Vầng trăng từ độ lên ngôi

VM-Lê Văn Lân

Sau nhiều năm tha hương, tôi thường băn khoăn với ư tưởng: Những vầng trăng cũ đă thực sự chết rồi chăng? Phải chăng người Việt chúng ta đă bắt đầu quên cái thú ngắm trăng v́ tiêm nhiễm đầu óc thực tế máy móc của Tây phương nên khó mà cảm nhận cái biểu tượng sâu sắc của vầng trăng nói chung và vầng trăng thu nói riêng như tổ tiên dân Á Đông cổ truyền trong đó có ta vốn theo nền văn hóa Am lịch.

Cách đây 32 năm, vào tháng Bảy năm 1969, phi hành gia Mỹ Neil Armstrong đă đặt chân lên nguyệt cầu. và khám phá ra trên đó chỉ toàn là núi đá và những b́nh nguyên mênh mông mà nh́n từ trái đất lên cứ nghĩ là biển, nhiệt độ thay đổi từ – 180 độ C đến + 110 độ C. Một Tản Đà (1889 – 1939) nếu thọ thêm 30 năm, chắc không c̣n thi hứng 'Muốn làm Thằng Cuội' nữa:

Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!

Trần thế em nay chán nữa rồi.

Cung Quế đă ai ngồi đó chửa?

Cành đa xin chị nhắc lên chơi

...

Như vậy, khoa học thám hiểm đă giết chết những vầng trăng cũ trong tâm thức con người sao?

Tôi nghĩ rằng không! Con người Việt Nam hiện đại chấp nhận Dương lịch làm lịch chính thức, nhưng trong thâm tâm huyền bí, người ta vẫn theo Am lịch như ăn Tết, cúng bái, kỵ giỗ, kiêng cữ , bói toán tử vi ... và nhất là c̣n ngắm trăng, mừng trăng và làm thơ cùng triết lư về trăng.

Ai đâu trở lại mùa thu trước,

Nhặt lấy cho tôi những lá vàng.


Những chiếc lá vàng mà chúng ta t́m nhặt lại khi trở về quá khứ chính là những mảnh trăng xưa mà tôi kể dưới đây.

Vầng trăng âm lịch

Vầng trăng rất quan hệ đến sinh hoạt, tính khí và sinh lư của vạn vật trên mặt đất qua hiện tượng thủy triều và ảnh hưởng huyền bí trên mùa màng cây cỏ.

Về h́nh dáng và thời điểm xuất hiện của vầng trăng trong tháng được nhà nông kể thuộc ḷng theo vần theo điệu như sau:

Mồng một lá trai,

Mồng hai lá lúa,

Mồng ba câu liêm,

Mồng bốn lưỡi liềm,

Mồng năm liềm giật,

Mồng sáu thật trăng,

Mười rằm trăng náu,

Mười sáu trăng treo,

Mười bảy sảy giường chiếu,

Mười tám trăng lẹm,

Mười chín dụn dịn,

Hai mươi giấc tốt,

Hăm mốt nửa đêm,

Hăm hai bằng tai,

Hăm ba bằng đầu,

Hăm bốn bằng râu,

Hăm lăm bằng cầm,

Hăm sáu đă vậy,

Hăm bảy làm sao,

Hăm tám thế nào,

Hăm chín thế ấy,

Ba mươi không trăng.


Nông gia c̣n có những câu sau để tiên đoán việc nông tang:

Muốn ăn lúa rẻ, xem trăng rằm tháng giêng,

Muốn ăn lúa tháng 5, xem trăng rằm tháng 8

Muốn ăn lúa tháng 10, xem trăng mồng tám tháng 4


Ở Việt Nam, các vị túc-nho trước đây cũng quan sát
thiên văn trong sự ngắm trăng thu: 

Trăng sáng tỏa là điềm được mùa lúa sắp tới, trăng vàng đẹp là tằm sản xuất nhiều tơ. Màu Trăng xen hơi lục hay xanh là triệu chứng đói rét. Trăng vằng vặc ửng sắc da cam là dấu hiệu chỉ thái b́nh thịnh trị. Trăng lấm tấm chấm đỏ là điềm giới lănh đạo quốc gia bất lương u muội. Trăng lợn cợn nhiều h́nh nanh vuốt là điềm binh hỏa.

Vầng trăng mở hội liên hoan

Ngày rằm Trung thu rơi vào tiết Thu phân nên khí Âm và Dương điều ḥa với đêm ngày bằng nhau. Bàu trời quang đăng, khí hậu ôn ḥa nên người ta cảm thấy dễ chịu nhất trong năm. Hơn nữa, thu là mùa lúa chín, nên việc đồng áng rảnh rỗi.. Đây là dịp 'ăn mừng vầng trăng tập thể 'một cách cụ thể của tục lệ xă hội trong cảnh liên hoan náo nhiệt với tục rước đèn, múa lân, trong vị ngọt hương trà của tục ăn Nguyệt bính. Do đó, cá nhân không hẳn đă lấy con mắt và tâm hồn mà ' ngắm trăng' đúng nghĩa.

Vầng trăng của tâm thức

Người xưa đă ngắm trăng ra sao? Tại sao tôi nói 'người xưa' v́ 'người thời nay' đă thị thành hóa, cơ khí hóa, tự động hóa... đă không c̣n dịp sống với vầng trăng. Thời khóa biểu làm việc chật vật, những ngơ hẻm chật chội, những cao ốc hộp diêm, những đèn đường sáng trưng... đă làm người ta quên mất trăng!

C̣n người xưa Á Đông sống theo văn hóa âm lịch th́
vầng trăng hiện diện theo từng lớp tuổi:

*
Với nhi đồng là vầng trăng của bài ca 'Ông giẳng, Ông giăng ...', của những chuyện kể thần thoại về ' Thằng cuội', 'Hằng Nga' ' Thiềm thừ' 'Cung Quảng', của những tṛ chơi 'Thả đỉa ba ba', ' Rồng rắn Ông thầy', Phụ đồng chổi.. thổi lổi mà lên' dưới ánh trăng vàng vằng vặc.

*
Với lứa tuổi nam nữ yêu đương là những vầng trăng thề, trăng chia phôi, trăng nhớ nhung, trăng khắc khoải... Cuốn Kiều 3522 câu lục bát chỉ nhắc đến hai ba chữ ' nắng 'nhưng đă nhắc đến 38 chữ ' trăng' với bao nhiêu sắc vẻ trữ t́nh như trăng bạc, trăng già, trăng gió, trăng hoa, trăng khuyết, trăng mới. trăng tà, trăng tàn, trăng thâu, trăng thề, trăng tṛn ...

Nếu trong Kiều, câu tha thiết nhất là:

Trăng thề c̣n đó trơ trơ,

Dám xa xôi mặt, mà thưa thớt ḷng


th́ trong Chinh Phụ ngâm, có những câu

'Trăng khuya nương gối, bơ phờ tóc mai',

' Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,

Trước hoa, dưới nguyệt trong ḷng xiết đâu',

'Xông pha gió băi trăng ngàn,

Gươm treo đầu ngựa, dáo lan mặt thành'

và 'Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,

Mặt chinh phu trăng dơi dơi soi' '

đă làm cho tơ ḷng ta chùng hẳn lại v́ thương cảm.

Vầng trăng thiên cổ của người xưa

Riêng về
lớp tao nhân mặc khách Á Đông th́ ' vầng trăng thiên cổ' là cả một nguồn thi hứng để cảm hoài sáng tác. Họ đă ca tụng trăng khi nghe đờn hát của đám ca nhi, khi tiệc tùng chè chén, khi ngắm hoa, khi lên núi cao, khi dong thuyền trên sông nước.... Những áng văn nổi tiếng của những thi hào Trung Quốc đều được sáng tác dưới trăng :

Trong bài Tương tiến tửu, thi bá Lư Bạch khuyến khích người ta:

Nhân sinh khi đắc ư nên càng,

Khôn nỡ để chén vàng trơ dưới nguyệt.

Trong Tỳ bà hành (mùa thu năm 816 CN), Bạch Cư Dị đă tả:

Thuyền không đậu bến mặc ai,

Quanh thuyền trăng giăi, nước trôi lạnh lùng.


Tô Đông Pha trong hai bài Tiền Xích bích phú và Hậu Xích bích bất hủ sáng tác vào mùa thu năm Nhâm Tuất (năm 1082) đă tạo một ảnh hưởng sâu đậm trên những thi sĩ của Việt Nam thời trước với tinh thần khinh khoái của tư tưởng Lăo Trang mà chúng ta có thể coi như một thứ triết lư hiện sinh cổ thời . Trên cảnh sông nước Trường giang dưới ánh trăng thu, Tô Đông Pha đă luận về thân phận phù du của con người trong vũ trụ mênh mang bất diệt để kết luận với cái triết lư hưởng lạc trước mắt trong kho tàng thiên nhiên vô tận:

Nước kia vẫn xuôi gịng chẩy xiết,

Mà chưa từng đi hết chút nao!

Trăng kia có lúc đầy hao,

Mà ta chưa thấy khi nào bớt thêm

Cứ lúc biến mà xem trời đất,

Th́ chẳng qua chớp mắt mà thôi.

Cứ khi không biến mà coi,

Th́ ai ai cũng lâu dài như nhau

...

(Tiền Xích Bích Phú dịch nôm của Đào Nguyên Phổ)

Đọc lại
cổ thi Việt, hậu sinh gặp những bài ca trù ngâm phong vịnh nguyệt hàm chứa cái quan niệm triết lư nhân sinh Lăo Trang của Trung Hoa như:

...Thảnh thơi gió mát trăng trong,

Bức tranh sơn thủy một vùng cỏ hoa.

Thú này ai dễ hơn ta

(trích Của kho vô tận - Nguyễn Quí Tân)

_ ...Rượu một bầy, thơ ngâm một túi;

Góp gió trăng làm bạn với non sông;

Núi kia tạc để chữ đồng,

Trăng kia nhớ mặt anh hùng này chăng?


(Núi cao trăng sáng của Cao Bá Quát)

_ ...Sẵn non sông kia với gió trăng,

Mượn cảnh trí thung thăng là sở thích

(Chữ Nhàn của Nguyễn Công Trứ)

Vầng trăng trữ t́nh trong thơ mới

Vầng trăng thiên cổ của cổ nhân là 'vầng trăng ước lệ' với từ ngữ cô đọng theo khuôn sáo. Cho đến khi phong trào thơ mới nở rộ ở Việt Nam thời tiền tiền chiến, th́ ' vầng trăng trở nên trữ t́nh ' bắt đầu len lỏi trong tâm hồn và dàn trải ra theo từng giai điệu của mỗi thi nhân.

C̣n lưu luyến với tứ thơ cổ điển, Quách Tấn viết:

Một luồng sương bạc bỗng từ mô,

Lẻn cuốn vầng trăng cuốn mặt hồ


(Dalat dêm sương) .

Đến với Lưu trọng Lư, th́ trăng vẫn là trăng cổ điển mộng mơ một trời kỷ niệm:

Vầng trăng từ độ lên ngôi,

Năm năm bến cũ em ngồi quay tơ..


(Thơ sầu rụng)

Nhưng đối với Xuân Diệu th́ trăng lên đến đỉnh cao và lộ ra với nhiều sắc vẻ hơn cả:

Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá

Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ


(Trăng - Thơ Thơ)

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời,

Tương tư nâng ḷng lên chơi vơi


(Nhị hồ - Thơ Thơ)

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần

(Nguyệt cầm - Thơ Thơ)

Cuối cùng, đến với Hàn Mặc tử th́ Trăng trong hồn thơ bệnh lư điên loạn của ông hoàn toàn không c̣n là ánh sáng nguyệt cầu của phàm nhân nữa mà là một thực thể để ông ôm, ngủ, ngậm hớp, cắn, sờ sẫm:

Bóng nguyệt leo song sờ soạng gối

(Đêm không ngủ)

Hôm nay có một nửa trăng thôi,

Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi


(Một nửa trăng)

Trăng nằm sơng soăi trên cành liễu

... Trần truồng tắm, Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.


(Bẽn lẽn)

Cả miệng ta, trăng là trăng

(Một miệng trăng)Thay lời kết:

T́m đâu lại ánh trăng?


Sống vào đầu thế kỷ 21 trong một xă hội hiện đại, chúng ta có thể t́m lại trăng không? Tôi nghĩ vầng trăng tâm thức vẫn c̣n nếu ta biết cách t́m lại. Cách đó là t́m học lại chữ Nhàn trong triết lư Á Đông qua lời thơ ca trù của Nguyễn Công Trứ.

Thị tại môn tiền náo,

Nguyệt lai môn hạ nhàn *

So lao tâm, lao lực một đoàn

Người nhân thế muốn nhàn sao được?

Nên phải lấy chữ Nhàn làm trước,

Dẫu trời cho có tiếc cũng xin nài!

Chợ họp trước cửa th́ huyên náo,

Trăng soi trước cửa th́ thanh nhàn.


Chiết tự chữ Nho th́ chữ Thị là chợ viết trong chữ Môn là cửa đọc thành chữ Náo; Chữ Nguyệt ở trong chữ Môn là chữ Nhàn. Đúng thế, nói bóng bẩy, nếu chúng ta biết tạm dẹp 'cái chợ lư trí' trong đầu óc chúng ta đầy rẫy với bao cơ mưu toan tính sau những giờ làm việc để cố mở lại 'cơi ḷng thảnh thơi' th́ vầng trăng sẽ soi rọi lại thôi. Ai ơi, hăy mở cửa sổ tâm hồn ra để đón lại nguồn trăng.