền thượng du Bắc Việt ngày
nay đă khác hẳn với người Thái Lan, v́ ngưởi
Thái Lan đến bờ biển lập quốc cả
hàng trăm năm và theo văn hóa của Ấn Độ
và Phật giáo. C̣n người Thái thượng du
Bắc Việt c̣n giữ nguyên văn minh cổ
thời của họ. Theo như trên th́ truyền
thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân rất tương
đồng với bối cảnh lịch sử
của dân Cửu Lê, khi bị Hiên Viên xâm lăng th́
phải chia hai, chi Âu chiếm địa bàn núi
rừng (Âu Cơ là Tiên đem con lên núi) và chi
Lạc chiếm địa bàn sông ng̣i, ven biển
(Lạc Long Quân đem con xuống biển). Cả ba
Lạc này đều có mặt tại Cổ Việt
Nam nên ngôn ngữ của ta mới hỗn hợp
tiếng Mă Lai nhiều đợt. Địa bàn phương
đông của chủng dân Cổ Mă Lai bị dân Tàu
lấn đất, họ đành phải nam thiên.
Tới vùng đất mới, họ lại bị Tàu
xâm lăng lần nữa, chẳng hạn như ở
Cổ Việt bị nhà Hán chinh phục. Lần
bị chiếm đất này, họ không c̣n đất
lánh thân, nên một số ở lại chịu văn
hóa Tàu, c̣n một số khác rút lên rừng núi,
rồi v́ khí hậu và phong thổ không ưu đăi,
thiếu thốn phương tiện canh tân nên nhóm người
này bị thái hóa. Do đó người Thượng
trên cao nguyên vẫn c̣n giữ nhiều phong tục văn
hóa của chủng Cổ Mă Lai hơn dân ta, kẻ
ở lại đồng bằng đă khác xa, nhất
là khi bị ảnh hưởng văn hóa mới và
hợp chủng với dân xâm lược.
Sau đây là
những dấu vết Mă Lai c̣n sót lại trong xă
hội Việt Nam ngày nay:
1. Trống Đồng:
Dân ta vẫn duy tŕ phong tục của Lạc Việt,
như tả nhậm, xâm ḿnh, nhuộm răng, búi tóc,
chít khăn, tục thờ thần Âm Dương
Vật và cả tục thờ Thần Trống Đồng.
Sau thời gian dài nghiên cứu về thời đại
đồng thau xưa ở Bắc phần Việt nam
các nhà khảo cổ cho thấy rằng người
Việt Nam thời xưa đă đạt được
một tŕnh độ luyện kim và chế tác kim
loại khá cao để đúc được
nhiều loại trống đồng. Do số lượng
trống đồng t́m thấy được tại
miền Bắc Việt Nam quá nhiều và đủ
loại cho nên các nhà khảo cổ đă nghĩ
rằng Việt nam phải là quê hương của
trống đồng. Tuy rằng cũng có t́m
được một vài trống đồng rải
rác tại vài nước Đông Nam Á hoặc vùng Nam
Trung Hoa giáp ranh giới Việt Nam nhưng số lượng
ít ỏi và kém mỹ thuật, nhất là các tầm
vật này nằm trên những lộ tŕnh xuyên biên
giới Việt-Hoa, nên đă làm các nhà khảo
cổ nghĩ rằng đó có thể là những
trống thâu lượm từ Việt Nam đem
về.
Trong sách Đại Nam Nhất Thống Chí(15) ghi: "Núi
Đồng Cổ: có tên nữa là núi Khả Lao ở cách
huyện Yên Định 16 dặm về phía tây .... Phía
tả núi có đền thần, trong đền có
một cái trống bằng đồng, nặng
chừng 100 cân, đường kính phỏng 2 thước
một tấc, chiều cao phỏng 1 thước 5
tấc, một mặt trống rỗng, một mặt
có chín ṿng tṛn, ở giữa mặt trống có
rốn tṛn, chung quanh lưng trống là h́nh hồi văn
chữ 'vạn', bên cạnh có văn chữ như h́nh
văn tự khoa đẩu. Tương truyền cái
trống này chế từ đời Hùng Vương.
"
Trong tác phẩm Kiến văn Tiểu Lục, Lê Quí
Đôn đă viết như sau: "Nước nhà, vua Thái
Tông nhà Lư dựng miếu thờ Thần Đồng
Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành Thọ.
Hằng năm cứ đến ngày mồng bốn tháng
tư lập một đàn ở trước miếu
này, rồi dàn binh lính, đọc lời thề để
quần thần cùng thề... ".
Nhiều thư tịch Trung Hoa xưa cũng có nói
đến trống đồng có nguồn gốc
ở Việt Nam như: (16)
Sách Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Lă Hương
Lân ghi: "Thời cổ, văn hoá Việt rất
đáng được lưu ư là sự chế
tạo trống đồng và cách sử dụng.
Trống đồng Lạc Việt rất nổi
tiếng nên thường được gọi là
Lạc Việt đồng cổ.
Sách Hậu Hán Thư quyển 54 thời Hậu Hán có
ghi ở mục Mă Viện:
"Mă Viện thích cưỡi ngựa. Lúc sang đánh
Giao Chỉ, ra lệnh tịch thâu trống đồng
để đúc ngựa kiểu."
Sách Chu Phiên Chí, Triệu Như Quát cũng có kể
về Mă Viện như trên.
Sách Lĩnh Ngoại Đai Đáp, Chu Khứ Phi, một
học giả đời Tống, có thừa nhận
rằng trống đồng không thuộc về văn
hóa Hán.
Trong các sách Quảng Châu Kư, Tán Thư Trấn
Thủ, Thủy Kinh Chú, Linh Biểu Lục Di đều
có ghi: "Man, Di là chủ nhân của trống đồng
Lạc Việt."
Ông V. Goloubew đă kể lại trong tập kỷ
yếu B.E.F.E.O vol XXXIII, năm 1933 như sau: "Làng
An-Nê, huyện An Định, tỉnh Thanh Hóa, là một vùng
hoàn toàn Việt Nam, và gần đó không có dân Mường.
Trong đền thờ trên đường Phủ Quăng,
gần bến đ̣ An Định đưa sang sông Mă,
có trống đồng cùng loại với trống
đồng Hoà B́nh để ở Bảo tàng
viện Hà Nội. Mặt trống rộng 0,85 và cao
0,58th. Trống này chỉ để thờ chứ không
được đánh, bằng vào lớp bụi dày
trên mặt trống..."
Ông R. Mercier th́ đối chiếu cách chế tạo
trống đồng của dân Đông Sơn với cách
chế tạo đồng đồng của dân
Việt Nam ngày nay ở Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc
Ninh, Hà Đông, Nam Định và thấy cả hai dân
tộc đều dùng kỹ thuật và dụng
cụ thô sơ y như nhau. Ông nghiên cứu chiếc
trống lớn nhất ở bảo tàng viện L.
Finot. Đó là một cái trống đúc nguyên khối,
không có ráp mối. Bên hông trống đếm
được cả thảy 280 vết đen h́nh vuông,
một phân tây mỗi cạnh. Nhờ đó ông khám
phá được kỹ thuật đúc trống
thợ Đông Sơn xa xưa. Họ làm hai cái khuôn,
một lớn một nhỏ, cái nhỏ nằm trong cái
lớn, hai cái cách nhau khoảng 1/2 một phân tây,
khoảng trống ấy được chêm bằng các
khúc gỗ. Khi đổ đồng pha vào khoảng
trống ấy, gỗ chêm bị cháy và để
lại dấu vết bên hông trống. Ông Mercier nói
rằng chỉ có dân Việt Nam các tỉnh cao nguyên
mới đúc bằng kỹ thuật và dụng
cụ thô sơ như thế mà thôi.
Về vấn đề vật tổ biểu tượng
của dân Việt là chim Lạc (theo ông Đào Duy Anh
đưa ra) th́ ông B́nh Nguyên Lộc không đồng
ư, v́ chữ Lạc được viết với
dạng bộ Trăi, bộ Chuy và bộ Mă chứ không
hề viết theo dạng bộ Điểu, chỉ loài
chim. Theo ông th́ vật tổ biểu tượng
của dân ta ngàn xưa là cây cau, nai, mặt trời,
giao long bằng cứ vào những h́nh chạm khắc
trong các đền đài chùa chiền, trên các cổ
vật Đông Sơn, phong tục, cổ tích vv... Danh
hiệu Văn Lang cũng từ đó mà ra, có nghĩa
là một loại cau có sọc trắng, chứ không
thuần nghĩa là người con trai xâm ḿnh.
2. Kiến trúc:
Ngôi nhà cổ Việt độc nhất, do ông Pajot nhân
viên của viện Viễn Đông Bác Cổ t́m
được tại bờ sông Mă năm 1927, nhưng
măi đến 17 tháng Giêng 1938, nhà khảo cổ V.
Goboulew mới báo cáo trong một buổi thuyết tŕnh.
Có sự chậm trễ đó cũng bởi v́ ông
gặp khó khăn trong việc định tuổi cho các
vật liệu dùng làm căn nhà. Và căn nhà đó
được định cùng tuổi với ngôi
mộ cổ đă khai quật.
Đó là một nhà sàn có cột cái cao 4,50 thước,
sàn cao 1 thước. Mái nhà dài xuống tới sàn, và
v́ thế mà cửa phải trổ ra ở góc
hồi. Sàn bằng tre sặt, một loại tre
giống tầm vong ở miền Nam. Sườn nhà không
có trính ( loại sườn nhà mà miền Nam gọi
là nọc ngựa, miền Trung gọi là nhà chữ Đinh).
H́nh dáng ngôi nhà này giống nhà khắc trên trống
đồng có mái cong quớt lên và đó là lối
kiến trúc của tất cả các nhóm dân Cổ Mă
Lai và Kim Mă Lai.
Ngày nay nông dân ở nhiều đảo Nam Dương
vẫn c̣n cất nhà như vậy, và người Chàm,
cũng gốc Mă Lai, giữ lối kiến trúc đó
cả đến trong những xây cất bằng
gạch. Loại nhà đó người Chàm gọi là
nhà Thang-giơ. Danh từ Thang-giơ do tiếng Mă Lai
Nam Dương Tanga mà ra, có nghĩa là cái thang. Dân
Việt gọi đó là nhà sàn.
3. Tín ngưỡng
Có rất nhiều nhóm Mă Lai thờ mặt trời
hoặc ông trời. Ngay cả Mă Lai Nhật Bản cũng
thờ nữ thần Thái Dương. Tất cả
đều ăn khớp với h́nh trên mặt
trống đồng. Tục thờ dương vật
và âm vật của chủng Mă Lai vẫn c̣n tồn
tại ở vài làng Bắc Việt (báo Ngày Nay, tác
phẩm của Toan Ánh và Lê Quang Nghiêm). Tôn giáo ấy
chẳng những được thấy ở Bắc
Việt mà c̣n có cả ở Trung Việt. Ngay cả bên
Nhật ngày nay vẫn c̣n giữ tín ngưỡng này.
4. Đối
chiếu chỉ số sọ
Dựa theo chỉ số sọ rút từ quyển État
actuel de la crânologie indochinoise của các bác sĩ P.
Huard, F. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Đức
- Hà Nội 1938 - th́ các dân tộc gốc Mă Lai đều
có chỉ số sọ trên 80, như Mă Lai, Thái,
BắcViệt, Cao Miên và Đại Hàn, ngoại trừ
Nhật Bản, Mường và người Thục.
Chỉ số sọ của người Tàu th́ luôn luôn
dưới 80.
Người Nhật có chỉ số sọ thấp
nhất trong các nhóm Mă Lai Bách Việt chỉ v́
họ bị lai giống với Tàu quá nhiều.
Người Mường mặc dù họ là Cổ Mă
Lai như tất cả các phụ nữ và bần dân
lại thuộc chủng Melanesien, chỉ trừ các
đàn ông cấp lănh đạo, do đó chỉ
số sọ trung b́nh của họ không giống
chỉ số sọ trung b́nh của người
Bắc Việt Nam.
Người Thục có chỉ số sọ rất
giống chỉ số sọ Trung Hoa, mặc dù họ
thuộc chủng Thái. Cũng chỉ v́ họ đă
lai giống với Tàu trên cả hai ngàn năm
rồi.
Chỉ số sọ của người Việt
miền Nam thấp hơn chỉ số sọ của
người Việt miền Bắc, chứng tỏ
rằng người Việt miền Nam lai Tàu nhiều
hơn người Việt miền Bắc.
5. Ngôn ngữ
tỷ hiệu
Theo ông B́nh Nguyên Lộc th́ một số danh từ Mă
Lai trong ngôn ngữ Việt không phải là vay mượn
hiển nhiên của các dân tộc khác như Chàm, Miên,
Mường, Thái mà do từ gốc Cổ Mă Lai mà ra.
Ông thẳng thừng bài bác lập luận cho là
tiếng Việt là tiếng Tàu của sử gia
Nguyễn Phương. Trong quyển Việt Nam Thời
Khai Sinh, trang 230, sử gia Nguyễn Phương
viết: "Hầu như có thể nói được
rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau 10 thế kỷ
độc lập, vẫn c̣n chính là tiếng Tàu, nhưng
chỉ đọc lên một cách hơi khác với cách
đọc của những tiếng địa phương
ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ,
đôi khi có xen vào đôi số những tiếng không
phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm,
những hiện tượng đó không nói lên ǵ khác
ngoài sự người Việt Nam trên đường
bành trướng, đă có gặp người Mọi
người Chàm, cũng một cách như họ đă
gặp người Pháp trong thế kỷ qua và họ
đă thâu nhận một số tiếng Pháp trong kho
ngôn ngữ của họ".
Nhưng theo ông B́nh Nguyên Lộc th́ nếu đă
phải vay mượn của Tàu th́ tựu chung ta
chỉ vay mượn những tiếng chỉ
những ư niệm phức tạp, những dụng
cụ lạ, vật dụng lạ. Như danh từ nước
là một danh từ tối quan trọng để
chỉ chất mà ta dùng hàng ngày để sống
đă được sử dụng để gọi
từ ngàn xưa, vậy th́ sao ta không dùng chữ
thủy của Tàu.
Vả lại với thiên kiến của một nước
luôn tự hào là văn minh và xem cái ǵ của họ
đều hơn của Man di cả, nhất là
vấn đề ngôn ngữ, th́ tất nhiên những
danh từ như Lá, Trăng, Ngựa, Cḥi, Túp, Cơm,
Trâu, Cá, Bông, Chim, Vua, Cây dừa vv... ta phải
nhất nhất dùng chữ Tàu, không nên vay mượn
chữ của Mọi làm chi. Do đó chỉ có
một cách trả lời là nó xảy ra thời thượng
cổ, lúc hai dân tộc c̣n là một, tức ta
với họ đồng chủng với nhau.
Điều này ông đă chứng minh khi đối
chiếu các danh từ Việt với các dân tộc
chủng Cổ Mă Lai, nếu ta không giống Chàm th́ cũng
giống Khơ Me, không giống Khơ Me th́ cũng Thái,
không giống Thái th́ cũng giống người Thượng.
Tóm lại danh từ Việt thế nào cũng
giống danh từ của nhóm dân cùng chủng Cổ
Mă Lai nào đó.
Sau đây là một số bản đối chiếu
ngôn ngữ rút ra tưø quyển NGMLCDTVN của ông:
Việt Nam : Cá
Sơ Đăng : Kaa
Mạ : Ká
Chàm : Kán
Mă Lai : Aka
Việt Nam : Cột
Sơ Đăng : Kơt
Bà Na : Kơơt
Chàm : Kaat
Mă Lai : Ikaat
Việt Nam : Mắt
Sơ Đăng : Mat
Mạ : Maht
Chàm : Kán
Mă Lai : Mata
Việt Nam : Mặt trăng
Bà Na : Mạt tlăng
Mạ : Maht kăn
Chàm : Blaăng
Mă Lai : Bulăng
Việt Nam : Sông
Chàm : Krong
Mường : Không
Bà Na : Krông
Mă Lai : Sôngai
Việt Nam : Trái (blái)
Mường : Blái
Bà Na : Plây
Sơ Đăng : Plây
Thai : Pho la
Việt Nam : Cháu
Bà Na : Sạ
Mạ : Sáu
Mường : Cau
Mă Lai : Chu
Việt Nam : Chim
Sơ Đăng : Chim
Mường : Chim
Bà Na : Sêêm
Kha?La'Vàng : Tiêm
Việt Nam : Con (cái)
Mường : Kon
Bà Na : Koon
Sơ Đăng : Kooon
Cao Miên : Kôn
Việt Nam : Con (vật)
Bà Na : Ko
Mạ : Ko
Cao Miên : Ko
Mường : Ko
Việt Nam : Ngày
Cao Miên : Thngay
Mường : Ngai
Sơ Đăng : Haai
Môn : Tngay
Việt Nam : Con ruồi
Mạ : Ko Rhai
Bà Na : Ko Rooi
Mường : Ko Ruuêi
Cao Miên : Ko Ruy
Ngoài ra, ông cũng khám phá ra khá nhiều điều lư
thú trong ngôn ngữ như:
Người Mường có danh từ Khai để
chỉ con chó, đồng thời lại có nghĩa là
con cọp. Theo cố đạo L. Cadière th́ tiếng
Việt xưa cũng gọi con chó là Khai, h́nh
thức cổ sơ của danh từ con Cầy. Danh
từ Bố Cái Đại Vương, Cái là danh từ
Mă Lai, có nghĩa là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ
lănh. Hiện nay Mă Lai vẫn c̣n có danh từ Ibu La'ki,
đúng nghĩa Bố Cái, v́ Ibu=bố, La'ki=Cái, Ibu
La'ki có nghĩa là nhà lănh đạo.
Danh từ La'ki của Mă Lai biến thành Ĺcáy của
Chàm và Cái của Việt. Danh từ riêng của
miền Nam "người lại cái", có nghĩa
là bán nam bán nữ, chắc chắn là do danh từ Chàm
mà ra, đó là "Càmay lagi ĺcáy" dịch ra là
"đàn bà lại c̣n đàn ông". Ta nuốt
mất chữ Càmay lagi, chỉ c̣n Ĺcáy biến thành
Lại Cái. Hiện nay người miền Nam vẫn
thường nói sai là "đàn ông lại cái",
chỉ v́ họ không rơ căn nguyên và lại
hiểu sai chữ Cái là Đàn bà. Ngay cả danh từ
Thợ Cái, Sông Cái, hoặc trong lúc chơi bài bị
bắt làm Cái cũng đồng nghĩa nêu trên.
Người Việt miền Nam thường dùng
chữ Tía để chỉ người cha. Đó là danh
từ Tia của dân Thất Mân, Mă Lai đợt II. Các
đảo Mă Lai đều nói là Tưa, có nghĩa là
cha vợ, chứ không phải là Cha như người
Việt miền Nam đă dùng sai.
6. Đồng bào
Mường
Gọi là đồng bào, bởi v́ theo ông B́nh Nguyên
Lộc rằng khoa học đă nh́n nhận rằng dân
tộc Mường là Indonesien (Cổ Mă Lai) từ hơn
thế kỷ nay, và ông đă chứng minh là dân ta cũng
là gốc Mă Lai th́ họ và ta là đồng bào
rồi vậy.
Để viết về dân Mường, ông đă
chọn tài liệu chủ lực cho sự nghiên
cứu của ông, một cuốn sách mà ông thấy là
đầy đủ nhất về dân tộc này,
đó là quyển Les Mường, Géographie humaine et
Sociologie của cô Jeanne Cuisinier do Viện Dân Tộc
Học, Bảo Tàng Viện về Con Người
xuất bản tại Paris năm 1946.
Như trong phần đo chỉ số của các
giống tộc ở trên, người Mường không
thuộc chủng Mă Lai mà lại thuộc chủng Thái,
trong khi họ có ngôn ngữ rất gần với ta. Cô
J. Cuisinier cho biết rằng quí tộc Mường,
gia đ́nh và họ hàng của các quan Lang, các thổ
đạo, các hương chức hội tề th́
xinh đẹp như người Việt. C̣n bần dân
và tất cả phụ nữ, kể cả phụ
nữ thuộc hàng quí phái cũng bé choắt và
xấu xí.
Ông B́nh Nguyên Lộc giải thích rằng người
Mường là quí tộc Lạc Việt từ Hoa Nam
nam thiên cho nên không mang đàn bà theo kịp, họ
đến đây hợp chủng với dân Melane'siens
da đen xấu xí và lănh đạo dân Melane'sien cho
đến ngày nay. Vào thời thượng cổ, khi
mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra th́ đa
số phụ nữ bị bỏ rơi, hoặc
yếu sức chết dọc đường. Cho nên
khi đến địa bàn định cư, đàn
ông goá vợ hay thanh niên th́ lấy dân thổ trước
làm vợ. Chính v́ thế mà phụ nữ của
họ mới không đồng chủng với họ.
Xét về ngôn ngữ th́ văn phạm của hai dân
tộc Mường và Việt giống hệt nhau:
Tiếng
Việt Tiếng Mường
Ba hồn bảy vía con đùa (con trai), con gái, đâu
đi về cùng bố, cùng mẹ, ăn cơm, ăn
cá
Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô,
kung mè, ăn kơm ăn ka
Bố ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân ḿnh
ăn đâu ở đâu bố ơi
Pô ơi keát bô ta la no p̣, thân ḥ ăn no ở no pô
ơi!
Ăn ra khói nói ra lửa
Ăn za khuê nói za lửa
Để cho quỉ xa ma sợ
Tê co kwi sa ma đượi
Vía lúa ơi, về đụn về nhà mà ở
Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!
Cơm như vàng ṛng
Kơm như yang rong
Danh từ Vua, th́ họ nói là Bua. Trời, th́
họ nói là Blời. Các cố đạo ngày xưa
tại Việt Nam cũng viết là Bua, Blời, không
phải v́ các ông không biết âm Tr, mà bởi v́
thuở đó ta cũng giống dân Mường đều
không có âm Tr. Trái cây họ đọc là Tlai kây, Trái
ngang họ nói là Plái ngang, Trâu họ kêu là Tlu vv...
Ngoài ra, trên mặt các trống đồng khai
quật có khắc bộ h́nh một số người
cầm gậy thọc xuống một vật mà đa
số các nhà bác học Âu Châu cho rằng đó là
động tác giă gạo. Nhưng nhà khảo cổ Lê
Văn Lan đă lên xứ Mường và đă
thấy người Mường ngày nay vẫn c̣n
đánh trống như vậy, tức dùng gậy
thọc xuống mặt trống.
Cô J. cuisinier c̣n viết rằng cô đă thấy toàn
thể người Mường nhuộm răng đen,
một số xâm ḿnh, toàn thể ăn trầu,
họ có đồng bóng và có sử dụng trống
đồng loại lớn. Loại trống này
chỉ có các quan Lang mới có và số tia của ngôi
sao trên mặt trống càng nhiều th́ tỏ rơ
thế lực của ông quan Lang ấy, thông thường
chỉ có 7,8 tia mà thôi.
Nói tóm lại, những giả thuyết, những lư
luận mà các nhà ngữ học, bác học, sử
học, nhân chủng học ngoại quốc cũng như
người Việt nêu trên đă cho ta nhiều điều
lư thú về nguồn gốc dân tộc cũng như
nguồn gốc tiếng Việt. Qua đó, quí vị
có thể tự suy ra kết luận hay ít nhiều cũng
tạo hứng khởi trong việc t́m về nguồn
cội văn hóa nước ta.
Tĩnh Túc
thanh.nguyen@student.uni-ulm.de
Chú thích:
(1) Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca, Lê Ngô Cát và
Phạm Đ́nh Toái, tr.48
(2) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim,
tr. 11-12, Anh hùng nước tôi, MTQGTNGPVN, tr. 43
(3) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 36
(4) Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 146 - 147
(5) Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim,
tr. 5
(6) Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Đào Duy Anh,
1950.
(7) Tầm Nguyên Tự Điển, Lê Ngọc Trụ, tr.
11
(8) Nam Phong, số 110, tháng 10 năm 1926
(9) Tầm Nguyên Tự Điển VN, tr. 12
(10) Chánh tả Việt Ngữ, tr. 19
(11) Việt Nam Tinh Hoa, tr. 100-101, tr. 155-158
(12) Mượn của A. Chéon trong Note linguistique sur les
Muong, BEFFEO, T5, tr, 338-339
(13) Tầm Nguyên Tự Điển, Lê Ngọc Trụ, tr.
13
(14) Nguồn Gốc Mă Lai Của Dân Tộc Việt Nam
- Xuân Thu xuất bản
(15) Đại Nam Nhất Thống Chí - Quốc Sứ Quán
Triều Nguyễn, quyển 2, tr. 255, 288
(16) Mượn của Phan Hưng nhơn, Diễn Đàn
Phụ Nữ 183 - 1999, trong bài "Nh́n lại nền
văn hoá Đông Sơn để nhó lại nguồn
gốc của Trống Đồng".
|