|
Phân nửa người Việt Nam, từ Thanh Hóa
trở ra, về phương diện hỏi, ngă, nói và
viết rất đúng, c̣n một phân nửa, từ
Nghệ Tĩnh trở vào, nói không phân biệt hai
thanh này và viết rất lầm. Sự trộn
lộn hai thanh này thành một sẽ là một
việc làm cho tiếng Việt nghèo nàn thêm, và làm cho
lắm câu thành tối nghĩa. Người có ư
thức không ai dám chủ trương một việc
nông nổi như vậy. Mà phân biệt hai thanh, khi nói
và viết, đối với người đàng
trong, là một một vấn đề to: vấn
đề hỏi ngă.
Mấy năm nay, đă có nhiều người nghiên
cứu vấn đề này và đưa ra một
luật, mà chúng tôi xin gọi là luật Nguyễn
Đ́nh, để nhắc nhở người đă nêu
nó ra trước nhất. Cái hay - và cũng là cái
dở - của luật Nguyễn Đ́nh là để
cho người đă khá giỏi tiếng Việt dùng
được mà thôi. Đối với kẻ
thiếu học, th́ công dụng của nó rất ít.
Lại giá trị của luật ấy chỉ ở
trong phạm vi chính tả. Người đàng trong,
dầu cho đă thạo rồi, cũng không sao nói
đúng được.
Muốn giải quyết đến cội rễ
vấn đề này, ta hăy nghĩ xem: tại sao người
đàng ngoài, dầu chẳng biết luật
Nguyễn Đ́nh, vẫn nói đúng và viết đúng
hỏi ngă? Ấy bởi v́ từ thuở mới
học nói, họ đă nghe chung quanh họ, hai thanh này
phân biệt rơ ràng. Vậy phương pháp của âm
học, đối với mỗi người, và áp
dụng cho tất cả, sẽ thành phương pháo
giải quyết được vấn đề đến
triệt để.
Dầu ta có thạo thông lệ này, hay thông lệ
nọ, mà ta nói vẫn sau, th́ trẻ em nghe ta nói sai,
sẽ nói sai, ắt là vấn đề hăy c̣n măi.
Việc đánh dấu đúng, tuy là cần chỉ là
gáo nước để tưới trận lửa
to, làm sao mà trừ đám cháy được? C̣n
nếu ta nhờ các thông lệ làm phương
tiện riêng để phân biệt hỏi, ngă,
hầu nói đúng, th́ thế hệ sau nghe ta nói đúng,
sẽ nói đúng. Rồi ít lâu, ở toàn cơi
Việt Nam, sẽ không c̣n vấn đề nàỵ Chúng
tôi soạn tập sách vấn đề giải
quyết vấn đề hỏi ngă. Khi ai nấy
đă nói đúng và viết đúng cả rồi,
vấn đề sẽ không c̣n, sách sẽ hết
cần, hóa thành vô dụng. Nên ḷng cầu nguyện là
được một ngày gần đây, sách sẽ
không được dùng nữa, và chỉ dành cho
những kẻ khảo cứu tài liệu lịch
sử xem chơi mà thôi.
LÀM SAO BIẾT
ĐƯỢC TIẾNG NÀO HỎI TIẾNG NÀO NGĂ
Phương Pháp Tự Nhiên
Khi ta biết cách nói rồi, muốn có thể phân
biệt tiếng nào hỏi, tiếng nào ngă, th́ nên
theo phương pháp tự nhiên hơn hết, là
học.
Phương pháp này đă đem lại những công
hiệu rơ ràng. Nhiều người ngoại quốc,
tuy nói tiếng Việt rất khó khăn, song đă
chịu khó học cẩn thận rồi, th́ nói,
viết rất đúng hỏi ngă. Nhiều người
đàng trong, chịu khó học, cũng nói được
viết đúng như người đàng ngoài. Mà
bằng chứng đích xác hơn hết là, cả
một cơi Bắc Việt, ai cũng nói đúng
nhờ học từ thuở bé ở nơi chung quanh ḿnh.
Cái may của người đàng ngoài, là sự
học này là một cái học thường xuyên,
trong mỗi lúc nghe nói, trong mỗi lúc nói, mà người
học thấy cực nhọc hay để tí công
cố gắng nào. Chung quanh ḿnh, cha, mẹ, anh,
chị, bè, bạn, lối xốm, thảy là người
thầy sẵn sàng dạy ḿnh, và lại những ngựi
thầy dạy đúng phương pháp tự nhiên.
Kết quả là lên năm, lên sáu tuổi, đứa
bé đă học xong rồi, đến trường
khỏi phải trở lại vấn đề.
Cái rủi của người đàng trong là không có
trường học tự nhiên ấy. Ngay nhà trường
chính quy cũng vẫn là một lớp học
thiếu sót về vấn đề này. Thầy giáo nào
có công, cũng chỉ dạy cho học tṛ đánh
dấu đúng, khi viết. Chúng tôi chưa hề
gặp một thầy giáo nào ở đàng trong đă
dạy học tṛ nói thanh ngă, thanh hỏi bao giờ. Và
cũng chớ nên trách họ, v́ chính họ c̣n chưa
nói được thay!
Vậy cần phải học, tuy trong những điều
kiện khắt khe hơn, nhưng phải cố t́m
tạo ra một hoàn cảnh gần như tự nhiên,
và dơi theo một phương pháp tự nhiên. Hoàn
cảnh ấy, là một nhóm người biết
cố gắng nói đúng, viết đúng hỏi, ngă.
Phương pháp ấy, là nên học thuộc ḷng, không
khác nào trẻ con mới học nói phải thuộc
tiếng mới, không khác nào người ngoại
quốc học nói phải học thuộc tiếng
lạ.
Trong khi nói chuyện, nếu phải dừng trước
một tiếng để suy nghĩ nên nói thanh nào, th́
làm sao cho lời được suôn, lại c̣n nói chi
đến việc trổ tài hùng biện? Trong khi
viết, nếu phải dừng mỗi lúc để
suy nghĩ nên đánh dấu nào, th́ làm sao chép
kịp lời của người, hay ghi cho kịp
nguồn hứng của ḿnh?
Học phải chọn sách. Học về hỏi, ngă,
không có ǵ qua từ điển, tự điển,
tự vi. Những người có tiếng là viết
đúng chính tả, như Phan Khôi, Phan Văn Hùm, thường
thú nhận rằng không có dụng cụ nào hơn là
tự điển để tra cứu, mỗi lần
trí nhớ của họ hơi lờ mờ. Ngày nay,
những từ điển, lấy tiếng Việt làm
nền để cắt nghĩa và điển chế
tiếng Việt, thật là khó t́m. Một vài
quyển hăy c̣n lưu hành, nhưng lại rất
cẩu thả về vấn đề chính tả.
Học trong tự điển là một việc
rất mau chán. V́ vậy mà cần có một lối
học mau lẹ, lại có nhiều kết quả.
Lối học thực tiễn này dựa vào những
nhận xét sau đây:
Trong tiếng Việt, tiếng thanh hỏi nhiều hơn
tiếng thanh ngă. Vậy ta học trước hết
những tiếng thanh ngă, ắt ít tốn công hơn.
C̣n tất cả những tiếng nào thừa lại,
là to cho thanh hỏi.
Trí nhớ muốn được chắc chắn,
cần nên vận dụng tất cả các cơ quan,
tai nghe, mắt nh́n, tay viết. Phần lỗ tai đă
được chú trọng rồi. C̣n nên cho quen
mắt, bằng cách đọc kỹ và nhiều
những sách đánh dấu đúng, những bản
viết tay đánh dấu đúng. Và nhất là
tập đánh dấu cho quen mắt, quen tay như người
đàng ngoài, dấu hỏi rơ ràng vẽ h́nh kéo
xuống, sau khi đă ṿng tṛn, dấu ngă rơ ràng kéo lên,
sau khi đă ṿng tṛn. Tay, mắt, tai hiệp nhau làm cho
phần máy móc của trí nhớ được
vận dụng đầy đủ, th́ sự nhớ
càng chắc.
Rồi cũng phải làm cho phần thông minh của
trí nhớ làm việc, để tập luyện và
để củng cố những điều đă
học được với một cách máy móc.
Vậy cần phải suy nghĩ, để t́m cái lư
của sự việc (nghĩa là cái lẽ v́ sao
phải đánh dấu ngă) và những liên quan của
các việc. Đây là một công cuộc đ̣i
lắm hiểu biết. Vậy xin xét ở chương
sau.
Phương pháp
bác học
Phương pháp bác học này đ̣i hỏi nhiều
hiểu biết về ngữ âm học, để áp
dụng những định luật sự biến di
của âm thanh, và về từ nguyên học, để
t́m ṭi gốc rễ của mỗi tiếng.
Ngữ âm học và từ nguyên học là hai khoa
rất khó. Ở Âu Mỹ, vào trường đại
học, người ta mới khởi sự cho học
các khoa này, c̣n từ bực trung học trở
xuống, chỉ nói cho biết thoáng qua thôi. Mà khi
đă học xong rồi, phải có óc t́m ṭi,
khiến suy diễn mới tự ḿnh khảo cứu
thêm được. V́ vậy mà phương pháp bác
học được nhắc đến sau đây không
phải để cho ai cũng dùng được.
Đối với tiếng Việt, hai định
luật sau đây của ngữ âm học giúp cho chúng
ta rọi nhiều tia sáng và vấn đề hỏi
ngă:
Những âm thanh thường có xu hướng có
gần tính chất với những âm thanh đi
cặp với ḿnh. Ấy là luật
thuận thinh âm
Những âm thanh thường biến chuyển ra
những âm, thanh có gần tính chất với ḿnh.
Ở đây không phải là để khảo cứu
về ngữ âm học, nên xin phép không dừng lâu nơi
hai luật này, mà chỉ áp dụng chúng nó vào
vấn đề hỏi ngă mà thôi.
Do theo sự khảo cứu ở phần thứ
nhất, ta thấy rằng thanh
hỏi ở vào bực nhất,
ta thấy rằng thanh hỏi ở vào bực
bổng. Vậy luật thuận thinh âm mách cho ta
biết rằng nó thường đi
cặp với những thanh hỏi, ngang, và sắc
là những thanh gần tính chất với nó. Ví
dụ như:
Hỏi đi cặp với hỏi: bẩn thỉu,
mỏng mảnh
Hỏi đi cặp với ngang: thẩn thơ, mơn
mởn
Hỏi đi cặp với sắc: khỏe khoắn,
lấp lửng
C̣n thanh ngă ở vào bực trầm, gần với
những thanh huyền, nặng. Vậy luật
thuận thinh âm mách cho ta biết rằng nó thường
đi cặp với những thanh ngă, huyền,
nặng là những thanh có gần tính chất
với nó. Ví dụ như:
Ngă đi cặp với ngă: băi hăi, lẽo đẽo
Ngă đi cặp với huyền: băo bùng, hiền ngơ
Ngă đi cặp với nặng: nhăo nhẹt, chậm
răi
Nếu đảo ngược tính cách trên, chúng ta có
thể nêu được cái thông lệ thực
tiễn để t́m tiếng nào có thanh ngă (luật
Nguyễn Đ́nh)
Tiếng có thanh ngă là những tiếng đi
cặp với tiếng thanh ngă, nặng hay huyền
Tuy nhiên, thông lệ này có rất nhiều ngoại
lệ. Độc giả sẽ thấy rằng số
ấy không phải là ít, và phương pháp bác
học, tuy đ̣i hỏi rất nhiều hiểu
biết và suy nghĩ, vẫn không bằng phương
pháp tự nhiên.
Khoa từ nguyên học, áp dụng vào tiếng
Việt, cho ta biết rằng những tiếng họ
hàng, hoặc biến chuyển ra, thường có
những thanh gần với thanh cội rễ.
Như ba thanh ngang, sắc, hỏi biến chuyển qua
lại với nhau. Ví dụ: chưạ..chửa;
miếng...miểng; cảnh...kiếng; chẳng...chăng;
thể...thế
C̣n ba thanh huyền, nặng, ngă, biến chuyển qua
lại với nhaụ Ví dụ: rồị..rỗi,
chậm...chẫm; cữụ..cậu; lỡ ...
lợ; cũng....cùng.
Nếu đảo ngược tính cách này, chúng ta có
thể nêu được cái thông lệ thực
tiễn để t́m tiếng nào có thanh ngă
Tiếng có thanh ngă là những tiếng do tiếng
thanh ngă, nặng, huyền biến chuyển ra
Ngoài ra c̣n những tiếng Hán Việt mà cách phát
thanh theo những định luật phiền tạp, và
sự áp dụng các định luật ấy chưa
chắc ǵ đơn giản hơn là theo phương
pháp tự nhiên là học ngay cho thuộc ḷng. Lại
các định luật này có rất nhiều ngoại
lệ, mà nhớ cho được và cho đủ, cũng
cần phải học thuộc ḷng. Vậy th́, làm
thế nào, vẫn khó t́m một phương pháp, duy
lư dễ dàng, cho vừa tầm thực dụng
của b́nh dân.
Tốt hơn là dùng phương pháp tự nhiên,
đă dễ dàng, c̣n đem lại nhiều thành tích
tốt đẹp.
Tuy vậy, những định luật kể trên
vẫn có giá trị là những kim chỉ nam cho
những nhà khảo cứu, để t́m ṭi chính
tả và điển chế tiếng Việt. Giá
trị của nó là giá trị của một phương
pháp bác học, và chỉ có giá trị ấy trong
địa hạt của khảo cứu. Cố đem
ra ngoài địa hạt ấy và biên thành những
thông lệ thực tiễn, chưa ắt là hạp
với kinh nghiệm của khoa sư phạm.
Trái lại, nếu ta đă dùng phương pháp
tự nhiên mà học thuộc ḷng rồi, lại áp
dụng thêm phương pháp bác học để
khảo chính và củng cố trong trí nhớ những
điều đă học được, th́ là
một việc thêm hay.
Đặc sắc của khoa học không phải là
dừng nơi một phát kiến nào, mà ở nơi
sự t́m ṭi và phát kiếm thêm măi. Vấn đề
hỏi ngă không phải ở trọn trong luật
Nguyễn Đ́nh và luật tứ thinh.
Đứng vào một sở cậy khác, rọi
một nhấn quang khác, chắc chắn sẽ t́m
thấy việc khác có thể giúp cho ta hiểu rơ thêm
vấn đề.
Như có người (Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Tuân,
Thế Lữ...và chúng tôi) nghĩ rằng tiếng
Việt nam là một tiếng "nhạc ư" (nghĩa
là dùng âm thanh cao, thấp, dài, ngắn mà diễn ư),
khác hơn tiếng Tàu là một tiếng "hội
ư" (nghĩa là dùng nét vẽ mà tượng ư).
Thế th́, hỏi hay ngă, tất phải có quan hệ
với ư của tiếng dùng. Nhắc đến
giả thuyết này, chúng tôi chỉ có ư mách rằng
có thể khảo cứu và suy luận thêm về
vấn đề hỏi ngă, chớ chưa định
ư lập một cái luật nào mới.
Độc giả nên nghiên cứu bằng thuật dùng
thẻ (fiche). Thẻ ấy là những mảnh
giấy rời nhỏ. Trên mỗi thẻ, ta nêu to
một tiếng dấu ngă, kế đến những
điều ǵ mà ta cần chép để nhớ (nghĩa
tiếng, gốc tiếng, luật về ngữ âm
học) và những nhận xét hay giả thuyết riêng
của ta. Khi có đủ bộ rồi, ta chịu khó
quy nạp những nhận xét, biết đâu ta
chẳng t́m được cái ǵ hay đẹp về
vấn đề?
|