|
Có một câu nói đùa độc địa:
"Nữ văn sĩ làm hai điều tội
lỗi cùng một lúc: làm tăng số lượng
giấy vụn và làm giảm số lượng
phụ nữ trên trái đất". Nói như
thế thật không công bằng, bởi v́ không ǵ cao
quí bằng và cũng không ǵ cực khổ bằng làm
người phụ nữ. Hay như họ hay than
thở: làm người phụ nữ đă khổ, làm
người phụ nữ Việt Nam c̣n khổ hơn,
c̣n làm nữ văn sĩ Việt Nam th́, than ôi...
Ấy vậy mà, mấy năm gần đây, chúng ta
đă chứng kiến sự bùng nổ của số
lượng các nhà văn nữ Việt Nam. Bảo
họ nhiều như nấm sau mưa th́ có lẽ hơi
quá đáng, nhưng quả thực ngó trước ngó
sau chỉ thấy những "thị", những
"chim cá lá hoa" chen vai thích cánh nhau trên giá
của các hiệu sách, đến nỗi đôi lúc
chúng ta phải tự hỏi: đàn ông nước
Nam dạo này đi đâu cả?
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Thị ấm,
Phan Thị Vàng Anh, Vơ Thị Hảo, Trần Thị Trường,
Nguyễn Thị Châu Giang... nếu chúng ta muốn, danh
sách các nhà văn nữ c̣n có thể kéo dài sang
cả trang sau. Đă qua rồi cái thời mà Bà
Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm hay Hồ
Xuân Hương phải cố gắng lắm mới
chen chân vào được với mười thế
kỷ đàn ông thống trị văn đàn.
Chẳng bao lâu nữa, ngoài cái Bộ phụ nữ mà
người ta mới đề nghị cho thành
lập, Hội nhà văn có lẽ cũng nên để
cho phái đẹp lănh đạo th́ đúng hơn.
Để lư giải hiện tượng này, có
lẽ phải viện đến câu nói thời thượng
đang chạy lem lém trên đầu lưỡi
của tất cả mọi người dân nước
Việt, từ bác đạp xích lô gầy g̣ đen
đủi cho tới ông quan chức nhà nước
bụng phệ xách cặp da ngoại: thời buổi
kinh tế thị trường mà lại! Cái kinh
tế thị trường chết tiệt ấy không
chỉ đào sâu hố phân cách giàu nghèo, nó c̣n giúp
cho một nửa hơn nửa kém của nhân loại
ư thức được khả năng có được
tự do và những ǵ mà tự do có thể mang đến
cho họ.Và thế là họ quyết không nhường
bước cho phái mạnh trên bất kỳ địa
hạt nào nữa.
Những nhà văn nữ đă mang lại ǵ cho công
chúng? Các nhà phê b́nh đáng kính của chúng ta luôn luôn
có sẵn câu trả lời muôn thủa cho câu hỏi
ấy: họ đă mang đến một làn gió
mới, một diện mạo mới, một phong cách
mới cho văn học nước nhà. Rất
nhiều cái mới. Họ đă lặp lại câu nói
đó cả ngàn lần, thêm lần một ngàn
lẻ một cũng không có ǵ khó khăn cả.
Nhưng thật ra, những nhà văn nữ Việt
Nam, theo tôi, có lẽ chẳng mang đến cái ǵ
mới bởi c̣n lâu họ mới tự đổi
mới được...
Phụ nữ Việt Nam, cũng giống như
phụ nữ trên toàn trái đất, không thể
sống thiếu các thần tượng của ḿnh
(không phải ngẫu nhiên mà thành viên các fan - club
chủ yếu là các cô gái). Họ luôn phải
dựa dẫm vào h́nh ảnh một người đàn
ông lư tưởng nào đó. Các cô gái thế hệ
những năm sáu mươi luôn kè kè theo người
"Ruồi Trâu" hay "Thép đă tôi thế
đấy". Hành trang của những năm bảy
mươi - tám mươi lại là Rochester. C̣n ngày
nay, chúng ta đang chứng kiến sự lên ngôi
của Redd Buttler,"Người lữ hành kỳ
dị" hay cha Ran của "Tiếng chim hót trong
bụi mận gai."
Tất nhiên, cánh đàn ông chúng ta cũng thấy
tủi thân v́ chẳng có ai trong số họ là người
Việt. ở đây, tâm lư sùng ngoại chỉ là
thứ yếu, cái chính là văn học Việt Nam chưa
tạo ra được khuôn mặt đàn ông nào
khả dĩ cho các thiếu nữ của ta thờ
phụng. Bởi thế, khi bắt buộc phải miêu
tả, họ đành tự khái quát lấy trong
những từ rất chung để mô tả người
đàn ông của cuộc đời họ: đẹp
trai, trầm tĩnh, thông minh, có đôi mắt
buồn, tâm hồn độ lượng...vv và vv...
Thủa ban đầu, những nhà văn tương
lai, những ngôi sao sáng của các cuộc thi Tác
phẩm tuổi xanh dành hết tâm lực cho việc
giăi bày những giấc mơ ngọt ngào, những
mối t́nh tưởng tượng lên trang giấy. Hăy
nghe Phạm Thị Hoài mô tả một trong số
họ: "Nó viết những bài thơ giống như
của các thi sĩ nổi tiếng phương đông,
những người chỉ ưu tiêu diêu du, thơ nó
có nước sông Hoàng tuôn từng ḍng lớn từ
trời xuống, có núi Thiên Mụ, có bến Tầm
Dương, có những tâm sự đột ngột
xuống hàng. Ngoài ra, nó măi hỏi đáp về t́nh
yêu, rất là hoàn cảnh, loại t́nh yêu dẫn
tất cả chúng ta đến chỗ tuyệt
chủng, không sinh con đẻ cái ǵ được mà
chỉ c̣n rặt những trái tim đầy thương
tích khẽ chạm vào nhau một cái là rên dài,
trọn đời đồng trinh và rất thánh"
("Những con búp bê của bà cụ"). H́nh
ảnh cải lương về những cô gái "nhón
chân trên đôi giày giấy thiếu nữ đi vào Vườn
Yêu" (Vườn Yêu - Vơ Thị Hảo) rồi bàn
tán dông dài "về t́nh yêu là cái nó chưa hề
nhấp thử một giọt" là h́nh ảnh tiêu
biểu nhất trong các sáng tác của họ.
Những tác phẩm măi măi đầu tay ấy
rất ưa làm đỏm và uốn éo. "Tôi
nặng nhọc bay bằng đôi cánh của ḿnh... cánh
làm bằng tă của trẻ ăn mày sơ sinh. Bay lên.
Và bay cao trong đêm Giáng sinh. Bởi v́ Chúa tái sinh
trong một đêm như đêm nay..." (Vơ Thị
Hảo - Giọt buồn Giáng sinh).Thê thảm chưa!
Xứng đáng là một Cô bé bán diêm mới,
một Oliver Twist mới! Hỡi ôi, nó măi măi là
một truyện ngắn bịa rất dở,
khiến người đọc cười phá lên v́
sự ngớ ngẩn của nó thay v́ bùi ngùi nhỏ
lệ.
Nhu cầu tin vào những điều kỳ diệu
của cuộc sống sẽ măi măi tồn tại
trong tâm hồn con người, và lời kêu gọi
tha thiết trong vở nhạc kịch về Peter Pan
"các bạn có tin vào những chuyện thần tiên
không, nếu có, hăy vỗ tay" sẽ luôn luôn đón
nhận được sự hưởng ứng
nồng hậu. Thế nhưng, những điều
kỳ diệu vĩ đại đó bao giờ cũng
nằm trong sự giản dị và chân thành của ng̣i
bút. Những cố gắng bóp chặt tâm hồn mong
chảy ra những "giọt buồn" cải lương
như vậy không bao giờ t́m được sự
đồng cảm của bạn đọc.
Đề tài quen thuộc, muôn thủa, và có lẽ
gần như duy nhất của các nhà văn nữ là
t́nh yêu. Mang một khối mơ ước khổng
lồ như vậy trong ḷng nên khi "vấp đời
thường nhật", không chỉ con
"thuyền t́nh" tan vỡ, mà nói chung, ḷng hăng
hái tạo dựng nên những thiên đường t́nh
yêu loè loẹt của họ cũng nguội lạnh
đi ít nhiều. Dù có "hướng nội"
hay "hướng ngoại" th́ họ cũng
bắt gặp sự buồn chán tẻ ngắt
của hiện thực. Chính vào lúc đó, họ tưởng
rằng t́nh dục sẽ trở thành cái phao cứu cánh
cho cảm hứng sáng tạo của họ.
C̣n nhớ, mùa hè năm 1988, Dư Thị Hoàn đă làm
cho cả giới văn học Việt Nam thẹn thùng
sững sờ v́ những vần thơ táo bạo
của ḿnh:
"...Sau phút giây
Êm đềm trên ghế đá
Anh không cài lại khuy áo ngực cho em..."
(Tan vỡ - Lối nhỏ)
Bài thơ ấy đă dấy lên một cơn băo
những lời xỉ vả của những nhà phê b́nh
và những nhà thơ tên tuổi, những người
vốn quen với h́nh ảnh các cô thiếu nữ
Việt Nam e lệ, kín đáo, khép nép. Không thể có
một h́nh ảnh khác! Họ la lối như bị
lấy mất đi một cái ǵ quư báu lắm. Người
phương Đông vốn quen che đậy những
ư nghĩ của ḿnh về "chuyện ấy",
thà cứ lấp lửng như nữ sĩ họ
Hồ, đằng này... Những khao khát thầm kín
ấy, khi được người phụ nữ
thốt ra, hay làm chạm nọc các vị tu mi nam
tử, cứ như là họ có lỗi trong chuyện
để cho phụ nữ có những ư nghĩ vơ
vẩn như vậy trong đầu.
Số phận những đứa con tinh thần
của những nhà văn nữ ngày nay may mắn hơn
nhiều. Những biến đổi của xă hội
và thông tin đă làm cho họ tự tin hơn trong
việc mô tả những dục vọng của con người.
Và họ cũng nghiêm khắc với ḿnh hơn.
Thế nhưng, từ những cô bé tuổi hoa,
chỉ sau có một đêm họ đă trở thành
"những madame tiều tụy thế kỷ 18".
Họ lại quanh đi quẩn lại trong những bi
kịch gia đ́nh cũ rích mà kẻ chịu đựng
bao giờ cũng là một cô bé hay cậu bé nào
đó ("Phù Thủy" của Nguyễn Thị Thu
Huệ chẳng hạn); những mối quan hệ
mẹ chồng - nàng dâu - con trai, những truyện
ngắn thích hợp nhất cho trang hôn nhân gia đ́nh
của báo Phụ nữ hơn là một tác phẩm văn
học. Họ mệt mỏi ngao ngán trong việc
xử lư các xung đột t́nh cảm của
những mối t́nh tay ba không âm sắc, những người
đàn ông hóa ra chẳng bao giờ xứng đáng
với họ. Họ níu kéo lại một cách vô
vọng tuổi trẻ h́nh như không bao giờ
chịu đến mà lại đă trôi qua bằng
những lời khẳng định rỗng tuếch và
lên gân lên cốt, tự đánh lừa ḿnh bằng
ảo tưởng "Phụ nữ của ta luôn luôn
đẹp, họ đẹp ở mọi lứa
tuổi ông ạ. Đàn ông chúng ta không cẩn
thận họ cho ra ŕa cả đấy", kiểu
như Thủy chung - bài ca của đàn bà của
Trần Thị Trường. Một cố gắng
ảo năo - phép thắng lợi tinh thần kiểu A Q
của những người thua cuộc.
T́nh dục, bởi vậy, không mang lại bao nhiêu
sinh khí cho những sáng tác của họ. Bởi v́
rốt cuộc họ không đủ trung thực đến
mức mô tả những ước muốn thực
sự của con người, không đủ nghiêm
khắc với bản thân để dũng cảm
chỉ là ḿnh, và nhất là không có đủ tài năng
để sáng tạo ra những tác phẩm mang đầy
sức sống của bản năng, của tự nhiên,
của t́nh cảm. Họ không thể sáng tạo ra cái
đẹp, v́ cái đẹp đ̣i hỏi sự
giản dị, nó đẹp chỉ v́ bản thân nó
là cái đẹp chứ không bao giờ v́ những nước
sơn tô vẽ trên ḿnh. Nói như Shopenhauer, họ -
những nhà văn tầm thường "đều
cố gắng che đậy bút pháp tự nhiên
của chính ḿnh... bị bắt buộc phải
chấm dứt bất cứ toan tính muốn được
thẳng thắn hay chân thật nào - một đặc
ân chỉ dành cho những tâm hồn siêu đẳng,
ư thức về giá trị của chính ḿnh và do đó
tự tin nơi ḿnh" (Nói về bút pháp).
Thực ra, tất cả những cái đó: sự
thiển cận của tư tưởng, nông cạn
về trí thức, hời hợt trong t́nh cảm đă
trở thành căn bệnh kinh niên không chỉ của
riêng các nhà văn nữ, nó chỉ là một phần
trong cuộc khủng hoảng sâu sắc của văn
học Việt Nam hiện nay. Có điều, bằng
thái độ tự tin một cách khó hiểu,
những nhà văn ấy cứ tiếp tục cho ra
đời những tác phẩm không sức sống,
những mẩu chuyện vụn vặt vô hồn.
Họ đă đẩy sự tầm thường lên
đến độ bất thường.
Những nhà văn, nhà phê b́nh văn học, bạn
đọc thường mong muốn văn học
Việt Nam "cất cánh", hoà nhập và làm phong
phú thêm kho tàng văn hoá của cả nhân loại.
Ước mơ chân chính đó chỉ có thể
thực hiện được nếu những nhà văn
của ta ư thức được hiểm họa
của sự tụt hậu về tri thức văn hoá,
tri thức sống, sức ́ của những thành
kiến và ngộ nhận, và nhất là thói đạo
đức giả đang bao trùm trong toàn bộ ư
thức hệ sáng tạo của các nhà văn.
Chỉ có sự trung thực, trước tiên là trung
thực với bản thân ḿnh, mới cứu rỗi
được nền văn học đang lao
xuống dốc như hiện nay.
Nguyễn Thanh Sơn
Hà Nội 20.9.1995
(Nguyễn Quốc Trụ giới thiệu)
|