|
Phần I
Trên các sách báo xuất bản mấy năm
gần đây, người đọc đă có
dịp biết đến một số những khám
phá mới về văn học Việt Nam qua các đóng
góp của hai học giả vừa quá cố: Hoàng Xuân
Hăn và Tạ Trọng Hiệp. Nhiều học giả
khác cũng có những công tŕnh đóng góp đáng
kể. Các phát hiện, khám phá về Nguyễn Trăi
(thơ Nôm, Gia Huấn Ca), Nguyễn Du, Dương Khuê,
Lê Quư Đôn, Hồ Xuân Hương (thơ chữ Hán Lưu
Hướng Kư), vv sẽ buộc người viết
văn học sử tu chính lại những ǵ đă
được viết.
Theo ư chúng tôi, có những phát hiện khác về văn
học miền Nam chưa được phổ
biến rộng răi một cách chính thức sẽ thay
đổi hơn nữa nội dung của một
bộ văn học sử Việt Nam đúng nghĩa.
Trong bài Miền Nam Khai Phóng (1), chúng tôi đă đề
cập đến những công bố mới về
Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng
Quản, cuốn tiểu thuyết đầu tiên
viết bằng chữ quốc ngữ cũng như
một số khai phá tiên phong về văn học báo
chí mở đường cho nền văn học
bằng chữ quốc ngữ như ngày nay.
Sau đó chúng tôi khám phá thêm công tŕnh nghiên cứu
Lục Châu Học (dựa vào Văn, Sử bằng
chữ quốc ngữ xuất bản ở miền Nam
Việt Nam 1860-1930, t́m hiểu con người vùng
đất mới) của giáo sư Nguyễn Văn
Trung cũng như một số công tŕnh khác của
khoa Ngữ văn thuộc đại học tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh sau khi có chính sách Đổi
mới ở trong nước, như tập Về Sách
Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế kỷ XVII-XIX).
Trong bài này, chúng tôi sẽ giới thiệu cuốn
Sấm Truyền Ca, cuốn sử Đại Nam Việt
Quấc Triều Sử Kư và Truyện Ông Gioang Ngô Kim
Thạch cũng như một vài khám phá khác về
những đóng góp văn học và văn hóa của
miền Nam; từ đó chúng tôi sẽ nêu một
số ư kiến về sự phát triển của
tiếng Việt.
1. Sấm Truyền Ca (1670):
Đạo Thiên Chúa du nhập vào Việt Nam từ
thế kỷ XVI, đến thế kỷ XVIII đă
chỉ có một thời được ít nhiều
thuận lợi nhất là ở miền Nam, dù liên
tục bị các vua chúa cấm, đă "giúp"
Nguyễn Ánh thống nhất hai miền Đàng Trong Đàng
Ngoài, thật sự thống nhất sau cái thống
nhất ngắn ngủi của vua Quang Trung.
Về văn hóa xă hội, nói chung, đạo Thiên Chúa
đă góp phần giải phóng cá nhân. Trong hoàn
cảnh tiếp xúc mới xuất hiện những
truyện Nôm đáp ứng nhu cầu mới của
những tiếp xúc với người Tây phương
và của cả chiến tranh.
Theo bà Quách Thanh Tâm, hai truyện Phan Trần và
Thạch Sanh đă ra đời trong hoàn cảnh đó
(2).
Bên cạnh những tác phẩm của giới trí
thức, có khi khuyết danh cố ư, đă có
những tác phẩm tôn giáo có giá trị văn
học viết bằng chữ Nôm như Sấm
Truyền Ca (1670) của Lữ Y Đoan, như Thiên Chúa
Thánh Giáo Khải Mông (cùng thế kỷ XVII) của
Majorica, hoặc viết bằng chữ quốc ngữ
như Tuồng Joseph (1888) của Trương Minh Kư,
Phi Năng Thi tập của Philippe Phan Văn Minh, linh
mục được phong thánh năm 1989 và là tác
giả cộng sự viên soạn Tự điển
Tabert (1838), khuyết danh có tập Văn Và Tuồng (1899,
in lần 3).
Hay như tập Đại Nam Việt Quấc Triều
Sử Kư (1879) có thể nói là bộ sử đầu
tiên viết theo lối Tây phương và có đặc
điểm viết với quan điểm của người
dân thường miền Nam thay v́ viết theo chính
sử.
Sấm Truyền Ca nguyên tác viết bằng chữ Nôm,
tác giả là thầy giảng (linh mục) Lữ Y
(Louis) Đoan, được viết vào năm 1670.
Hiện nguyên tác đă thất lạc, chỉ c̣n
bản quốc ngữ. Sấm Truyền Ca là một tác
phẩm văn học đặc sắc v́ phản
ảnh một nỗ lực Việt Nam hóa và b́nh dân
hóa Kinh Thánh bằng cách mượn những yếu
tố văn hóa Việt Nam và Đông phương để
diễn dịch Kinh Thánh.
Lưu truyền hạn chế trong giới thu hẹp
"nhà thờ", tác phẩm chắc đă
được sửa đổi nhiều lần v́
bản hiện c̣n dễ khiến người đọc
nghĩ đến các truyện Nôm nỗi tiếng
của thế kỷ XVIII và XIX. Theo bản chép tay chúng
tôi hiện có của Paulus Tạo, người
dịch bản Nôm ra quốc ngữ là Simong Phan Văn
Cận. Trong lời tựa ghi tại Cái Mơn ngày 8
tháng chạp Tây năm 1820, ông giới thiệu:
"Truyền rằng sách STC là của Thầy Cả
Lữ Y Đoan đặt ra năm 1670, viết bằng
chữ Nôm. Thầy cả này đă trở lại
đạo hồi nhỏ và đă làm thầy
giảng giáp địa phận Đàng Trong, thầy
rất tinh thông chữ nho, thuộc Tứ Thư, Ngũ
Kinh. Thầy làm sách này cho hạng văn nho đọc
để biết rơ đạo Chúa Giê-su. (...) Sách này
của thầy bị nhiều thầy cả Tây dang
hồi đó không ưng v́ nó lai sách đạo Nho và
đạo Phật, nhưng bổn đạo rất
ưa và chép lại để đọc (...).
"Trần Hớn Xuyên (1854-1940) là người đă
sưu tầm tập Sấm Truyền Ca kể lại
trường hợp ông khám phá ra bản hiện nay vào
năm 1910: "Trải qua cơn bắt đạo
dữ dằn đời vua Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đừc, việc giữ đạo
ở miền Nam phải âm thầm, sách vở ảnh
tượng đều được chôn giấu.
Đến năm 1870 có người đào được
tại Cái Nhum (Chợ Lách, Vĩnh Long) một hầm
vô chủ, có nhiều sách vở về đạo thánh,
trong đó có Sấm Truyền Ca, giấy đă
mục nhiều (...) Các linh mục Pháp thời đó
không nh́n nhận là đúng với Kinh Thánh của
bổn đạo, nên cấm bổn đạo v́ sách
dị đoan. V́ đó Sấm Truyền Ca bị mai
một (...)
Sấm Truyền Ca là sự dung ḥa giữa nền văn
hóa Đông phương và Tây phương. Tôi không
nhận xét về mặt hợp hay không hợp Kinh Thánh,
tôi mến phục lối thơ lục bát của người
xưa và cách dùng chữ An Nam hồi đó, đă
lột được ư nghĩa của Kinh Thánh cho người
An Nam dùng cách dễ dàng.
V́ thế tôi đă xin chép lại để làm tài
liệu quư giá, dành cho con cháu ngày sau được
biết ông bà xưa cũng đóng góp rất
nhiều vào kho tàng quốc văn của dân
tộc".
Paulus Tạo của tuần báo Nam Kỳ Địa
Phận và Nguyễn Văn Nhạn của báo Tông Đồ
là hai người đă phổ biến bản Sấm
Truyền Ca vốn gồm 5 quyển của Kinh Thánh
Cựu Ước, bản hiện có chỉ c̣n
quyển 1 Genesis và một phần của thiên Exodus.
Trước hết, có thể nói Sấm Truyền Ca là
dấu tích văn bản Nôm xưa nhất của
Việt Nam (1670) v́ các văn bản văn học Nôm
khác như Thơ Nôm hay Gia Huấn Ca của Nguyễn
Trăi (hay Lư Văn Phức?!), Thơ Văn Quốc Âm
của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồng Đức Quốc
Âm Thi Tập, vv cũng chỉ là những bản chép
lại vào thời Tự Đức với chữ Nôm
của thời vua Tự Đức (1840-1883).
T́nh trạng văn bản, thư tịch Việt Nam
trước thời hiện đại vừa thô sơ
vừa phức tạp. Thô sơ về cách in ấn và
v́ nguồn gốc văn bản thường không
được ghi lại; phức tạp v́ các văn
bản thất tán, sao lục sai lạc bừa băi, có
khi sự nhuận sắc tự đồng hóa với
bổ sung, hiệu đính cho hoàn hảo hơn dù
chủ quan; tên tác giả không phải lúc nào cũng
được tôn trọng, lại có truyền
thống ẩn danh đối với một số tác
phẩm.
Việc kiểm soát thư tịch Việt Nam rất
khó đối với các tác phẩm chữ Hán và Nôm.
Một lư do văn hóa của vấn đề nằm
ở truyền thống kiểm soát của các chế
độ lịch triều quân chủ: vấn đề
chính thống, dù có thời chỉ là Tống Nho.
Truyện Kiều của Nguyễn Du chẳng hạn,
nay không c̣n dấu vết bản Nôm gốc đầu
thế kỷ XIX, thơ Nôm của Nguyễn Trăi
chỉ được sưu tầm biên soạn 400 năm
sau (Ức Trai Di Tập của Dương Bá Cung, 1868
đời Tự Đức); nói chi đến thơ văn
Thiền Tông (chữ Hán) đời Lư Trần thế
kỷ X và XI bản in đầu chỉ vào năm 1715
(Thiền Uyển Tập Anh).
Là một trong bốn linh mục Đàng Trong đầu
tiên được thụ phong tại Kẻ Chàm (Quăng
Ngăi) năm 1676, Lữ Y Đoan đă Việt hóa và Đông
phương hóa Kinh Thánh với một tinh thần dân
tộc rất cao, việc làm mà chỉ từ công
đồng Vatican II (1962) mới được cho phép.
Ông đă dùng những quan niệm Tam cương, Ngũ
Thường của nền luân lư Á đông cũng như
những thực tế và truyền thống văn hóa
dân tộc để giải thích giáo lư của Kinh Thánh
về vũ trụ vạn vật. Ông đă theo sát
Kinh Thánh Cựu Ước nhưng đồng thời
chứng tỏ có óc sáng tạo độc đáo và
tầm trí tuệ hiểu Thần học cao hơn
cả các vị bề trên người Pháp của ông
; ngoài việc không hiểu văn hóa Đông phương,
đó có thể là lư do những người này
loại Sấm Truyền Ca cho là dị đoan, sái
đạo, đi lệch ra ngoài tinh thần cơ
bản của Kinh Thánh. Lữ Y Đoan chứng tỏ
giới linh mục, tu sĩ thời đó có tinh
thần độc lập, tự chủ, tự hào
về văn hóa Việt Nam, b́nh đẳng với các
thừa sai ngoại quốc chứ không mất độc
lập và b́nh đẳng như sau này khi thực dân
Pháp đă thôn tính cả nước Việt Nam.
Lữ Y Đoan đă Việt hóa tên người tên
địa dư của nguyên tác cũng như
dịch rất văn hóa tựa Kinh Thánh Cựu Ước
là Sấm Truyền Ca, Genesia là Tạo Đoan Kinh, Exodus là
Lập Quốc Kinh.Hăy đọc đoạn thơ
"Vào Đề" quyển I Tạo Đoan Kinh:
"Ngày ngày
trước mắt chúng sinh
Chữ đời chữ đạo phân minh đôi
đường
Xưa nay trong kiếp vô thường
Thấy điều vân cẩu mà thương nhơn
phàm
Loài người từ thuở A-đam
Đua nhau xây dựng mộng ham làm trời
Một pho Kinh Thánh ra đời:
Chứng minh vạn đại những lời do Thiên
..."
Thiên Lập Quốc Kinh th́ được mở đầu
như sau:
"Xưa nay
diễn biến tṛ đời
Đồ vương tranh bá bao người máu xương
Một dân dựng nước khác thường
Bàn tay Thượng đế đo lường trước
sau
Giếp Tô quyền lực Phan trào
Muôn binh hùng dũng, đất giàu dân đông
Yết Linh đứng dậy tay không
Phá xiềng nô lệ về vùng Trà Nam..."
Trong đoạn trên, Lữ Y Đoan đă có một cái
nh́n sáng tạo độc đáo khi quan niệm
chuyện dân tộc Do Thái (Yết Linh) 40 năm thiên cư
qua sa mạc để về vùng đất hứa
Canaan (Trà Nam) như một sự đứng dậy
tay không phá xiềng nô lệ. Sáng tạo và mới
cả đối với ngày nay, th́ làm sao Sấm
Truyền Ca không bị các thừa sai người Tây
phương vốn coi thường văn hóa phương
Đông thời đó hiểu được.
Đoạn diễn ca truyện Tháp Babel kể chuyện
con cháu ông Nô Ê (Lữ Y Đoan dịch là Nhữ Y) sau
trận hồng thủy ngạo nghễ rủ nhau xây
tháp cao chạm trời. Chúa đă trừng phạt
bằng cách làm cho họ ngôn ngữ bất đồng
không hiểu được nhau và hết đoàn
kết với nhau; cuối cùng họ phải bỏ
dở và phân tán đi khắp mặt đất thành
nhiều chủng tộc khác nhau:
"Vả chăng,
ngôn ngữ cổ thời
Những điều cảm nghĩ, nói lời như
nhau
Phía Đông nhiều tộc vùng cao
Dân đông, đất chật, hoa màu cũng vơi
Định cư đất mới kịp thời
Bàn nhau xây tháp để đời hậu lai
Góp nhau vật liệu đủ đầy
Công tŕnh kiến tạo mỗi ngày rộng cao
Vươn lên tháp đụng Thiên Tào,
Muôn đời danh tiếng, trăng sao phải nhường
Nhân gian ngạo nghễ thiên đường
Trời rằng:
"Hiệp
nhất vi cường, đại công...
Phải cho ngôn ngữ bất đồng
Mỗi chi một ngả là xong ư đồ !
Thế là nhứt hữu cửu vô
Thế nhân bỏ cuộc, trở cờ chống nhau
Hỗn Lầu (Ba Bên) danh gọi về sau
Kể từ việc ấy, ngũ châu người tràn
..."
(đoạn XI) Ông đă dịch tài t́nh tháp Babel
là Hỗn Lầu, và đă có ư niệm về năm
châu. Trong Sấm Truyền Ca, dịch giả đă dùng
những tư tưởng Phật như "vô thường,
hỉ xả, tiền định, chống sát
sinh", của Đạo học như "cửu hào,
dịch tượng quẻ kiền, thái ất, vv"
và quan niệm Nho giáo như "âm dương, ngũ
hành, hiếu trung, thiên thời, vv":
"Cơ
trời sinh hóa hóa sinh
Ngũ hành thiên địa tiến tŕnh yên xuôi"
(đoạn II).
Tóm lại, Sấm Truyền Ca là một tác phẩm
thuộc di sản văn chương cổ điển
của dân tộc hiếm hoi c̣n sót lại sau bao
chiến tranh, khủng hoảng. Sấm Truyền Ca là
dấu tích gia tài của người xưa, dấu tích
sáng tạo đồng thời là dấu tích của
tiếng nói và viết của người xưa. Lâu
nay v́ nhiều lư do đă bị bỏ quên, ngay
bởi người Công giáo, th́ nay Sấm Truyền Ca
cần được nghiên cứu hơn nữa. Có
thể nói Sấm Truyền Ca là một giao lưu
điển h́nh theo kiểu Việt Nam, khởi từ
căn bản tự chủ dân tộc để thu
nhận các nền văn hóa thế giới.
2. Đại Nam Việt Quấc Triều Sử Kư (1879):
Đây là một tác phẩm sử học viết
bằng chữ quốc ngữ, in lần đầu năm
1879 tại Sài G̣n (256 trang), do các linh mục địa
phận Nam kỳ ở Tân Định biên soạn và
sửa chữa ở những lần in lại (lần
5, 1909). Tập sử này là dấu tích chữ quốc
ngữ và việc học sử ở Nam kỳ vào
cuối thế kỷ XIX. Đặc biệt, tác phẩm
này cung cấp nhiều tài liệu giá trị, mới
mẻ về Tây Sơn và vua Gia Long chưa từng
được các sách sử khác nói đến.
Tựa sách và ở nhiều nơi gọi Tây Sơn là
nguỵ hay giặc, nh́n chung các tác giả có quan điểm
gần với các sử quan nhà Nguyễn, nhưng Gia
Long hay Nguyễn Ánh đều "được"
gọi là Ông. Khen chê Tây Sơn và nhà Nguyễn khách
quan hơn và khác với quan điểm của sử
thần nhà Nguyễn. Một đoạn nói lên
nỗi khổ của người dân giữa hai
lằn "đạn":
"Sau nữa, dầu quân Tây Sơn, dầu ông Hoàng
Tôn (cháu đích tôn Vũ Vương) th́ cũng
lấy điều dữ mà nộ nạt thiên hạ
và bắt người ta theo ḿnh bằng như nói
lời bảo không th́ chẳng ra ích ǵ. Bởi đó
cho nên thiên hạ cực khổ lắm phải c̣n
giặc hai bên chỉ đánh nhau măi. Khi th́ bên nọ
được khi th́ bên kia, mà người ta
chẳng biết vâng cứ ai, chẳng biết ḿnh
thuộc về ai. Hoặc bên nọ được
xứ nào một ít lâu, mà đến sau phải thua
lui th́ nhường chỗ, th́ bên kia liền bắt
tội những người xứ ấy, v́ khi trước
đă giúp quân giặc" (tr. 34).
Vũ Vương tức chúa Nguyễn Phúc Khoát
(1738-1765), con là Nguyễn Phước Thuần tức
Định Vương nối ngôi cha. Các tác giả cho
biết như sau về nguồn gốc suy yếu
của Đàng Trong đưa đến phong trào khởi
nghĩa của Tây Sơn: "Vũ Vương là chúa
dữ, gây cực khổ cho dân. Vũ Vương
rất xấu tính, biết ai có của ǵ hay sản
vật quư, ít nhiều ngay cả chó, ngựa, chim, vượn
hay hoa quả, cam, quít, mít hoặc những giống khác
thế ấy hay là vợ con đẹp đẽ xinh
tốt th́ ông ấy cướp lấy những
vợ con ấy. (...) Vũ Vương ăn ở
thế th́ chẳng có phép tắc ǵ. Trong nhà nước,
các quan muốn làm sao th́ làm, cho nên ai cũng chỉ
ra sức bắt chước Vũ Vương mà
hiếp dân sự. (...) Sau nữa ông ấy mê sắc
dục, ra như chẳng c̣n biết tính loài người
nữa. Chẳng những là có nhiều vợ mà sinh
ra nhiều con. (...) Huệ (Duệ) Vương lại
là con với người em mà Vũ Vương
lấy làm vợ. (...) (Duệ Vương) giống tính
cha, ít trí khôn, cũng mê ăn uống chơi bời,
xem tṛ xem hát cùng xem săn bắn, cho nên các quan
ấy có ư t́m ích riêng cho ḿnh, v́ tin thật, ông Hoàng
Thượng (Duệ Vương) mê chơi bời làm
vậy, th́ sẽ có tên chúa mà thôi (bù nh́n). C̣n
quỡn thế chỉ thời tại ḿnh. (...) Bởi
thế hai ông ấy (một trong hai là Trương Phúc
Loan) vâng lời trối Vũ Vương, rằng bao
giờ ḿnh qua đời rồi, th́ phải lo
liệu cho Hoàng Thượng lên làm vua (tức chúa
Nguyễn) (...) Bao nhiêu quan chẳng hiệp một ḷng
một ư với ḿnh hay là có binh ông Chưởng Vũ
(bố Nguyễn Ánh) th́ lẽ nọ lẽ kia mà
bắt tội cất chức, kẻ th́ phải giam
ngục, lại có kẻ th́ phải chết chém
nữa"
Về việc
Nguyễn Ánh cầu cứu quân Xiêm:
Giám mục Bá Đa Lộc qua đến Xiêm, sau "vui
mừng quá bội" được gặp lại
Nguyễn Ánh ở "trong cơi Ḥn Dừa cách xa đất
Xiêm ba ngày đàng". Sau đó, "quân Tây Sơn
trở về Qui Nhơn, để ông quan lớn tên là
Nam Đĩnh ở lại trong thành Sài g̣n làm quan
quận công cai trị xứ Đồng Nai, và các xứ
khác xung quanh. Vậy ông Nam Đĩnh ấy gửi thơ
cho vua Xiêm mà cách nói phụ phàng rất kiêu ngạo,
cùng lấy quyền bề trên mà truyền dạy cho
ông vua Xiêm hoặc vua An Nam là ông Nguyễn Ánh có qua bên
Xiêm hay là có gặp vua ấy ở đâu th́ phải
bắt mà nộp cho ḿnh bằng không th́ sẽ đem
quân sang đánh mà đoạt lấy cả nước
Xiêm. Vua Xiêm thấy thơ ấy nói một cách vô phép
làm vậy th́ giận lắm, cùng quyết sang đánh
giặc bên An Nam để phạt quân ấy song
chẳng có ư cứu vua An Nam đâu".
"Đức
Thầy (Bá Đa Lộc) biết ư vua thế nào nên
đă xin lại vua An Nam dù cực khổ thế nào
th́ đừng tin cậy vua Xiêm, v́ vua ấy có ư làm
hại nước Nam mà thôi. Cho nên khi Đức
Thầy c̣n ở bên Xiêm mà xin phép về th́ chẳng
nói tỏ ḿnh có ư đi giúp vua An Nam một lấy
lẽ khác, người lại thử ḷng vua và các
quan Xiêm th́ người biết được mọi
sự. Vậy người lại vào trong cơi Ḥn
Dừa ở lại hai tháng tṛn mà vua bàn các việc
cùng người. Các quan đă bỏ vua hết, c̣n
một chiếc tàu và ba trăm quân mà thôi"
"... Vậy vua thiếu thốn thể ấy th́ xin
Đức Thầy Vêrô (Bá Đa Lộc) chịu sang bên Tây
xin vua Pha lang sa sai nhiều binh sĩ cứu giúp ḿnh.
Vua giao ấn nhà nước cùng ban phép rộng cho người
được giao cùng vua Pha lang sa thế nào th́ ḿnh
sẽ vâng thể ấy"
"Quân Tây sơn những t́m bắt người
(Nguyễn Ánh) nên phải cứ ẩn ḿnh trong Ḥn
Dừa và sai kẻ đi do trong các xứ xung quanh cho
biết việc ra thế nào. Quân do ấy đến
Hà Tiên th́ gặp một đội quân Xiêm đang
sắm sửa đi đánh quân Tây Sơn. Quan đại
tướng quân Xiêm biết quân do vua An Nam th́ tỏ
ra ḷng thương cùng cho xem sắc chỉ vua Xiêm
đă ra mà sai ḿnh đi đánh quân Tây Sơn và nói
nhiều lời cho quân tin thật bởi vua Xiêm có nghĩa
riêng với vua An Nam có sẵn ḷng hiệp cùng ḿnh th́
càng lo liệu các việc. Quân Xiêm lại gởi
nhiều của lễ quí trọng mà mừng vua. (...)
Vua nghe điều ấy th́ chẳng vội tin một
sai người khác hai ba lần cho đặng tỏ
quân ai có ḷng đánh giặc mà giúp ḿnh chăng,
kẻ ấy trở về cũng nói như những
người trước và quyết quân Xiêm có ḷng
ngay và có ư giúp vua thật. Bởi đó cho nên vua
mới tin mà sang qua Hà tiên cho đặng gặp quan
đại tướng Xiêm. Nhưng mà khi đến nơi
rồi th́ quân Xiêm bắt lấy và chẳng nói đến
sự đi đánh giặc nữa, một sắm
sửa bỏ về nộp vua An Nam cho vua Xiêm. Bấy
giờ vua thấy ḿnh đă mắc mưu làm vậy
th́ phàn nàn cho đến nỗi la khóc cùng trách ḿnh
dại, v́ nhớ khi trước Đức Thầy đă
nói đi nói lại rằng:
"Đừng bao giờ tin quân Xiêm bởi v́ quân
ấy chẳng thực ḷng song le hối bất
cập"
Toàn bộ cuốn sử này viết từ thời
kỳ Vũ Vương đến thời vua Gia Long, sách
không liệt kê các nguồn tài liệu hoặc nhân
chứng và có nhiều sai lầm về tên gọi như
các quốc hiệu nước ta, chỉ dùng "Giao
Chỉ", "An-Nam" để gọi chung.
Việc này dễ hiểu v́ trước thế
kỷ XX, thi Hương chỉ thi Bắc sử (Trung
Hoa), đến đầu thế kỷ XX mới cho
học và thi Nam sử; và cuốn sử duy nhất là
bộ Đại Việt Sử Kư Toàn Thư khắc in
từ cuối thế kỷ XVII mà không phải ai cũng
có ở tầm tay trong hệ thống in ấn và thư
viện ngày xưa. Đó là lư do của những sai
lầm trên. Tác phẩm sử này có thể viết
từ tài liệu riêng của các giáo sĩ nhân
chứng thời kỳ lịch sử đó. Đặc
biệt của tập Đại Nam Việt Quấc
Triều Sử Kư là quan điểm không theo chính
sử và những chi tiết cụ thể kể
lại với một ngôn từ b́nh dị của
cuối thế kỷ XIX chứ không như những
bộ sử chính thức. Một cuốn sử
viết theo lối Tây phương, của những người
dân thường, Công giáo, ở miền Nam. Gần
đây có khuynh hướng xét lại "công
tội" của hai vua Nguyễn Huệ và Nguyễn
Ánh, chúng tôi tin cuốn sử đặc biệt này
sẽ giúp ích không nhỏ .
Phần II
3. Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch (1916):
Đây có thể nói là một trong những truyện
Việt Nam viết theo truyện Tàu đâu tiên
đượm tinh thần Thiên Chúa giáo. Truyện
được đăng trên tờ Nam Kỳ Địa
Phận từ số 403 (1916) đến số 415
(1917), tác giả là Charles Ngọc Minh đến nay
vẫn chưa t́m ra tiểu sử. Truyện cho
thấy ở Nam Kỳ, truyện Tàu rất ảnh hưởng
đến quần chúng thế nào, khiến cho
những người truyền đạo mượn
lối viết đó để truyền bá đạo
mà tác giả tin là phù hợp với đạo lư
dựa trên Nho học b́nh dân. Truyện cũng có
nhiều t́nh tiết giống các truyện Kiều và
Lục Vân Tiên; các truyện này được
viết theo thể văn vần trong khi Truyện Ông
Gioang Ngô Kim Thạch viết theo văn xuôi.
Đoạn mở đầu truyện:"Tôi thường
nghe bên Nho giáo nói rằng: Họa vô đơn chí (cái
họa không xảy đến lẻ một ḿnh).
Chữ từ chữ th́ nghĩa như vậy mà
hiểu cho rơ câu ấy có ư chỉ làm sao, th́ tôi chưa
hiểu rơ. Nay nhơn lúc rảnh, giở sách tích
truyện đời xưa gặp cái cơ hội nhà
ông Gioang này, th́ bây giờ tôi mới thấu động
ư nghĩa sâu cái câu "họa vô đơn chí"
là ǵ.
"Sau đó tác giả cắt nghĩa thêm: "Anh
hùng hào kiệt đời xưa có chăm lo bốn
chữ Trung Cang Nghĩa Khí, th́ vẫn có ư trông danh
vọng lưu hậu thế, hoặc cho đặng
thắng lộc tấn quyền. C̣n như ông Ngô Kim này
th́ lại khác, không màng chi danh tiếng phước
lộc, can tâm gánh hết các sự gian nan v́ biết
trong trời đất có Đấng Chí Linh, công b́nh chính
trực, chầy kíp cái nạn người ngay có ngày
phải hết, đặng lănh thưởng và
chẳng bao lâu chước độc kẻ gian
phải tỏ bày mà chịu phạt...
"Truyện Ông Gioang Ngô Kim Thạch theo chuyện Tàu
ở chổ nội dung nói chuyện đạo đức,
ở lối chia truyện làm 11 hồi với hai câu
thất ngôn ở đầu mỗi hồi, cũng như
lối mở đầu câu chuyện:
"Lối năm
1685, gần rốt đời nhà Minh, buổi vua
Thần Tông, ở Triệu Khánh phủ về tỉnh
Quảng Đông có nhà kia hai vợ chồng sanh đặng
một trai đặt tên là Joseph Ngô Kim Luông, cha tên là
Gioang Ngô Kim Thạch, mẹ là Martha Đặng Ngọc
Khanh".
Nội dung là chuyện luân lư, một kết hợp
giữa tam cương ngũ thường của đạo
Nho với mười điều răn (thập
giới) của Thiên Chúa Giáo, giữa nhân ái của
Khổng giáo với bác ái của đạo Chúa,
với đức tin vào Thiên Chúa là cha trên trời chí
công và chí nhân:
"Ông Gioang
Ngô Kim ra sức dạy dỗ con cho nó ghi tạc vào ḷng
khăng khăng đức tin, cậy, kính, mến, và
lo các nghĩa cho con hiểu biết mấy điều
luật tự nhiên: Tam giáo và tam cương ngũ thường
(...) Cha mẹ yêu thương con thật, nhất là v́
có một con mà thôi, song cha mẹ bằng ḷng thấy
con chết trước mặt, chẳng thà thấy con
sai lỗi điều ǵ trong đạo thánh, tam cang ngũ
thường. Chẳng những lành phải trả lành,
mà lại dầu dữ cũng phải trả lành thay
vậy, mắc giữ sự trung với bạn trung, mà
cũng mắc giữ trung với kẻ bất trung
nữa, làm người th́ phải lo cho tṛn trung tín".
Truyện kể chuyện cấm đạo bên Trung Hoa
nhưng tác giả có ngụ ư nói chuyện Việt
Nam. V́ cấm đạo, nhiều vị quan tài ba
phải lẳng lặng từ quan quy điền, gia
đ́nh ông Gioang Ngô Kim Thạch phải trốn lên núi,
rồi lạc nhau và phải chịu nhiều đau thương.
Nhưng chính những người bị vua quan bách
hại v́ nghi ngờ ḷng trung lại là những người
trung quân ái quốc. Cuối cùng biết chuyện, vua
đă phong tặng các người có đạo và ban
sắc chỉ khen đạo "cho phép mọi người
giữ đạo và phép đạo mặc ư ḿnh".
Con ông Ngô Kim Thạch là Kim Luông giúp vua đánh
diệt giặc, được vua quan phong lănh ấn
Nhị Lộ Nguyên Soái. Vua đón Kim Luông hồi
triều, lại đứng ra làm chủ hôn:
"Vua đứng
làm mai và cho phép làm theo lễ phép hôn nhân có đạo.
Cũng thêm một dịp cho vua chúa nh́n biết ḷng
can đởm trung quân ái quốc. thẳng ngay của
kẻ có đạo. Và từ đó vua ra sắc ban
khen đạo thánh Chúa Kirixitô và cho phép giữ đạo
và phép đạo mặc ư ḿnh".
Rơ là những lời muốn nhắn gửi những
vị vua thiển cận như Minh Mạng, Tự Đức
đă nhắm mắt nghe sự xiển nịnh các
vị hủ nho. Chính sự hủ lậu này làm
mất nước chứ không phải v́ đạo
Chúa; đạo nào cũng có kẻ theo giặc, ai
đi với giặc th́ cứ bắt người
đó nhưng đừng lấy cớ đó để
bắt đạo, cấm đạo !Tiếng Việt
dùng trong truyện là một lối văn b́nh dị,
đơn sơ mà sáng sủa, của đầu
thế kỷ XX, khác xa truyện Kiều và gần
với Lục Vân Tiên về tiếng nói dân gian, ngôn
ngữ của người b́nh dân.
4. Tiếng
"nhà thờ" hay tiếng Việt xưa?
Tác phẩm chữ Nôm xưa hiện có phải nói
đến là cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông
(thế kỷ XVII) của Majorica và một tác phẩm
văn học xưa viết bằng chữ quốc
ngữ đă in là cuốn Inê Tử Đạo Văn
gồm 560 câu thơ lục bát in trong cuốn Tự
Vị Latinh-Việt Tabert (1838). Nhưng qua ba tác
phẩm vừa giới thiệu, người đọc
đă có thể thấy có một "thứ"
tiếng Việt khác phần nào với tiếng
Việt hiện nay, khác về cấu trúc, khác trong cách
xử dụng chữ và thành ngữ, tiếng Hán
Việt cũng ít hơn, vv.
Tiếng nói là một bộ phận chính của văn
hóa một dân tộc. Tiếng Việt từ thời
Trịnh Nguyễn phân tranh và Nam tiến cho đến
ngày nay đă có những khía cạnh chưa được
điều nghiên kỹ. Chiến tranh nối tiếp
nhau đă khiến con người chỉ lo sống c̣n,
rồi trở nên phân hóa, có những thành kiến,
vv. Tiếng nói và chữ viết người Việt
chúng ta đă tiến hóa theo thời đại và con
người. Nhưng nếu tiến hóa mà mất
cội nguồn, phải chăng đó là chuyện
tốt?Cuối thế kỷ XIX và đầu thế
kỷ XX, sự mở cửa đón nhận những
trào lưu văn hóa và khoa học hiện đại,
tiếng Việt đă phải thu nhận, sáng chế
ra thêm những từ ngữ mới.
Nghiên cứu sách báo xuất bản trong Nam là nơi
phải tiếp xúc văn hóa thực dân trước
cho thấy có những cố gắng du nhập trên căn
bản dân tộc, những cuốn từ điển
của Húnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư,
những biên khảo giới thiệu các khoa học
mới như Phép Toán, Phép Đo, Bác Học Sơ Giai
của Húnh Tịnh Của, rồi những phong trào
Đông Du, Duy Tân xuất phát trước trong Nam. Đàng
Trong và miền Nam cho đến đầu thế
kỷ XX đă thành công chận đứng xâm
nhập văn hóa từ thuộc địa Pháp
bằng cách phát huy những căn bản văn hóa b́nh
dân của dân tộc. Xuất hiện sau nhưng báo
chí miền Bắc có thể v́ vị trí địa lư
thuận tiện và cũng có thể v́ giới trí
thức dễ đón nhận sản phẩm văn hóa
ngoại nhập dễ dàng từ hàng xóm Trung Hoa, do
đó các trào lưu văn học và khuynh hướng
học thuật đă dễ nhập đất "ngàn
năm văn vật", mà sau đó các trường
phái văn học và tư tưởng cũng đâm
bông dễ dàng hơn ở vùng đất này.
Trên tạp chí Nam Phong số 16 (tháng 10-1918), ông
Nguyễn Háo Vĩnh, kư giả, từ Sài G̣n gửi
"Thư ngỏ cho chủ bút Nam Phong" đă lên
tiếng đả kích chủ trương nhu nhập
ào ạt vào tiếng Việt những từ ngữ mượn
từ tiếng Hán Việt mà lúc bấy giờ
Phạm Quỳnh, chủ bút Nam Phong là người hăng
hái nhất cùng với các cộng sự viên khác như
Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, vv. Nam Phong
đă có những ảnh hưởng rất lớn
về văn chương học thuật và đă
đóng góp nhiều cho sự phát triễn của
chữ quốc ngữ, nhưng đồng thời
đă biến tiếng Việt phát triễn theo
một con đường tuy lớn rộng nhưng
đă xa lần những người Việt không
đi cùng đường và người Việt trong
Nam.
Miền Nam đă là nơi trú ẩn những thành
phần chống lại đô hộ văn hóa của
Tống Nho, những người chỉ thu nhận
những cốt lơi văn hóa của Tam giáo, sau
lại là phần đất tị nạn của
những người Việt theo đạo Thiên
Chủa hoặc không sống được ở Đàng
Ngoài. Phan Khôi đă nh́n nhận: "Đại khái
chữ quốc ngữ nước ta, phát nguyên tuy
từ Bắc, mà bắt đầu thạnh hành
lại từ miền Nam. Cho nên bây giờ chúng ta có
thể nói được rằng xứ Nam kỳ
đối với lịch sử chữ quốc
ngữ lại có quan hệ mật thiết hơn
Trung, Bắc kỳ" (3).
Xin nhắc: ông Phan Khôi đă nói như vậy vào năm
1929 !Thật vậy, người miền Nam lúc bấy
giờ đă không hiểu thứ tiếng Việt dùng
trên Nam Phong tạp chí. Nhập cảng từ vựng
Trung Hoa rồi Hán Việt hóa, trong khi đó tiếng
Việt đơn giản đă có lại không
được dùng, cái họa bắt đầu
được nh́n thấy, người c̣n để
lại dấu vết là ông Nguyễn Háo Vĩnh, tác
giả cuốn Cách Vật Trí Tri Phổ Thông Sơ
Giai (1927) và chủ trương báo Khoa Học Tập
Chí từ năm 1924. Ông tố cáo tạp chí Nam Phong:
"Các ngài làm thư thế th́ h́nh như các ngài là
người Tàu qua lấy nước An Nam, muốn
đem tiếng nó qua mà thế tiếng ta vậy"
(4).
Trong Sấm Truyền Ca, Đại Nam Việt Quấc
Triều Sử Kư và Truyện Ông Gioang Ngô Kim
Thạch, ta đă thấy tiếng Việt miền Nam
ở thế kỷ XVII đến XX thật đơn
giản, b́nh dị. Rồi trong Tuồng Cha Minh (1881,
thật ra gần kịch nói hơn là tuồng), theo giáo
sư Hoàng Châu Kư từng viện trưởng
viện nghiên cứu sân khấu Hà Nội, văn
đối thoại trong vở này rất gần gũi
với lời nói của dân giả, mới mẻ và
đơn giản hơn câu văn đầu thế
kỷ XX như văn Nam Phong chuộng lối văn
biền ngẫu và cách điệu. Ông nhân đó
đặt lại quan niệm cho rằng vở
kịch Chén Thuốc Độc của Vũ Đ́nh Long
diễn năm 1921 ở Hà Nội là vở kịch nói
đầu tiên (5).
Học giả Phan Khôi trong bài "Chữ quốc
ngữ ở Nam kỳ với thế lực của
phụ nữ" trên tờ Phụ Nữ Tân Văn
số 28 (7-11-1929) đă nh́n nhận thứ chữ
quốc ngữ dùng trong môi trường đạo Công
giáo thống nhất một mối nghĩa là pha
lẫn Bắc Nam. Ông cũng đề cao hai tiền
bối Trương Vĩnh Kư và Huỳnh Tịnh
Của mà ông tôn là "đại sư" v́ hai ông
đều viết đúng tiếng Việt: "hai ông
cùng học trường bên Đạo mà ra cho nên các ông
ấy viết chữ như người bên Đạo
nghĩa là viết đúng" (6) Tưởng cũng
nên ghi lại ở đây, "trường phái"
Trương Vĩnh Kư tiếp nối với Trương
Minh Kư, Nguyễn Trọng Quản tác giả tiểu
thuyết đầu tiên viết bằng chữ
quốc ngữ Thầy Lazarô Phiền.
Linh mục Thanh Lăng trong các nghiên cứu cuối đời,
những nghiên cứu trong tâm t́nh dân tộc như ông
đă tự kiểm thảo (7), đă kết luận
về tiếng Việt "nhà thờ" "đúng
thật là tiếng Việt thông thường, phổ
thông mà mọi người Việt thời xưa
đă nói, tức là cái giới gọi là "nhà
thờ" đó, đă nói như mọi người
Việt nhà quê cái thứ tiếng nói nhà quê,
tiếng nói dân gian mà mọi người Việt nhà
quê nói với nhau, hiểu vơí nhau một cách b́nh
thường" (8). Cũng theo ông, tác phẩm do
cộng đồng Công giáo biên soạn vào thế
kỷ XVII hiện c̣n giữ được, sách
vở bằng chữ quốc ngữ chỉ có
khoảng 700 trang, trong khi đó tài liệu bằng
chữ Nôm c̣n đưộc 14 tựa với cả
4200 trang; 4200 trang chữ Nôm gốc của thế
kỷ XVII chưa bị sửa đồi theo thời
gian.
Ngoài các tác phẩm chữ Nôm và quốc ngữ đă
giới thiệu ở trên, c̣n có nhiều văn
bản chữ Nôm và quốc ngữ khác được
lưu trữ ở Âu châu mà các giáo sư Hoàng Xuân Hăn,
Tạ Trọng Hiệp, linh mục Thanh Lăng, Đỗ
Quang Chính, vv đă khám phá và chụp vi bản đem
về nước. Viện Hán Nôm thuộc Viện Khoa
học xă hội đă sưu tầm được
24 văn bản chữ Nôm thuộc thế kỷ XVII
trong đó có những bản từng được lưu
trữ ở chùa Kiểng Phước tại Vọng
Các, Thái Lan. Những văn bản sau này là dấu
vết chữ Nôm dùng ở đàng Trong.
Những người đàng Ngoài vào Nam lập
nghiệp, theo chân các chúa Nguyễn, đă mang theo gia tài
văn hóa trong đó có tiếng nói và chữ viết
Nôm (và chữ Hán). Sự phân chia địa lư sẽ
đưa đến những dị biệt hay cách
biệt về văn hóa. Một văn hóa trưỡng
thành song hành với những điều kiện khác
biệt và với những con người thành
phần tập hợp mới. Ông bà ta sẽ đồng
hóa người Chiêm Thành, nhưng ta cũng đă
bị ảnh hưởng trở lại về văn
hóa. Tổ tiên ta cũng sẽ nuốt phần
Thủy Chân Lạp. Vua chúa nhà Nguyễn sẽ mở
rộng tay đón nhận con cháu nhà Minh; những người
này sẽ khai phá những vùng thị tứ mới nay
là Chợ Lớn, Biên Ḥa, Hà Tiên, vv. Xa Đàng Ngoài,
một tập thể người Việt mới
được thành lập, trên mảnh đất
đă trăi qua những văn minh Sa Huỳnh, Đồng
Nai hoặc xa xưa hơn như Óc-Eo, Phù Nam; những
lưu dân này sẽ giữ lại những ṇng
cốt văn hóa của Nho giáo, Đạo giáo, Phật
giáo đại thừa rồi thêm ảnh hưởng
của Phật giáo tiểu thừa và đạo Bà La
Môn.
Từ những lư đó, tiếng nói lưu dân nơi
vùng đất mới sẽ "cập nhật"
theo hoàn cảnh sinh hoạt và môi trường địa
lư mới. Những "hội nhập" này
khiến chữ viết Nôm trong Nam đă có những
biến hóa, cấu trúc khác đi theo phát âm, lối
viết và phương ngữ Nam bộ. Thí dụ phương
ngữ như "chả", "dùa", dị
biệt về phát âm như "Chun, chuyến,
chiền", thay v́ "chung, chiến, truyền
chuyền" (9).
Từ đó như tạo thành một
"thứ" tiếng Việt của miền Nam lưu
dân mà từ lâu nay vẫn bị gán là "tiếng
của nhà thờ". Ông Nguyễn Háo Vĩnh trong bài
nói trên đă viết tiếp lời phê về văn
Nam Phong như sau:
"Coi mà chẳng hiểu th́ có ích ǵ đâu,
dần dần người ta ngă ḷng trông cậy
chẳng c̣n muốn coi nữa".
Mới nghe th́ có vẻ văn "nhà thờ", nhưng
thật ra không có thứ văn nào gọi là văn
"nhà thờ", chỉ có tiếng Việt dùng vào
chốn nhà thờ cũng như tiếng Việt dùng
ở chùa đ́nh vậy thôi. Với những khám phá
mới, có khi chỉ là một trở về nguồn
với văn bản thời thế kỷ XVII và sau
đó như đă đề cập trong bài này, có
thể nói từ khi Nam Bắc phân tranh, ở Đàng
Trong, tiếng nói bắt đầu xa dần đồng
bào ở Đàng Ngoài; đến khi các vua Nguyễn
Huệ và Gia Long thống nhất đất nước,
tiếng Việt Đàng Ngoài sẽ tiếp tục phát
triễn theo một hướng độc lập
với người trong Nam, trở thành một
tiếng nói và viết có khác biệt.
Trong khi đó trong Nam, đồng bào di dân từ
Bắc vào, từ các thế kỷ XVII và XVIII, vẫn
tiếp tục nói tiếng nói họ mang theo vào. Đó là
tiếng Việt được giới tu sĩ và giáo
dân Công giáo như các linh mục Lữ Y Đoan, Philippe
Phan Văn Minh, vv xử dụng cũng như mọi người
trong cùng xă hội.
Đó cũng là tiếng Việt mà các nhà văn nhà báo
và trí thức trong Nam từ Trương Vĩnh Kư, Húnh
Tịnh Của đến Nguyễn Trọng Quản,
Trương Minh Kư, Nguyễn Háo Vĩnh, các nhà báo
của tờ Nam Kỳ Địa Phận, vv xử
dụng. Đó cũng là tiếng Việt mà những
cộng đồng người Việt lưu vong
ở Miên, Lào và Xiêm vẫn nói từ khi họ
phải rời đất nước.
Tiếng Việt đó là tiếng Việt thống
nhất mà Phan Khôi trên Phụ Nữ Tân Văn nói
đến và khởi từ đó ông phê b́nh
những nhà báo ở Sài G̣n lúc bấy giờ
viết sai tiếng Việt - nghĩa là sai tiếng
Việt của Trương Vĩnh Kư, Húnh Tịnh
Của, tiếng vẫn bị coi là của "nhà
thờ" ! Nếu có ai muốn phê tiếng Nam
viết sai nói sai, nên phân biệt với tiếng
Việt thống nhất này, tiếng xưa nay có
nhiều dấu vết ở trong Nam !
Như vậy, v́ hoàn cảnh canh tân, hiện đại,
tiếng Việt đă phát triễn mạnh từ
những năm 1920 với sự nhập cảng ồ
ạt từ vựng mới của Trung Hoa (và
Nhật) với tạp chí Nam Phong, sau đó theo đà
Âu Tây hóa, các báo của Tự Lực Văn Đoàn, Tân
Dân, nhóm Hàn Thuyên, rồi phân chia Nam Bắc, tiếng
Việt thêm nhiều từ mới.
Và tiếng Việt trước 1920 bị xem là
tiếng "nhà thờ" và bị bỏ quên, các
hoàn cảnh biến cố tiếp sau đó đă
tiếp tục đẩy đưa cái khuynh hướng
này. Cùng tiếng nói nhưng có những dị
biệt về chữ viết, thành ngữ và phát âm
khiến không hiểu nhau trọn vẹn. Đây cũng cùng
trường hợp với tiếng Pháp dùng ở
Canada là tiếng Pháp cổ thế kỷ XV do những
di dân từ mẫu quốc sang vẫn xử dụng.
Đế quốc Pháp thua Anh, bỏ rơi luôn dân
của họ.
Bên này Đại Tây Dương, người mẫu
quốc phát triễn tiếng nói và xa dần hẳn
tiếng Pháp của "anh em họ" (cousins) ở
Canada.Mặt khác, tiếng Việt trước 1920
đơn giản, b́nh dị thế nào th́ tiếng
Việt canh tân sau 1920 trừu tượng hơn
nhiều, dù từ những thế kỷ XVII đă có
nhu cầu sáng chế nhiều từ Hán Việt và
từ Tây hóa (phiên âm) để theo kịp đà
tiến hóa và tiếp xúc với Tây phương.
Trừu tượng, đó là lư do khiến kư giả
Nguyễn Háo Vĩnh phàn nàn với ông Phạm
Quỳnh.
Một "học sanh về điện máy chuyên
nghề", Nguyễn Duy Thanh ở Paris, góp ư trên
Phụ Nữ Tân Văn số 119 (18-12-1932), đă
chỉ trích Phạm Quỳnh làm tối tiếng
Việt. Ông đưa ra những thí dụ những
tiếng Việt dễ hiểu như "màng ngăn
bụng, mạch máu nhỏ tí, mạch máu đi,
mạch máu về" hay "chung của" bị ông
Phạm Quỳnh thay thế bằng "hoành cách mô,
vi ti huyết quản, hồi huyết quản, khứ
huyết quản" và "cộng sản".
Theo ông, người Tàu phát âm ngọng v́ có những
âm không có trong tiếng nói của họ, nên đă
phiên âm sai nhiều danh từ riêng và địa lư như
Hoa Thịnh Đốn (Washington), Anh Cát Lợi (England),
Bỉ Lợi Th́ (Belgium), nay Phạm Quỳnh "theo
đuôi" người nói ngọng th́ lại càng
đi xa từ gốc (10).
Đó là người có học; c̣n người b́nh dân
chắc c̣n ít hiểu tường tận những
chữ như "ư thức hệ, thủy quân
lục chiến" dù họ nghe đă quen và biết
là nói cái ǵ. Gần đây các vị thuộc Văn
Bút hải ngoại chia rẽ "pháo" văn thư
và báo rơi qua lại một phần cũng v́ không
hiểu cùng một tŕnh độ (hoặc không
muốn hiểu, hoặc hiểu vầy vậy !) các
từ "nội quy, đại hội đồng,
xử lư thường vụ, vv".
Bản thân chúng tôi gần đây sau khi phổ
biến bài Miền Nam Khai Phóng trên báo chí, có người
đem bài lên mạng lưới internet khiến bài
bị (và được) ... chiếu cố khá
mạnh; cái "hic" là nhiều người đă
"tấn công" v́ hiểu sai chữ "khai-phóng"
(cởi mở, open mind) là "tiền phong, đi trước",
tựa bài bị dịch ra là "Pionneering South",
từ đó có người đội cho tác giả cái
mũ "kỳ thị Nam Bắc".
Rồi chính chữ quốc ngữ cũng trở thành
một trở ngại cho sự phát triễn kiến
thức, v́ so với chữ Nôm, chữ quốc
ngữ không "hồn", thường hay trùng
chữ trùng âm và không gợi h́nh, rất hợp cho tưởng
tượng thơ văn nhưng xa dần căn
bản ư nghĩa của văn tự dễ đưa
đến những diễn văn không nội dung
hoặc "ông nói gà bà nói vịt" !Văn
học Việt Nam cổ kim có những nhà văn thơ
lớn như Nguyễn Trăi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, vv tư tưởng tâm t́nh rất
tổng hợp về tín ngưỡng, về nguồn
cảm hứng.
Đến các tác giả miền Nam của thời văn
học quốc ngữ tiên phong cũng tỏ ra rất
tổng hợp và khai phóng về văn hóa. Văn
học đă tổng hợp, khai phóng, người
nghiên cứu không thể không có được cái
tinh thần chủ động căn bản của
nền văn học đối tượng nghiên
cứu đó.Văn học Việt Nam ngày nay phong phú
với nhiều thể loại đa dạng nếu so
với văn chương cổ điển Hán Nôm
thời lịch triều xưa: tiểu thuyết,
kịch nói, bút kư, hồi kư, báo chí, vv. Đây là
những h́nh thức diễn tả văn hóa của Tây
phương ta đă du nhập, khởi đầu
với các tác giả Thiên Chúa giáo v́ họ gần gũi
và theo đa số hay v́ tiện lợi phổ thông
(chẳng hạn vào thế kỷ XVII, giới tu sĩ
Công giáo đă viết chữ Nôm nhiều hơn
chữ quốc ngữ, như sẽ nói dưới
đây): thể nhật kư với Philipphê Bỉnh (Sách
Sổ Sang Chép Các Việc, thế kỷ XVIII), thể
kịch nói với Tuồng Cha Minh (1881), thể
khảo cứu về thể loại văn học
với Hồ Ngọc Cẩn tác giả loạt bài Thi
Phú Qui Pháp trên Nam Kỳ Địa Phận năm 1913
(Việt Hán Văn Khảo của Phan Kế Bính ra
đời 17 năm sau), thể kư sự với Trương
Vĩnh Kư (Chuyến Đi Bắc Kỳ Năm Ất
Hợi, 1876), thể truyện với Nguyễn
Trọng Quản (Thầy Lazarô Phiền, 1887), thể
hồi kư với Michel T́nh (Chơn Cáo Tự Sự, la
petite biographie de Michel T́nh par lui même, 1910).
Ba tác giả sau viết ngoài môi trường giáo
hội. Và trái với những ǵ nhiều người
vẫn nghĩ, người Việt đă tham gia tích
cực trong việc sáng chế ra chữ quốc
ngữ: thầy giảng Bento Thiện đă viết
về lịch sử nước ta từ năm 1659
bằng chữ quốc ngữ (11), và cuốn Từ Điển
Tabert là công tŕnh của các cộng tác viên người
Việt như linh mục Philippe Phan Văn Minh, tác
giả Phi Năng Thi Tập.V́ lẽ đó, những ǵ
chúng tôi nêu lên trong bài này, cũng như trong bài
Miền Nam Khai Phóng, chỉ nhắm bổ túc những
thiếu sót, khiếm khuyết và đưa ra một
số đặc thù văn hóa, xă hội chứ không
phải để chia rẽ, kỳ thị, v́ chúng tôi
chủ trương phải thống nhất tiếng
Việt.
Thống nhất đồng thời phải chấp
nhận có những đặc thù địa phương
phải tôn trọng. Về tiếng nói cũng như
văn học sử. Mặt khác phải có thái độ
chấp nhận, sát nhập những tác giả tác
phẩm của người Phật giáo, Công giáo, Cao
Đài, Phật giáo Ḥa Hảo vào ḍng văn hóa chung. Thơ
văn đời Trần có nội dung Phật giáo,
đời Lê và Nguyễn rất Nho giáo, đă là gia
tài văn hóa chung của người Việt, vậy
không lư ǵ thơ văn do người Công giáo
viết ra lại bị xếp loại ra ngoài.
Nay là thời đa văn hóa, đối thoại,
cảm thông, mà ngay từ thời lập quốc, dân
tộc ta từng tỏ ra rất bao dung và khai phóng:
đă qua rồi cái thời xem cái ǵ liên hệ đến
đạo là không phải dân tộc hay không phải
là văn hóa. Vả chăng, Phật, Chúa, Khổng hay
Lăo, đâu có tín ngưỡng hay tôn giáo nào xuất
phát từ Việt Nam; tổ tiên chúng ta đă đón
nhận và sống với các văn hóa, tư tưởng,
tôn giáo ngoại nhập qua bao thế kỷ, có
thời Phật Nho đă là quốc giáo, nhưng khi
xong nhiệm vụ vẫn trở về trong tâm linh người
Việt, một tâm linh tổng hợp, trong tinh
thần khai phóng, bao dung.Ở trong nước, từ
sau thời Đổi mới (1986), những người
nghiên cứu của một nền văn học
vẫn nỗi tiếng là "một chiều,
phải đạo, minh họa" đă có những
cố gắng thay đỗi cách nh́n và cách nghiên
cứu. Có thể nói nếu không có chính sách Cởi
trói văn hóa, đă không có những công tŕnh nghiên
cứu mới mẻ về nền văn học
Miền Nam trước thế kỷ XX. Hoàn cảnh
mới đă cho phép những phát hiện mới, mà
sau nhiều thập niên mù quáng v́ chiến tranh, có
những cái đă bị biến hủy nhưng cũng
có những nhận diện, cảm thông về
những cái tưởng đă chết hoặc yếu
đi như tôn giáo.
Vả lại, tôn giáo đă trở nên nguồn
sống của nhiều người, kể cả cán
bộ. Cuộc chiến chính thức tàn năm 1975,
những thất bại của chuyên chính từ 1975
đến 1986 đưa đến Cởi Trói như
một lối thoát dọ dẫm có cái hay là đă
tạo môi trường những cố gắng mới
với quan điểm mới hơn, dân tộc hơn,
tổng hợp hơn. Trong hoàn cảnh đó càng ngày
càng có những nghiên cứu trở về với
truyền thống dân tộc thật sự, đó là
điều nên mừng. Bước đầu khó khăn
đă có người đi, dĩ nhiên c̣n cần
nhiều nghiên cứu sâu xa và khách quan hơn nữa !
Nguyễn Vy Khanh
vnguyen@mtq.gouv.qc.ca
THAM-KHẢO:
Đỗ Quang Chính. Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ
1620-1659. Sài G̣n: Ra Khơi, 1972. 171 tr.
Nguyễn Khắc Xuyên. "Chữ quốc ngữ vào
năm 1838" Văn Lang số 4, 12-1992, tr. 117-124.
Thanh Lăng. 13 Năm Tranh Luận Văn Học (1932-1945).
3 tập. Tp HCM: NXB Văn Học, 1995. Nhờ bộ sưu
tập này mà người đọc có thể tham
khảo những bài báo đă đăng trên Hà
Nội Báo, IÙch Hữu, Phụ Nữ Diễn Đàn, Ngày
Nay, Tiễu Thuyết Thứ Bảy liên hệ đến
những cuộc tranh luận thời đó về văn
học, ngữ học và cả chính trị, thời
sự.
Về Sách Báo Của Tác Giả Công Giáo (Thế
Kỷ XVII-XIX). Tài liệu tham khảo.
Tp HCM: Trường Đại học tổng hợp tp
HCM. Khoa Ngữ Văn, 1993, 184 tr. Các tác giả:
Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Thanh Lăng, Vơ
Long Tê, Nguyễn Nhă, Trần Thanh Đạm, Phạm Đ́nh
Khiêm, Đỗ Như Thắng, Cao Xuân Hạo, Hoàng Châu
Kỳ. Chú thích:Tuyển tập Văn Học
Nghệ Thuật Liên Mạng, số 1 (9-1996), tr. 13-32.
Tạp chí Đi Tới số 30 (1-11-1996), tr. 46-53. Đặc
San Trung Học Mỹ Tho, số 1 (1997).
Quách Thanh Tâm. "Suy nghĩ về các truyện Nôm
khuyết danh thế kỷ 18" Tr. 152-161 IN 90 Năm
Nghiên Cứu Về Văn Hóa Và Lịch Sử
Việt Nam / 90 ans de recherches sur la culture et l'histoire du
Việt Nam. Hà Nội: NXB Xă Hội; École Francaise d'Extrême-Orient,
1995.
Phan Khôi. "Chữ quốc ngữ ở Nam kỳ
với thế lực của phụ nữ" Phụ
Nữ Tân Văn số 28 (7-11-1929). Trích từ 13NTLVH.
Sddd, t. 2, tr. 470.
Nam Phong, số 16, Octobre 1918, tr. 199. Trích lại từ
Thanh Lăng "Thử thiết lập hồ sơ
về hai người con gái: một con của
Phật, một con của Chúa" IN VSBCTGCG Sddd, tr.13.
VSBCTGCG. Sddd, tr 132.
Trích từ 13NTLVH Sddd, t 2, tr 473.
Ngoài ra trong di chúc viết ngày 28-11-1988, linh mục Thanh
Lăng đă xin lỗi các Giám mục và linh mục:
"Tôi công khai sám hối tất cả với t́nh
anh em linh mục mà tôi vô t́nh hay cố ư làm mất ḷng..."
(VSBCTGCG, tr. 182). Hy vọng vào dịp giỗ 10 năm
(1998) các công tŕnh hăy c̣n di cảo của ông sẽ
được xuất bản.
VSBCTGCG, Sddd, tr. 6
Xem thêm Vũ Văn Kính. "Vài nét sơ lược
về chữ Nôm miền Nam", tr. 328-331 IN 5 Năm Hán
Nôm 1991-1995. TpHCM: Trung Tâm Nghiên Cứu Hán Nôm, 1995.
Trích từ 13NTLVH Sddd, t. 2, tr. 100-118.
Tài liệu viết tay, 12 trang chữ nhỏ, khổ
20X29 cm. Phát hiện cũa linh mục Đỗ Quang Chính.
Sddd.
|