Trong
Nam, to interpret là thông dịch. còn ngoài
Bắc là phản dịch
1 . Chữ
phản ở đây giống như chữ phản trong
phản ảnh, tiếng Nam, hay phản ánh, tiếng
Bắc. Phản
dịch không hề hàm ý như trong câu tiếng
Pháp Traduire, c'est trahir -- dịch tức là
phản, vì chữ phản trong
sau này
có cùng nghĩa với chữ phản trong phản
bội hay phản trắc.
Phải dài dòng như thế vì thông
dịch hay phản dịch rất phức tạp, khó khăn
và rắc rối.
Thông dịch hay phản dịch,
nghĩa là dịch miệng, nói ra bằng lời
ngay, tuy tiếng Anh không mấy phân biệt
giữa interpretation và translation
2. Tiếng Việt dùng chữ
phiên dịch để
chỉ các bài dịch được viết ra hay in ra.
Trong
văn chương Việt Nam, phiên dịch đã có
từ lâu lắm
3. Suốt một ngàn năm bị
Tàu đô hộ, người Việt Nam học chữ Nho,
tức là chữ viết của Tàu từ thời
Khổng Tử và các môn đệ của Ngài.
Nhưng dần dần người Việt đọc
chữ Nho theo âm Việt, thành ra khi Việt Nam
đạt đến thời kỳ tự chủ, sứ giả
Việt Nam chỉ có thể bút đàm với quan
lại người Tàu, nghĩa là viết ra giấy thì
hiểu nhau được, còn nói thì khác hẳn âm
với nhau. Dần dần người Việt kiện toàn chữ Nôm, là
thứ chữ dựa trên chữ Nho, nhưng được
đơn giản hóa phần nào để dùng chỉ các
âm tiếng Việt, từ đó có sự phiên dịch
từ chữ Nho ra chữ Nôm, mà trong văn chương
gọi là diễn Nôm.
Như Chinh
phụ ngâm khúc do ông Ðặng Trần Côn
viết bằng chữ Nho, bà Ðoàn Thị Ðiểm
dịch ra chữ Nôm thành Chinh
phụ ngâm khúc diễn Nôm.
Bà Ðoàn Thị Ðiểm có thể được
xem như tổ ngành phiên dịch vì bản dịch
của bà rất sát với bản chính, lột hết
ý nghĩa, tình tiết, mà văn rất trôi
chảy, khi đọc không hề biết là văn
dịch. Bà
lại không nệ theo đúng mẫu bản chính, mà
vẫn lột được tinh thần cũng như tư tưởng
của tác giả. Tám câu đầu bản chính và hai khổ song thất lục
bát do bà Ðoàn Thị Ðiểm diễn Nôm (dịch
ra) vừa sát nghĩa, vừa tràn đầy thi vị:
Thiên
địa phong trần
Hồng
nhan đa truân
Du
du bỉ thương hề
Thùy
tạo nhân.
|
Thuở
trời đất nổi cơn gió bụi
Khách
má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh
kia thăm thẵm từng trên
Vì
ai gây dựng cho nên nỗi này?
|
Cổ
bề thanh động Trường thành nguyệt
Phong
vũ ảnh ám Cam Toàn vân
Cửu
trùng án kiếm khử dương tịch
Bán
dạ phi hịch truyền tướng quân
|
Trống
Trường thành lung lay bóng nguyệt
Khói
Cam Toàn mờ mịt thức mây,
Chín
tầng, gươm báu trao tay
Nửa
đêm truyền hịch định ngày xuất
chinh.
|
.
Một người có tài phiên dịch nữa là
Nguyễn Du. Trong
truyện Kiều, đoạn Thúy Kiều khảy đàn
cho Kim Trọng nghe khi tái hợp sau mười lăm
năm lưu lạc, tác giả đã dịch bốn câu
trong bài thơ Cẩm Sắt
của Lý Thương Ẩn:
Trang
sinh hiểu mộng mê hồ điệp,
Thục
đế đan tâm thác đỗ quyên,
Thương
hải nguyệt minh châu hữu lệ,
Lam
điền khí noãn ngọc sinh yên.
|
Khúc
đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy
là hồ điệp hay là Trang sinh ?
Khúc
đâu êm ái xuân tình,
Ấy
hồn Thục đế hay mình đỗ quyên ?
Trong
như châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm
như hạt ngọc Lam điền mới đông.
|
Một áng văn dịch tuyệt vời nữa là
bản dịch bài thất ngôn trường thiên Tỳ
Bà Hành từ nguyên tác chữ Nho của
Bạch Cư Dị ra chữ Nôm.
Ông Phan Huy Vịnh đã khéo léo dùng 22
khổ song thất lục bát để dịch đúng 88
câu của nguyên tác, vừa sát nghĩa, vừa đầy
thi vị, lại giữ đúng y nguyên số câu và
số chữ. Khổ thứ hai dịch câu năm đến câu tám trong nguyên
tác:
Túy
bất thành hoan, thảm
tương biệt
Biệt
thời mang mang giang tẩm
nguyệt
Hốt
văn thủy thượng tỳ bà thanh
Chủ
nhân vong qui, khách bất phát.
|
Say
những luống ngại khi chia rẽ,
Nước
mênh mông dằm vẻ gương trong.
Tiếng
tỳ chợt vẳng trên sông,
Chủ
khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.
|
không
gò ép, không dư, cũng không thiếu.
Nhất là câu thứ bảy,
giữa khoảng trời nước mênh mông, mà
biến
Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh
!
thành
một câu diễn được cái đột ngột, bất
chợt, nhưng
không
có chút
nào
ngập ngừng, lạc lõng :
Tiếng
tỳ chợt vẳng trên sông,
Dịch
giả lại chuyển thành thái độ, lời kể
trong nguyên tác mà không làm lạc ý :
Chủ
nhân vong qui, khách bất phát
nghĩa
đen là "Chủ
nhân quên về, khách không đi," bằng câu
Chủ
khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.
để
cho ta thấy rõ hơn thái độ và tư thế
sống động của chủ và khách, chuyển
dịch rất êm và
không đi ngược lại, hay xa rời nguyên tác.
Trọn bài dịch đáng khen nhất là câu
Cùng
một lứa bên trời lận đận
đã
vượt hẳn nguyên tác
Ðồng thị thiên
nhai luân lạc nhân
và
do đó rất được nhiều người biết đến
và khen thưởng.
(Nếu có dịp xin đọc nguyên tác và
bản dịch trong Việt Nam Văn Học Sử --
Giản ước Tân biên, của ông Phạm Thế Ngũ,
quyển hai, trang 331 đến 335.)
Việc
phiên dịch ở Việt Nam sau đó, nghĩa là
từ cuối thế kỷ thứ 19 đến giờ đã
chia ra hai ngành chánh:
một là phiên dịch sách Tàu, hai là
phiên dịch sách Pháp.
Sau này mới có phiên dịch sách viết
bằng các thứ tiếng khác .
Phiên dịch sách Tàu có hai khuynh hướng.
Một là đem các điều mới mẻ,
tiến bộ, có tính cách thức tỉnh quốc
hồn, có ý duy tân và khuyến khích quốc dân
đứng lên đòi độc lập, tự do, theo gương
Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu vào cuối
nhà Thanh bên Tàu, như Nguyễn Hữu Tiến
đã dịch Gương
đức dục (1930) và Học
thuyết tư tưởng nước Tàu (1931),
hai nguyên tác của Lương Khải Siêu
4. Khuynh hướng thứ hai là
dịch truyện Tàu ra chữ quốc ngữ
để làm giàu thêm cho ngữ vựng
Việt ngữ, vì chữ quốc ngữ lúc đó còn
phôi thai, cần được phát triển và phổ
thông hóa trong nhân dân.
Trong những người phiên dịch truyện
Tàu lúc đầu có Phan Kế Bính dịch Tam
quốc chí, Trần Tuấn Khải dịch Thủy
Hử, sau
đến Trần Phong Sắc, Nguyễn An Cư, Tô
Chẩn, Nguyễn Chánh Sắt 5,
Trương Minh Chánh dịch Phong
Thần, Ðông Châu Liệt Quốc (dịch
chung), Thất
Quốc Chí, Xuân Thu Oanh Liệt, Tây Hán Chí
hay Hán Sở
tranh hùng, Ðông Hán diễn nghĩa, Tam Quốc
Chí, Thuyết Ðường,
Tây Du, Chinh Ðông, Chinh Tây, Phản Ðường,
Tàn Ðường, cho đến các bộ Bắc
Tống diễn nghĩa, Ngũ Hổ bình Liêu, Ngũ
Hổ bình Tây và Ngũ Hổ bình Nam,
Bao Công kỳ án, Thủy Hử, Tống
Nhạc Phi, Tái sinh duyên, Ðại Minh Hồng Võ
... và Càn
Long du Giang Nam.
Sau này Mộng Bình Sơn và vài người
khác cũng dịch lại các truyện trên.
Về văn học, trong thời kỳ này,
Tản Ðà và Ngô Tất Tố dịch nhiều bài
thơ Ðường đăng báo. Trần Trọng Kim gom vào tập
Ðường
Thi, nhiều
bài thơ dịch rất hay
6.
Nhượng Tống dịch Tây Sương Ký ra
kịch bản Mái
Tây, vừa thi vị, vừa đậm đà.
Nhiều người tiếp nhau dịch truyện Liêu
Trai của Bồ Tùng Linh, trong đó có Tản
Ðà, Ðào
Trinh Nhất, Hiếu Chân ...
Tiếp đó nhiều người khác đã
dịch và giải nghĩa Tứ
Thư , Ngũ Kinh
sang tiếng Việt, tiếp nối công trình
dịch thuật mà Trương Vĩnh Ký đã đề
xuất khi dịch Trung
dung (1875),
Ðại học (1877), và Minh
tâm bửu giám
(1893) khi trước
7.
Ngoài những người phiên dịch sách,
thơ và truyện Tàu, còn có nhóm thứ hai
chuyên phiên dịch sách, thơ và truyện
tiếng Pháp
8. Trương Vĩnh Ký, Huỳnh
Tịnh Của là những người đi trước, khai
phá nền văn chương quốc ngữ, dùng chữ
Pháp, tra cứu chữ La tinh, cùng Hán tự để
vun bồi chữ quốc ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh ngay sau đó,
đã dịch truyện, kịch và thơ Pháp ra
tiếng Việt.
Lúc đầu, việc dịch thuật còn
mới, cách dùng chữ quốc ngữ vẫn có cái
gượng ép và theo sát cách dùng chữ của
nguyên tác. Ta
thử đọc vài câu thơ Nguyễn Văn Vĩnh
dịch một chuyện ngụ ngôn của La Fontaine:
Ve sầu kêu ve ve.
Suốt mùa hè,
Ðến kỳ gió bấc
thổi;
Nguồn cơn thật bối
rối.
Một miếng cũng chẳng
còn,
Ruồi bọ không một
con,
Vác miệng chịu khúm núm,
Sang chị kiến hàng xóm
...
và
so với mấy câu dịch về sau (không nhớ tên
tác giả)
Con ve mùa hạ kêu ran
Qua dông lạnh lẽo
tấm thân cơ hàn
Ðến cùng chị kiến
thở than ...
Lúc
ban đầu, người dịch có khuynh hướng
chuyển âm tên trong tựa sách hoặc dịch
thật sát tựa như Manon Lescault dịch là Mai
Nương Lệ Cốt, (1918); Le
malade imaginaire (1915) do Nguyễn Văn Vĩnh
dịch là Bệnh tưởng, tuồng Lôi
Xích, tức Le
Cid, năm 1920, và tuồng Hòa
Lạc, tức Horace, năm 1923, (đều do Phạm Quỳnh dịch).
Nhưng cũng có những bản dịch thoát
ra ngoài khuôn đó, như Tartuffe,
(1915) mà Nguyễn văn Vĩnh dịch là Giả
đạo đức;
La porte étroite, Ðỗ Ðình Thạch
dịch ra là Tiếng
đoạn trường (1937), thay vì
Khung
cửa hẹp như sau này một người khác
đã dịch. Trong thời gian từ 1948 đến 1954, cũng có nhiều người
tiếp tục dịch
hay phóng tác các
tác phẩm Anh, Pháp
9.
Tiếc là đôi khi người dịch, hoặc
chuyển tên nhân vật và địa danh sang
Việt Nam như truyện Tượng vua Lê (bên
Hồ Hoàn Kiếm,
Hà nội) dịch The
Happy Prince
của Oscar Wilde, hoặc vẫn dùng tên nhân
vật và địa danh trong nguyên tác như
truyện Con cánh
cam vàng dịch
truyện The
Gold Bug của
Edgar A. Poe, hay là truyện Người
có bộ óc vàng
dịch từ
L'homme
à la cervelle d'or
của Alphonse Daudet,
đều không hề ghi là truyện dịch,
không đề tên nguyên tác và tác giả
10. Âu cũng là một thiếu sót
trong thời ấy.
Từ 1950 đến 1975, việc dịch thuật
phát triển nhiều hơn, nhưng vẫn theo hai ngành,
một là dịch sách, truyện và thơ Tàu, hai
là dịch sách, truyện Âu châu và Hoa kỳ. Sở dĩ phân như thế vì dịch sách hay truyện Tàu
thường chỉ chuyên chú về vài tác giả mà
thôi, như trong các năm 1958, 1959 đến suốt
thập niên 1960, Quỳnh Dao và Kim Dung là hai
tác giả Tàu được dịch nhiều nhất, sau
này mới có thêm La Lan.
Dịch sách truyện Âu và Mỹ châu tương
đối rộng hơn, bao gồm nhiều tác giả
quốc tế. Rất
hiếm người dịch ra Việt văn thơ
Anh hay Pháp.
Việc dịch truyện kiếm hiệp đã
mang nhiều chữ mới cho ngữ vựng Việt
ngữ. Ðành
rằng có những chữ như hảo chiêu, nữ
hiệp, giang hồ hành hiệp ... đã có sẵn,
nhưng trước đó vẫn ít dùng,
nay nhờ các bản dịch các pho truyện kiếm
hiệp mà được nhắc đến thường hơn
11.
Những chữ mới như truyền âm nhập
mật, nhất dương chỉ, lăng ba vi bộ... lúc
đầu tuy có hơi khó hiểu, nhưng nghe, đọc
riết thành quen.
Ðiều đáng tiếc là các nhà chuyên
dịch truyện kiếm hiệp thường thiếu ngày
giờ, vì phải dịch cho kịp với các ấn
bản của báo Hương Cảng gởi qua.
Do đó họ ít chú trọng đến văn
từ, văn phạm, không trau chuốt, uốn nắn câu văn dịch như ý
muốn, và có khi lại phải dịch bừa cả
tựa pho truyện 12.
Các tiểu thuyết của Quỳnh Dao may
mắn hơn, vì thường không dài quá 300
trang, văn viết lại gọn gàng, sáng sủa,
mạch lạc, nên người dịch có thời giờ
đọc đi, đọc lại tác phẩm, rồi sửa
chữa, thay đổi chữ dùng trong câu văn
dịch. Nhờ
đó mà bản dịch ít có lỗi chính tả, ít
thiếu sót hay bỏ khuyết vài đoạn ngắn
trong nguyên tác.
Dịch sách Tàu có công phu hơn là các
bản dịch của Nguyễn Hiến Lê
13,
vì tác giả, ngoài việc
dịch thuật, còn có ý giới thiệu, phổ
biến, và chia sẻ cái hay, cái đặc biệt
của văn chương, văn học Tàu.
Tuyển
tập truyện của Lỗ Tấn, Sử
ký Tư Mã Thiên ... là những sách dịch
rất công phu.
Cùng làm việc này, nhưng trong lãnh
vực thơ và từ khúc có Trần Trọng San
(1993-94), đã cho xuất bản ở hải ngoại
hai quyển Thơ
Ðường, và Ðường,
Tống Từ Tuyển,
soạn dịch rất công phu.
Ngoài ra còn có nhiều người (một
phần lớn là các tu sĩ Phật giáo) sau khi
đi du học ở Nhật Bản, đã dịch nhiều tác
phẩm Nhật bản.
Dịch sách Âu châu và Mỹ châu có Bàng
Bá Lân, dịch Thầy
giáo làng đã chuyển đạt được lối
văn kể truyện (gần như tự thuật) giản
dị, bình dân trong nguyên tác tiếng Anh The
thread that runs so true của Jesse Stuart mà
vẫn giữ được vẻ duyên dáng, thanh
lịch, nói về giáo dục mà không có sự răn
đời cứng ngắc.
Chỉ tiếc là Bàng Bá Lân dịch sách
này từ một bản dịch của nguyên tác sang
tiếng Pháp Les
cahiers d'un maĩtre d'école nên có chỗ không
được như trong nguyên tác
14.
Hà Mai Anh đã dịch tác phẩm danh
tiếng Grand
Coeur của Edmond de Amicis thành tác phẩm Tâm
hồn cao thượng
rất được phổ thông trong những
thập niên 1950, 1960.
Trong những năm 1956 đến 1960, Phạm
Ðình Tân và Phạm Ðình Khiêm đề xướng
Tinh Việt văn đoàn, có dịch sang tiếng
Việt một số tác phẩm Pháp văn có tính cách
triết lý của Lecomte de Nouye và của bác sĩ
Alexis Carel. Ðỗ
Khánh Hoan 15 cũng bỏ ra rất nhiều công sức dịch thuật và giới thiệu các
tác phẩm tiếng Anh sang Việt ngữ.
Ông dịch rất công phu, chịu khó tra
cứu, tìm tòi văn bản nguyên tác, giới
thiệu tác giả, dùng chữ rất chọn lọc,
dịch thật đúng và thật đầy đủ. Ông
cũng có dịch nhiều tác phẫm tiếng Nhật.
Ngoài ra, loại sách gián điệp của Ian Fleming, kể lại những
chiến tích của điệp viên 007, James Bond, cũng
được Hoàng Hải Thủy dịch gẫy gọn và
lưu loát.
Trên phương diện kịch, vào những năm
1973, 1974, Lê Tuấn (bút hiệu Luân Tế) và
Duane E. Hauch đã dịch và đưa ra trình
diễn các vở kịch Mưa
(Rain)
của Somerset Maugham,
Chuyến
xe Dục vọng
(A Street Car Named Desire) của Tennessee Williams
và Ước
vọng dưới tàn du
(Desire
under the Elms) của Eugene O'Neill.
Diễn viên gồm các sinh viên văn khoa
và các kịch sĩ danh tiếng như Vũ Ðức
Duy, Bà Năm Sa đéc và cô Ðỗ Anh.
Trong những năm Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa được phát triển, Tổng Cục Quân
Huấn thuộc Bộ Tổng Tham Mưu và hai Khối
Quân Huấn Hải Quân và Không Quân cũng
dịch các sách kỹ thuật quân sự từ
tiếng Anh sang tiếng Việt. Riêng Hải Quân, ngoài Ban Dịch thuật thuộc Phòng
Trợ Huấn, còn giao sách không thuộc loại
kín, hay phổ biến hạn chế cho các cơ quan
dịch thuật ngoài.
Do đó Hải quân đã có được rất
nhiều sách dịch từ tiếng Anh sang, từ các
sách hoàn toàn quân sự như Hải pháo 127
ly, 76,2
ly,
Không trợ tiếp cận ... hoặc có tính cách kỹ thuật như Phòng tai, Bảo trì dự
liệu, hoặc thuộc loại tìm hiểu, khảo
cứu như Quốc
tế công pháp dành cho sĩ quan đi biển và
Quyền lực
trên biển.
Khối Quân Huấn Hải quân cũng đưa ra tiêu
chuẩn dịch và duyệt nâng phẩm chất các
sách dịch được chuẩn nhận vào tủ sách
huấn luyện của Hải quân.
Sinh hoạt phiên dịch trong văn đàn
Việt Nam tương đối dồi dào .
Nhưng đã nói về phiên dịch cũng nên
nhắc đến một trường hợp đặc biệt
trong văn chương Việt Nam.
Hồ Biểu Chánh
16 đọc xong
tác phẩm tiếng Pháp, sắp xếp lại một cách
gọn ghẽ, rồi viết lại thành một
truyện hoàn toàn Việt Nam, tuy cốt truyện
theo đúng cốt truyện Pháp.
Ông khéo léo thay các địa danh, nhân
danh Pháp, bằng địa danh, nhân danh Việt
Nam, như Paris trong Les Misérables trở thành Gia Ðịnh trong truyện Ngọn cỏ gió đùa, còn Rémi trong truyện Sans famille thành thằng Ðược trong truyện Cay đắng mùi đời. Ông
lại xuất sắc trong việc thay luôn sự
kiện lịch sử của Pháp như vụ nổi
loạn ở Paris bằng một sự kiện thuần túy
Việt Nam, vụ Lê văn Khôi nổi loạn chiếm
thành Gia định.
Ông chuyển dịch rồi phóng tác rất
công phu, và nhờ thế mà đọc các truyện
của ông, có thể nghĩ là truyện do ông trước
tác chứ không phải là truyện dịch, hay mô
phỏng. Trường
hợp các truyện nói trên của Hồ Biểu Chánh
phải chăng cũng giống như trường hợp các
truyện Hoa Tiên, dựa theo Ðệ bát tài tử
Hoa tiên ký, hay truyện Kiều dựa trên
truyện Thanh tâm tài nhân, hoặc Lục Vân Tiên,
theo truyện Tây Minh ?
Phiên dịch còn có nghĩa là dịch sách,
truyện, thơ từ tiếng Việt ra tiếng Anh,
tiếng Pháp.
Trên lãnh vực này, Trương Vĩnh Ký đã
đi trước, khi dịch Truyện Kiều
sang tiếng Pháp (1875).
Ông đã thành công trong việc giới
thiệu áng văn chương sáng giá của Việt
Nam với người Âu châu.
Nguyễn văn Vĩnh cho in bản chú dẫn
Truyện Kiều bằng chữ quốc ngữ
năm 1925, nhưng đến 1942
bản dịch Truyện Kiều
ra tiếng Pháp của ông mới được in
(ông mất năm 1936).
Ngoài ra còn có Nguyễn văn Tố (1936)
và Nguyễn Tiến Lãng (1938) giới thiệu
truyện Hoa Tiên bằng tiếng Pháp, Hoàng Xuân Nhị dịch Chinh phụ ngâm khúc (1939)
ra tiếng Pháp, Dương Ðình Khuê (1965) dịch
Truyện
Kiều vân
vân. Ðỗ
Vạng Lý (1959)
dịch sang tiếng Anh các truyện cổ tích
như Tấm Cám, Thằng Cuội ... Huỳnh Sanh Thông
dịch Truyện
Kiều sang tiếng Anh, và cùng với Nguyễn Ngọc Bích, góp
phần rất lớn trong việc quảng bá văn, thơ
Việt Nam với độc giả Bắc Mỹ.
Cũng có nhiều người ngoại quốc
dịch thơ văn Việt nam, trong đó có Abel des
Michels (1884) và René Crayssac (1927) dịch Truyện
Kiều, George Cordier (1929) dịch Cung
oán ngâm khúc... Gần đây có Burton
Raffel (1968) dịch thơ Lý Thánh Tôn, Trần Nhân
Tôn, Ngô Chi Lan, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Huy
Cận... Keith Bosley (1972) dịch vài đoạn Chinh phụ ngâm, Cung
oán ngâm khúc, Kiều, thơ Hồ Xuân Hương (Ðánh đu, Cây quạt), thơ
Tản Ðà (Vào thu), Nguyễn Vỹ (Sương rơi),
Nguyễn Nhược Pháp (Sơn Tinh Thủy Tinh), Thâm
Tâm (Tống biệt hành), T.T. Kh. (Hai sắc hoa
ti-gôn), Hữu Loan (Màu tím hoa sim), và
18 bài ca dao. John Balaban (1974) dịch khoảng 50 bài ca dao Việt Nam
qua tiếng Anh.
Gail Graham dịch một số chuyện cổ tích
Việt Nam (Giết chó khuyên chồng,
Quan Âm Thị Kính, Sự Tích ba vợ
chồng Táo quân, Tấm Cám . . .) và
Mark Taylor dịch Trương Chi, Mỵ Nương.
Sau
1975, chúng tôi có dịp đọc ba quyển
"Thép đã tôi thế đấy," "Con
đưởng đau khổ,"
và
"Truyện cổ tích của Hans Anderson,"
không được biết tên người dịch và cũng
không biết dịch theo ấn bản nào.
Ðọc trong hoàn cảnh lén lút
và đói khát, thiếu thức ăn vật chất
lẫn tinh thần, (tù cải tạo không được
phép đọc sách) lại thêm không có nguyên tác
để đối chiếu, thành ra chúng tôi không
thể có ý kiến.
Mấy năm gần đây, có nhiều sách
dịch được in ấn ở Việt Nam (xin xem
phụ bản: một số sách thấy ở thư
viện), nhưng không biết là dịch theo nguyên
bản nào, thành ra cũng khó đối chiếu.
Ðành để việc phê bình lại cho
những người có được nhiều tài liệu hơn.
Chỉ xin ghi ra trong phụ bản một vài
tựa sách để độc giả tiện tra cứu.
Thông
dịch, phản dịch và phiên dịch sẽ mãi mãi
gắn liền với người Việt Nam, nhất là
trong tình trạng hiện nay có gần một
triệu người Việt sống ở hải ngoại.
Nhờ có sự phiên dịch mà nhiều người
trẻ tuổi trong cộng đồng biết thêm được
kho tàng văn hóa Việt Nam, nhiều người có
tuổi biết thêm được cách suy nghĩ, cách
diễn đạt tư tưởng của các sắc dân khác,
và suy ra được tính đồng quy của nhân
loại. Thiết
nghĩ đây cũng là một vấn đề cần cộng
đồng Việt Nam hải ngoại để ý đến để
khuyến khích con em trau dồi tiếng Việt,
học hỏi tiếng Anh, tiếng Pháp, hay một
ngoại ngữ khác, vừa để làm giàu thêm
cho kho tàng tiếng Việt, vừa để giới
thiệu với bạn bè và người ngoại quốc
các sách, truyện, thơ có giá trị trong văn
chương Việt Nam.
GHI
CHÚ
1.
Nguyễn văn Khôn , 1986.
Anh-Việt Tân Tự-Ðiển.
Glendale, CA: DaiNamCo.
Các tự điển in ở Hà nội, Ðà nẵng
... về sau này (1994, 1996 ...) đã bỏ chữ
phản dịch.
2.
Trong bài này, chúng tôi không đề
cập đến ba nhóm người có liên quan ít
nhiều đến vấn đề thông dịch.
Một là thông ngôn, là những người
được đào tạo hoặc ở trường thông ngôn,
hoặc ở Nhà Dòng hay trường đạo để làm
việc thông dịch cho Pháp trong những năm
Việt Nam bị Pháp đô hộ. Hai là các hạ sĩ quan thông dịch viên, có trình độ
trung học, và sau một khóa thi, được học
thêm Anh ngữ và mang cấp bậc trung sĩ đồng
hóa, làm thông dịch cho các đơn vị hành
quân Hoa Kỳ tham chiến ở Việt Nam.
Thứ ba là các sĩ quan cộng sản Hà
nội mang danh hiệu sĩ quan liên lạc tên
lửa, làm thông dịch viên cho các quân nhân
Trung Cộng điều khiển các giàn hỏa tiễn
ở Bắc Việt -- chúng tôi có được gặp
những người này sau 1975.
3.
Trong tiếng Việt, phiên dịch là
dịch một văn bản từ một ngôn ngữ này
sang một ngôn ngữ khác. Trong tiếng Pháp, sự phân biệt kỹ hơn khi nói
về dịch thuật cho học sinh, sinh viên.
Dịch một bài văn từ tiếng mẹ đẻ
sang một ngôn ngữ khác là thème, còn dịch
từ một ngôn ngữ khác sang tiếng mẹ đẻ
là version. Phiên
dịch nói chung là traduction.
Trong bài này chúng tôi cũng không đề
cập đến việc dịch thuật do các giáo sĩ
đã dịch Kinh Thánh, sách giảng ... từ
tiếng La-tinh, hay Bồ-đào-nha ra Việt ngữ.
4.
Cũng
cần ghi thêm là ông Nguyễn Hữu Tiến đã
dịch và giải thích hai quyển Mạnh Tử
(1932) và Luận ngữ (1935).
Trước đó, ông Nguyễn Trọng Thuật
dịch Tả truyện và Ðại học (1928-30).
5.
Riêng ông Nguyễn Chánh Sắt, trong các
bản dịch như Tam Quốc Diễn Nghĩa,
Tống Từ Vân,
Ngũ Hổ Bình Liêu ..., lâu lâu ông có
thêm vào một, hai câu phê bình dí dỏm,
lột trần được cá tính của nhân vật,
hay bình phẩm thắm thía mà nhẹ nhàng về
cảnh huống trong truyện. Có hai nữ dịch
giả là bà Trần thị Sĩ và bà Phạm thị
Phượng. Về
các ông Nguyễn Chánh Sắt,
Trần Phong Sắc, cùng các dịch giả
truyện Tàu xin xem: Các giai thoại Nam Kỳ
Lục tỉnh của ông Hứa Hoành (1997).
6.
Sự nghiệp văn học, biên khảo và
dịch thuật của ông Trần Trọng Kim rất
quan trọng. Từ
những năm 1914 trở về sau, ông đã dịch và
diễn giải các danh từ triết học từ
tiếng Pháp sang tiếng Việt, trước cả ông
Phạm Quỳnh, đồng thời ông cũng làm công
tác phổ biến tư tưởng Khổng Tử qua bộ
sách Nho giáo, đạo thuyết của Thích Ca Mâu
Ni qua quyển Phật học, triết lý của Lão
Tử qua sách Ðạo giáo
7.
Cũng có người dịch các tác phẩm
bằng chữ Nho do người Việt viết, như ông
Phan Kế Bính dịch Ðại nam Nhất Thống
Chí, ông Nguyễn Hữu Tiến dịch Vũ
trung tùy bút ...
8.
Ngoài sách Pháp, còn có các ông
Nguyễn Giang dịch từ tiếng Anh các kịch
Midsummer Night's dream (Giấc mộng đêm hè),
Hamlet (Hăm Liệt), Macbeth (Mặt biệt) của
William Shakespeare, Vũ Ngọc Phan dịch Ivanhoe
(Y văn hoa) của văn sĩ Anh Walter Scott, và
Anna Karénine (An-na Kha lệ Ninh) của văn sĩ
Nga Léon Tolstoi.
9.
Trong khoảng 1948-1950 nhóm các ông Vũ
Ðình Long (nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy ở Hà
Nội) có
dựa vào vỡ kịch này, và chuyển tác (như
ông Hồ Biểu Chánh đã làm với Ngọn cỏ
gió đùa ... ) thành một bi kịch thuần túy
Việt Nam. Bối
cảnh là cuộc chiến giữa ba anh em họ
Chế của Chiêm Thành chiến đấu với ba
anh em họ Lý của Việt Nam.
Kịch được rất nhiều người khen
ngợi, cổ xúy -- trong đó có cả ông Phạm
Hoàng Hộ, lúc đó đang là sinh viên ở Pháp
viết thư khích lệ.
10.
Tượng vua Lê in trong Tiểu
thuyết thứ bảy, hai truyện còn lại in
thành sách.
11.
Thật
ra trước đó có rất ít truyện dịch từ
kiếm hiệp Tàu (như Long hình Quái khách,
Hỏa thiêu Hồng Liên Tự ...).
Các truyện "kiếm hiệp" như
Lục Kiếm Ðồng, Chu Long Kiếm, Võ Hiệp
Kỳ Án là những truyện do ông Phạm Cao
Củng viết ra (không phải dịch) và dùng các
danh từ trên.
12.
Như pho truyện kiếm hiệp của Kim
Dung "Ỷ
Thiên Kiếm,
Ðồ Long Ðao," mà dịch giả chỉ đoán mò rồi đặt tựa là Cô
Gái Ðồ Long
trong suốt hai quyển đầu , không ăn
nhằm gì đến cốt truyện.
13.
Ông Nguyễn Hiến Lê cũng dịch sách
tiếng Anh như loại sách học làm người
- hai bộ của Dale Carnegie - Ðắc
nhân tâm, và Quẳng gánh lo đi .
Sau ông còn dịch quyển Kiếp người
từ một ấn bản
Of Human Bondage của Somerset Maugham (vì
có nhiều ấn bản dài hay thu ngắn), và vài
tác phẩm khác như
Chiếc cầu trên sông Drina.
14.
Dịch
giả bản tiếng Pháp là Claude Lévy. Cũng như
bản dịch bài thơ If của Rudyard
Kipling. André
Maurois dịch bài này ra tiếng Pháp, thành ra
tuyệt phẩm
Si, đọc không biết là thơ
dịch, nhưng ông đã phải thay đổi thứ
tự các khổ thơ trong nguyên tác. Triều Dương dịch ra bài Nếu, rất hay, nhưng
theo sát bài Si, nên khi so sánh, bài
dịch ra tiếng Việt không theo thứ tự
của nguyên tác If của Kipling.
15.
Ông Ðỗ Khánh Hoan nguyên là giáo sư
Anh văn, và trong những năm 1972-1973, là trưởng
ban Anh văn, trường Ðại Học Văn Khoa Sàigon.
Bản dịch Ðường kỷ niệm, từ nguyên tác
Rue d'Archambaut của Gabrielle Roy, nữ văn sĩ Québec,
đăng trong Thời Báo, rất được ưa
chuộng.
16.
Xin xem "Chân dung Hồ Biểu Chánh"
của Nguyễn Khuê, Lửa Thiêng xuất bản năm
1974, Xuân Thu (Los Alamitos, CA. in lại, không
đề năm.