Nhận diện Văn học Thăng Long Mười thế kỷ

Nguyễn Huệ Chi

I

Văn học Thăng Long - mấy tiếng ấy thật có sức gợi cảm đối với bạn đọc, nhưng mặt khác cũng không phải không gây nên trong nhiều nhà nghiên cứu một đôi điều thắc mắc nghi ngờ. Có thật đă từng tồn tại trong lịch sử văn học dân tộc bao nhiêu đời qua một khu vực riêng biệt gọi là văn học Thăng Long, và mọi sáng tác thuộc khu vực này, tự chúng đă mang một xu thế không cưỡng được là cố kết lại với nhau? Hay đây cũng là một danh từ giống như những cụm từ có phần tương tự : "văn học Kinh Bắc", "văn học Nghệ - Tĩnh", "văn học Sơn Nam hạ" v.v. vốn chỉ là những khái niệm nặng tính chất thống kê, ra đời do yêu cầu tập hợp văn học theo đơn vị "vùng" mà bộ môn địa lư học lịch sử, đặc biệt là địa phương chí, phát triển sôi nổi khoảng vài thập kỷ lại đây, bắt buộc đ̣i hỏi?

Lẽ tự nhiên, nếu hiểu theo một nghĩa hẹp nào đấy th́ khái niệm "văn học Thăng Long" cũng không khác bao nhiêu so với những khái niệm về các vùng văn học mà ta vừa dẫn. Là một khu vực địa lư trong hàng mấy chục khu vực khác nhau được đăng kư từ lâu đời trên bản đồ Đại Việt, mảnh đất Thăng Long cũng đă có vinh dự sản sinh ra nhiều cây bút tài danh đóng góp vào lịch sử văn học dân tộc, và khi cần tập hợp họ lại theo sinh quán, ta không thể gọi họ bằng một khái niệm nào khác hơn, rằng đó là những văn nhân - danh sĩ Thăng Long.

Thế nhưng, hiểu "văn học Thăng Long" theo nghĩa hẹp h́nh như vẫn chưa phải là cách hiểu cần được minh giải cặn kẽ đối với chúng ta, bởi khả năng hàm chứa của mấy chữ "văn học Thăng Long" lại chủ yếu không phải là ở đấy. Người ta sẽ tự hỏi : vấn đề văn học Thăng Long có thể nào nh́n nhận đơn thuần như văn học của bất kỳ một địa phương nào trong nước, khi mà mối quan hệ giữa mảnh đất Thăng Long với cả nước trong thực tế lịch sử không phải là mối quan hệ giữa một khu vực với cả cộng đồng? Hoàn toàn đúng thôi! Kể từ đầu thế kỷ XI, Lư Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, đổi tên Đại La thành Thăng Long, từ đấy Thăng Long nghiễm nhiên là "nơi tụ hội của bốn phương đất nước" (Chiếu dời đô) - một trung tâm đô hội bậc nhất trong suốt chiều dài lịch sử gần mười thế kỷ. Đây chính là đặc điểm mà ngay hai trung tâm đô hội khác là Sài G̣n - thủ phủ của Lục tỉnh Nam Kỳ, và Phú Xuân (Huế), Kinh đô của triều đại Nguyễn, dù về nhiều mặt có thể tương đương thậm chí vượt hẳn Thăng Long, riêng mặt này cũng không thể sánh được. Và với ưu thế có một không hai như vậy, nói đến "văn học Thăng Long" hẳn phải tính đến một cái ǵ khác hơn là sự tập hợp của những nhà văn cùng sinh quán, một sự thăng hoa theo nhiều cấp độ khác nhau, dù là nh́n ở số lượng hay chất lượng, và nếu không đạt được sự thăng hoa này th́ rơ ràng lịch sử thiếu sót biết chừng nào!

Hăy nh́n ở sự thăng hoa về số lượng. Không thể không thừa nhận bằng vị trí đặc biệt nói trên, Thăng Long đă thường xuyên mang trong nó hai khả năng phát triển song song về văn hóa: khả năng tự sản sinh ngay trong ḷng nền văn hóa Thăng Long (khu vực) và khả năng thu hút các thành tố văn hóa mới mẻ từ mọi miền đất nước dồn về. Thăng Long vào buổi b́nh minh của chế độ phong kiến tự chủ đă xuất hiện một khuôn mặt kỳ vĩ - khuôn mặt người anh hùng Lư Thường Kiệt (1019-1105), tức Ngô Tuấn, sinh ra và lớn lên ở phường Cơ Xá, về sau là đất cấm thành, với chiến công lẫy lừng đánh Tống và với hai áng văn thuộc loại tác phẩm khai sáng cho nền văn học viết dân tộc: bài thơ huyền thoại Nam quốc sơn hà và hịch Lộ bố văn. Nhưng Thăng Long vào thời đại đó cũng tự hào đón nhận Lư Công Uẩn (974-1028), tức Lư Thái Tổ, ông vua mở đầu triều đại Lư, với tác phẩm văn xuôi bất hủ Chiếu dời đô. Có lẽ nào chỉ v́ Lư Công Uẩn vốn quê đất Kinh Bắc mà gạt Chiếu dời đô ra khỏi "văn học Thăng Long", trong khi chính áng văn này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của lịch sử văn hiến Thủ đô ? Thăng Long vào hai thế kỷ XIII và XIV là nơi quy tụ những nhân tài kiệt xuất thuộc ḍng dơi họ Trần, vốn quê gốc ở Thiên Trường (Nam Định), đến thay chân nhà Lư mở ra triều đại Trần cường thịnh, đồng thời cũng cung cấp cho văn học cả một "dàn hợp xướng" đa giọng điệu - có sáng tác yêu nước, có sáng tác Phật giáo, có sáng tác trữ t́nh - với không ít tên tuổi chói lọi: Trần Thái Tông (1218-1277), Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (?-1300), Trần Quang Khải (1241-1294), Trần Thánh Tông (1240-1290), Trần Nhân Tông (1258-1308), Trần Minh Tông (1300-1357), Trần Quang Triều (1287-1325)... Hẳn không v́ đây là những con người xuất thân dân chài vùng Tức Mặc mà văn học Thăng Long đành bỏ trống cả một thời đại rực rỡ, thung dung ḥa quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo, và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ lục, thi ca? Thăng Long vào thế kỷ XV chứng kiến hai tầm vóc tiêu biểu đứng đối cực với nhau ở hai đầu thế kỷ - Nguyễn Trăi (1380-1442) và Lê Thánh Tông (1332-1497). Cả hai người có lẽ đều sinh và mất ở Thăng Long, nhưng nếu truy nguyên quê quán th́ họ đều không phải là dân Thăng Long quê gốc. Họ trở thành những nhà văn nổi tiếng bậc nhất Thăng Long và cả nước, góp phần quyết định cho sự trưởng thành của thơ nôm dân tộc. "Văn học Thăng Long" chẳng lẽ lại cố t́nh gạt bỏ họ ? ấy thế mà lịch sử đă đặt họ lên đất Kinh đô như một tất yếu. C̣n nhiều nữa. Vào thế kỷ XVIII, chúng ta có thiên kư sự đột xuất Thượng Kinh kư sự của Lê Hữu Trác (1720-1791) - một thầy thuốc người Hải Dương và mai danh ẩn tích lâu năm tại Nghệ - Tĩnh; có cuốn tiểu thuyết giàu chất liệu thời sự nóng hổi Hoàng Lê nhất thống chí của ḍng họ Ngô Th́ - một ḍng họ lớn ở Tả Thanh Oai, lúc bấy giờ c̣n thuộc trấn Sơn Nam; có những cuốn tùy bút danh tiếng Vũ trung tùy bút của Phạm Đ́nh Hổ (1768-1839) - người làng Đan Loan (Hải Dương) đến trú ngụ ở phường Hà Khẩu; có Tang thương ngẫu lục của Phạm Đ́nh Hổ và Nguyễn Án (1770-1815) - người làng Vân Điềm (Kinh Bắc). Phải chăng có thể loại ra ngoài "văn học Thăng Long" những tác phẩm trên v́ lư do quê quán tác giả, mà không cần biết rằng đó là những sáng tác hiếm có viết về cuộc sống hiện thực của Thăng Long trong cơn giông băo của lịch sử Việt Nam những năm 70 và 80 của thế kỷ XVIII ? Và chỉ cách đây mới hơn một thế kỷ thôi, ngay giữa Thăng Long c̣n tơi bời đạn lửa sau một buổi cầm cự với cuộc tập kích lần thứ hai của quân xâm lược Pháp (1882), có một vị Tổng đốc người Quảng Nam trước khi quyên sinh v́ nghĩa đă để lại một bài Biểu trần t́nh. Bài biểu không phải là một bức tranh sinh hoạt về xă hội Thăng Long nhưng lại mang đầy đủ sinh lực của Thăng Long vào một thời điểm nóng bỏng nhất. Đó là tiếng khóc anh hùng về một Thăng Long anh hùng trong giờ thất thủ. Có thể nào v́ Hoàng Diệu (1828-1882) người Quảng Nam mà "văn học Thăng Long" không thừa nhận tiếng khóc lẫm liệt ấy ?

Quả t́nh không thể chỉ bó hẹp khái niệm "văn học Thăng Long" trong bộ phận văn học do những người sinh trưởng ở đây viết ra mà c̣n phải đưa vào khái niệm đó những tác phẩm ưu tú của biết bao con người từ bốn phương đất nước hội tụ về, coi Thăng Long - Hà Nội là quê hương ḿnh, viết một cách sâu sắc về Kinh đô và cống hiến những năng lực sáng tạo hết ḿnh cho mảnh đất yêu dấu này. Nếu vẻ đẹp riêng của mỗi vùng đất đă tạo nên những giá trị lớn lao cho những tác phẩm viết về vùng đất ấy, th́ vẻ đẹp Thăng Long hẳn cũng không thể đẹp hơn một vùng nào khác, v́ trên đất nước ta, nơi đâu mà chẳng có một hương vị riêng không nơi nào có. Nhưng nếu vẻ đẹp khách quan của một vùng đất phải thông qua người nhận thức cái đẹp, tức là chủ thể thẩm mỹ, mới trở thành cái đẹp trong sáng tạo nghệ thuật, th́ phải nói Thăng Long có một ưu thế trội hơn hẳn, v́ t́nh yêu đối với Thăng Long không c̣n là sở hữu riêng của những người sinh ra tại Thăng Long - Hà Nội mà là của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu quư Thủ đô.

Tất nhiên, nói đến chiều hướng thu hút nhân tài, thu hút các thành tố văn hóa ở mọi miền về Thăng Long không phải chỉ tính đến những con số cộng. Mà ở đây nhất thiết phải dẫn đến một sự thăng hoa về chất, một sự bồi đắp cho những yếu tố cổ truyền bằng yếu tố hiện đại, một sự chuyển hóa, đổi mới do giao lưu, vận động, làm cho văn hóa trở thành nhu cầu sinh tồn thực sự, thành sự sống hàng ngày. Trong mối giao tiếp thường xuyên của nhiều ḍng tư tưởng, trong sự chen đua của tài năng sáng tạo, sinh hoạt văn hóa Thăng Long trước sau thế nào cũng xuất hiện những sự kiện có ư nghĩa đổi mới, có sự "bùng nổ" mà phạm vi ảnh hưởng không c̣n chỉ bó hẹp trong địa bàn Thăng Long. Ta nói đến một Lư Công Uẩn được đón nhận vào "văn học Thăng Long" như một trong những người viết áng văn xuôi sớm nhất. Nhưng cùng nhập tịch vào Thăng Long với Lư Công Uẩn c̣n có cả một nền văn hóa Phật giáo vốn sinh hoa kết quả lâu dài trên đất Kinh Bắc, nơi chôn rau cắt rốn của họ Lư và phải với môi trường Thăng Long, thành tố văn hóa này mới được cải tạo lại, trở nên năng động, có sinh khí hơn, để trở thành một h́nh thức sinh hoạt văn hóa phổ biến trong cả nước, phản ánh được cái bản sắc độc đáo của đời sống tư tưởng Việt Nam thời Lư - Trần. Ta cũng đă nói đến Nguyễn Trăi và Lê Thánh Tông, hai cây đại thụ trong văn học thế kỷ XV. Nhưng điều cần nói thêm là với hai nhân vật này, đặt trong môi trường xă hội trí thức Thăng Long ở thế kỷ XV, đă h́nh thành nên hai văn phái sớm nhất trong lịch sử, góp phần đưa văn chương Việt Nam đi vào những chuẩn mực ổn định - một văn phái yêu nước thân dân, lấy thiên nhiên làm đối tượng gửi gắm tấm ḷng ưu ái, với Nguyễn Trăi, Phan Phu Tiên (?-?), Nguyễn Mộng Tuân (?-?), Lư Tử Tấn (1378-1458), Vũ Mộng Nguyên (1394-?) và một Tao đàn nhị thập bát tú có tính chất cung đ́nh, ca ngợi "vua sáng tôi hiền", "giang sơn cẩm tú"..., với Lê Thánh Tông, Thân Nhân Trung (1418-1499), Đỗ Nhuận (1446-?), Thái Thuận (1441-?), Lương Thế Vinh (1460-?) cùng nhiều triều thần hay chữ khác.

Chỉ thu hẹp trong cá nhân một nhà trí thức - nghệ sĩ nào đấy, sự thăng hoa cũng đă thấy rơ. Ta nói đến Lê Quư Đôn (1726-1784) ở thế kỷ XVIII, một nhân vật có tầm vóc uyên bác ít thấy xưa nay, nhưng Lê Quư Đôn sẽ không là Lê Quư Đôn nếu ông không sớm rời bỏ "lối học luộm thuộm" ở tỉnh nhà để lên Kinh đô ngay từ lứa tuổi 15, chọn học những nhà trường nổi tiếng ở Kinh đô, học một cách có phương pháp "với những ông thầy giỏi nhất" (Ngô Th́ Sĩ). Nói Thăng Long rèn đúc nên nhà bác học họ Lê hẳn cũng chẳng phải là nói ngoa mấy tí. Ta lại cũng nói đến một Nguyễn Du (1768-1820) thiên tài, xuất hiện như một ngôi sao làm rạng rỡ hẳn bầu trời văn học dân tộc; Nguyễn Du ấy với bút pháp hiện thực trữ t́nh có một, như nhiều người đă từng nhận định, quyết không thể có được nếu chỉ là một chàng trai suốt đời ở xứ Nghệ, nếu không tiếp thu được từ tuổi nhỏ cái cốt cách đa t́nh của người mẹ, một cô gái vùng quê Kinh Bắc, đặc biệt nếu không từng có một thời trai trẻ sống trong xă hội hào hoa ở Thăng Long, tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long. Nguyễn Du không chỉ đem lại cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Thăng Long, Người gảy đàn ở Long Thành... Chính Thăng Long đă góp phần h́nh thành nên thiên tài Nguyễn Du và cũng làm cho những giá trị của thiên tài trở thành tiêu biểu, vượt lên tầm cả nước.

Cho nên, cũng khó nói trong mối quan hệ giữa "nội sinh" và "ngoại nhập" của văn học Thăng Long, yếu tố nào là chính, yếu tố nào là phụ. Hai phương diện này đă gắn bó, tác động lẫn nhau trong đời sống thực tiễn, làm cho văn học nghệ thuật sinh hoa kết quả, và làm cho mọi thành tựu càng được nhân lên. Tài năng của một Đặng Trần Côn (?-?) (Thăng Long) đă kêu gọi tài năng của một Đoàn Thị Điểm (1705-1748) (Kinh Bắc), và đến lượt Đoàn Thị Điểm lại kêu gọi rất nhiều tài năng khác, những Phan Huy ích (1751-1822) (Sơn Tây), Nguyễn Khản (1734-1786) (Nghệ - Tĩnh)... những người đă sống quá nhiều trong những thế giới đài các kiểu nàng chinh phụ, lại cũng hiểu quá rơ tâm sự chàng danh sĩ làng Mọc ngán chiến tranh đến phải đào hầm xuống nằm đọc sách kiểu Đặng Trần Côn. Thi tài của một chàng nho sinh họ Cao đất Hà Nội đă làm cảm động một thi tài khác ở Phú Xuân: Miên Thẩm (1819-1870), và bằng t́nh bạn chân thành với Cao Bá Quát (1808-1855), anh em Miên Thẩm đă có dịp hiểu rơ hơn về người và cảnh Hà Nội, sau này có dịp ra Hà Nội họ đă có những bài thơ đầy xúc cảm về phong cảnh Hồ Tây.

Về một phương diện khác, là nơi góp mặt của nhiều thế hệ danh nhân tứ xứ, cũng có thể nghĩ rằng môi trường văn hóa Thăng Long là miếng đất thuận lợi để tạo ra sự đối chọi giữa nhiều kiểu dạng tài năng rất khác nhau, và đối chọi chính là điều kiện để văn học Thăng Long, hơn bất kỳ một vùng miền nào khác, không xuôi chiều đơn điệu mà thường khi vẫn tồn tại những xu hướng, những phong cách trái ngược, làm cho bộ mặt văn học sống động hẳn lên, và tiếng nói văn chương trở nên đa nghĩa. Thi tài viết phú "thêu hoa dệt gấm" của một Nguyễn Huy Lượng (?-1808) chẳng đă kích thích khả năng khích bác, ỡm ờ của một ngọn bút trữ t́nh như Phạm Thái (1777-1813) mà ngày nay b́nh tâm mà xét, cái ngôn ngữ chửi đổng chua ngoa đó không phải không làm cho thể phú mở ra một giọng điệu mới : sự bác học hóa ngôn ngữ thông tục b́nh dân trong văn phú. Cũng như hồn thơ mực thước, tao nhă đến gần như khép kín của một bà huyện Thanh Quan (?-?) biết đâu lại không phải là sự phản ứng gián tiếp và từ trong vô thức đối với giọng thơ trẻ trung, nghịch ngợm, chói gắt đến sỗ sàng của một Hồ Xuân Hương (?-?) ? Chấp nhận được tất cả mọi sự đối nghịch ấy, để chúng cùng sinh sôi nảy nở, đó mới là bản lĩnh của văn học Thăng Long. Cũng vậy, trước đây, chỉ xem xét văn học đơn thuần bằng sự quy chiếu của hệ tư tưởng, ta chẳng đă từng đặt các ḍng, phái của văn học Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX vào những nấc thang giá trị không thực, cứ làm như có thơ ca cách mạng th́ phong trào "thơ mới" không c̣n bao nhiêu ư nghĩa, có các nhà văn hiện thực th́ có thể quay lưng lại với Tự lực văn đoàn, có Đông Kinh nghĩa thục th́ Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí trở thành những con số không... Ta cũng dễ dàng quy kết với thái độ không mấy thiện chí, rằng nhóm Xuân thu nhă tập là siêu h́nh siêu thực, là tắc tỵ về chữ nghĩa, rằng tạp chí Thanh nghị là diễn đàn của thượng lưu tư sản, tạp chí Tri tân là chui vào tháp ngà phục cổ, là viện dẫn tờ a tờ b không ích ǵ cho cuộc sống xung quanh... Sự thật, quy luật diễn biến của một trung tâm văn hóa như Hà Nội đă bác bỏ cái nh́n thiển cận của chúng ta, bởi lẽ đời sống tinh thần càng phong phú bao nhiêu th́ nhu cầu và thị hiếu đối với văn hóa, văn học nghệ thuật của con người lại càng không đơn giản, không phải chỉ cần nhắm mắt tin theo một trường phái, một khuynh hướng nào đấy như một thứ thánh kinh là đủ. Mà đây mới là xu thế phát triển hợp quy luật của hiện đại hóa, là sự đ̣i hỏi vươn tới tất nhiên, nhằm thỏa măn trí tuệ nhiều mặt của con người hiện đại. Sự bộn bề của văn học Hà Nội thời này chứng tỏ dung lượng của nó có một bước phát triển vượt lên so với giai đoạn trước cũng như so với tầm cả nước. Nó bao chứa hết những vấn đề của thời đại, và đủ sức tiếp nhận, thanh lọc và chưng cất mọi giá trị.
 
 

II



Vậy th́, có thể hiểu tâm hồn, cốt cách Thăng Long - Hà Nội trong văn học là ǵ? Nếu không phải đó là cái ǵ được tinh kết từ mọi con người đă t́m về đây hiện diện? Thăng Long là biểu tượng chung của quốc gia, tâm hồn Thăng Long mang những nét đặc trưng cho tâm hồn của cả cộng đồng dân tộc, và văn học Thăng Long - Hà Nội cũng chính là phần tinh hoa nhất, là trái tim văn học của cả cộng đồng. Đă đành, nói như thế không có nghĩa là đánh đồng cái phần tiêu biểu của văn học cả nước với văn học Thăng Long. Trước sau vẫn phải tính đến một tiêu chí có ư nghĩa khu biệt : văn học cả nước là văn học đă tổng ḥa thành bản sắc Việt Nam c̣n văn học Thăng Long th́ lại thể hiện bản sắc Việt Nam chủ yếu thông qua cái tươi rói của tính cách "Tràng An" độc đáo, trong đó in sâu tư chất, lối sống, cách giao tiếp, tập quán xă hội... của con người Thăng Long nhiều đời. Chỉ cho ra cái tính cách "Tràng An" độc đáo này là điều không dễ, nhưng với sự trải nghiệm của lịch sử, ta cũng có thể phần nào cảm nhận được nó thông qua những biểu hiện có tính  định lượng, những ǵ là đặc điểm bộc lộ ra bên ngoài. Có thể nói, đây là một nền văn học vừa nặng tính chất chính thống quan phương lại vừa chứa đựng tiềm năng dân chủ hóa, vừa giàu chất trí tuệ lại vừa đậm sắc thái trữ t́nh.

Tính chính thống, quan phương của văn học Thăng Long bắt nguồn từ một thực tế: Thăng Long là nơi dựng nghiệp của nhiều vương triều, cũng là nơi phát ngôn bằng văn chương bút mực của chế độ thống trị qua nhiều thời đại. Các bậc vua chúa hay chữ, các trí thức tài hoa gắn ḿnh với chế độ... đă khởi đi từ Thăng Long một ḍng văn học chính thống, mang chức năng tuyên truyền chính trị, và người dân Thăng Long cũng dần dần quen nhạy cảm với chính trị qua thơ văn. Do uy tín và cả quyền lực của người cầm bút, do tính cấp thiết của đề tài chính trị vào thời điểm phát ngôn, văn chương chính trị thường được tôn sùng hơn nhiều loại h́nh văn chương khác, và dạng thức nhà văn trữ t́nh chính trị(1) là dạng dễ được ca ngợi trong văn học Thăng Long từ cổ đại đến nay. Cũng giống như cuộc đời của một con người, Kinh đô đă trải nhiều phen dâu bể, không ít những chặng thăng trầm, đau khổ xen lẫn niềm vui, gắn liền với số phận của đất nước. Thời nào cũng có những nhà chính trị đại diện cho những thế lực nhất định, dùng thơ văn làm lợi khí để cổ vũ dân chúng tin theo đường lối của họ, nhằm ban bố một "tân chính sách", tôn phù một "đấng minh quân" hoặc đánh đổ một ḍng họ "tiếm quyền" đang ngự trị... Nhưng chỉ có những cuộc đấu tranh chống xâm lăng trong trường kỳ lịch sử là quan hệ trực tiếp đến vận mệnh hàng triệu con người, nên văn chương kêu gọi chống giặc cứu nước cũng đọng lại trong tâm can người đọc sâu bền hơn cả. V́ thế, với thời gian, nhiều đề tài nóng hổi một thời đều lần lượt rơi rụng, duy có ḍng văn học yêu nước chống xâm lăng với những hịch, cáo, thơ, phú, biểu, chiếu, tuyên ngôn... là vẫn lung linh giá trị.

Như một nghịch lư khó tin, văn học Thăng Long nặng tính chính thống quan phương mà lại cũng giàu tiềm năng dân chủ. Nhưng sự thực là thế, hầu hết mọi vương triều nối tiếp ở Thăng Long, khi chưa đi vào suy thoái, đều không ít th́ nhiều biết đặt cái gốc ở dân. Cho nên yếu tố dân chủ sơ khai, hiểu theo một nghĩa nào đấy, vốn không phải nảy sinh từ dưới lên mà mới đầu cũng được manh nha từ trên, từ các nhà chấp chính, các bậc thức giả của cung đ́nh dội xuống. Khái niệm "dân" được Lư Thường Kiệt khởi đầu trong Lộ bố văn, Trần Quốc Tuấn nhấn mạnh trong Di chúc, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông thể nghiệm trong Hội nghị B́nh Than và Hội nghị Diên Hồng (1284), Trần Minh Tông nhắc đến trong Nghệ An hành điện, Trần Nguyên Đán (1325-1390) hoài vọng trong Nhâm dần niên lục nguyệt tác, Nguyễn Trăi tổng kết trong B́nh Ngô đại cáo và trong nhiều bài thơ chữ Hán... đều là kết quả của việc vận dụng lư thuyết "dân vi quư" của Nho giáo, cộng với sự chiêm nghiệm sâu sắc trong hoạt động thực tiễn của từng người. Dưới thời Lư - Trần, cảm hứng dân chủ sơ khai c̣n nằm trong tiềm thức người lănh đạo đất nước nhờ họ đều thấm nhuần tư tưởng b́nh đẳng bác ái của Phật giáo. Lời khuyên của vị quốc sư Phù Vân ở trên núi Yên Tử đối với vua Trần Thái Tông chắc chắn đă trở thành một mục tiêu trị nước của nhà vua trong suốt những năm ông chấp chính.

Lâu về sau, cùng với các bước tiến của lịch sử, một đội ngũ trí thức tương đối tự do sẽ dần dần xuất hiện trong xă hội Thăng Long(2), kế tục phát huy các yếu tố dân chủ buổi đầu thêm một bước, làm cho chúng từ chỗ chỉ mới là vô thức (Phật giáo), hoặc mới như những cái khuôn xa lạ áp đặt vào đời sống người Việt (Nho giáo), bỗng trở thành có đường nét tư tưởng cụ thể và bắt rễ vào đời sống tinh thần như những nhân tố nội sinh. Lời bàn về Lẽ hưng vong trị loạn của Thiền sư Nguyễn Nguyên Ức, Thất trảm sớ của Chu Văn An (1299-1785), Thôn cư cảm sự tŕnh Băng Hồ tướng công của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428), Biểu dâng 14 điều nói thẳng của Lương Đắc Bằng (1472-?), Thư xin chém 18 lộng thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1872), Khải can gián Trịnh Tông của Phạm Nguyễn Du (1740-1785), Sớ điều trần của Nguyễn Văn Siêu (1799-1872), Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa thục (1907), những bài diễn văn nổi tiếng của Hội nghị báo giới Bắc Kỳ (1937)... đều nói lên sức bền của truyền thống ấy. Tất nhiên, giữa cái mầm mống dân chủ của thời cổ đại và những tư tưởng dân chủ ở thế kỷ XX đă có một sự đổi thay về chất, nhờ bước chuyển quan trọng từ phạm trù văn hóa phương Đông sang quỹ đạo văn hóa châu Âu. Nhưng trong tinh thần lơi cốt, bước chuyển ấy vẫn không dẫn đến một sự đoạn tuyệt với quá khứ, đúng hơn, sự kế tiếp trước và sau vẫn diễn ra nhuần nhị, hữu cơ, trong đó bản sắc của truyền thống dưới h́nh thức này hay h́nh thức khác, được bảo lưu một cách khá rơ ràng.

Lâu nay ta hay nhắc đến mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" với ư nghĩa đây là những người nhiều chữ nghĩa và giàu khí khái. Nói cho cùng, "sĩ phu Bắc Hà" cũng là sĩ phu Thăng Long v́ chỉ có trong môi trường học vấn Thăng Long xưa kia chứ không phải ở đâu khác, chữ nghĩa mới được đào tạo bài bản, và khí khái, được ươm mầm từ những truyền thống dân chủ có sẵn, mới trở thành một bản ngă, một sự sành sỏi đến mức lưu danh. Vào năm 1073, dưới triều ông vua Lư Nhân Tông non trẻ, Thái úy Lư Thường Kiệt đă tổ chức thành công một cuộc chính biến động trời, giết Dương Thái hậu và 72 cung nữ, đưa Nguyên phi ỷ Lan lên nhiếp chính, và giáng chức Tể tướng Lư Đạo Thành vốn đang đầy uy vọng, bắt ông về Nghệ An để ḿnh thay quyền. T́nh thế của nhà Lư trở nên bất ổn. Thế nhưng chỉ một năm sau (1074), cũng lại chính Lư Thường Kiệt đă cho mời Lư Đạo Thành ra nhận chức trở lại để ḿnh được rảnh tay dốc sức vào việc binh bị nhằm đối phó với nhà Tống đang lăm le nḥm ngó Việt Nam. Cùng với quyết định này, triều đ́nh nhà Lư c̣n ra sắc chỉ cho quan và dân phải tôn trọng những người có học vấn trong cả nước, và cho phép các bậc đại thần kỳ lăo vào chầu vua không phải lạy quỳ(3). Quyết định "trả chức" của Lư Thường Kiệt là một việc làm kỳ lạ, chưa từng thấy xưa nay, chứng tỏ ông là một người có tầm thước lớn trong lịch sử. Nhưng chắc chắn quyết định đó cũng chỉ có thể nảy ra từ một con người thấm sâu văn hóa Thăng Long tận trong huyết quản, và từ trong tâm thức, đă tiên cảm được cái yêu cầu dân chủ của nền văn hóa này.

Một câu chuyện khác : vào thế kỷ XIX nhà thi sĩ tài danh Cao Bá Quát có để lại một bài hát nói trong đó có những câu rất đáng kinh ngạc:
     Bóng thiều quang thấp thoáng mé Nam san,
     Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ.
                                       (Chén rượu tiêu sầu)

Ai cũng biết "cửu hoàn" là vũ trụ,ï tuy từ này không có trong từ điển Trung Hoa. Nhưng trong văn cảnh ngữ nghĩa ở đây "cửu hoàn" c̣n có nghĩa là ǵ? Tại sao Cao Bá Quát lại viết tiếp: "Khoảng trời đất cổ kim kim cổ, Mảnh h́nh hài không có có không, Lọ là thiên tứ vạn chung"? "Thiên tứ vạn chung" - ấy là ân sủng cao quư bậc nhất dành cho bề tôi của đấng thiên tử. Cao Bá Quát tỏ ra xem thường cái đó v́ đứng trên quan điểm vũ trụ mà xét, mọi vật tồn tại trong thời gian chỉ là nháy mắt, cổ và kim cũng chỉ là trong ṿng quay không ngừng của tạo hóa, c̣n đứng trên quan điểm nhà Phật mà xét, cái gọi là sắc thân - h́nh hài - có đó mà cũng là không. Rơ ràng "cửu hoàn" trong cách dùng của Cao Bá Quát khiến ta không thể không nghĩ đến chữ "cửu trùng", mang nghĩa song quan, vừa là trời đất, vừa là biểu trưng cao quư của nơi nhà vua ở. Và từ cái nghĩa song quan này, có thể thấy dưới con mắt họ Cao, dường như mọi thứ đều bị xem nhẹ, dẫu là những vật lớn lao, trường tồn như trời đất, hay thâm nghiêm thăm thẳm như bệ ngọc của đấng chí tôn. Nói về khí phách th́ dám chắc có nhiều nhân vật sản sinh ở miền này vùng kia c̣n có khí phách tương đương hoặc lẫm liệt hơn Cao Bá Quát, như Nguyễn Hữu Cầu (?-1750) với bài hát nói Chim trong lồng ấp ủ khát vọng tự do : Phá ṿng vây bạn với kim ô. Tuy nhiên, phải nói, khát vọng tự do của Nguyễn Hữu Cầu, dẫu là cao cả, cũng không ngoài chuyện "tranh bá đồ vương", trái lại, với Cao Bá Quát, khát vọng thảnh thơi, tự tại, lại là hiện thân của một tinh thần dân chủ. Ông muốn nói rằng không thể có sự cao thấp khác nhau giữa một hàn sĩ như ông và một ông vua địa vị cao sang, xét về thực chất giá trị. Cái ư tưởng bất chợt đó quả là lớn và cũng phải với môi trường văn hóa giàu tiềm năng dân chủ như Thăng Long mới cấp cho Cao Chu Thần cái nh́n vượt thời đại như vậy.

Lại như trường hợp Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) ở đầu thế kỷ XX. Một lần có viên Tổng đốc nọ muốn mời ông đến tư dinh uống rượu. Ông thản nhiên trả lời viên Tri huyện sứ giả của Tổng đốc rằng: "Nếu cụ lớn - một ông quan Thủ hiến - muốn đ̣i tên dân Nguyễn Khắc Hiếu đến công đường th́ xin có trát, Hiếu sẽ đi ngay. C̣n nếu như quan Thủ hiến là một kẻ nhân đọc thơ tôi mà có bụng liên mến, muốn đàm đạo thơ ca với thi sĩ Nguyễn Khắc Hiếu th́ tôi xin mời cụ phải quá bộ đến đây, dẫu một túp nhà cỏ, để Hiếu hầu rượu cụ"(4). Khẩu khí ấy liệu có sức nặng của nó hay không, nếu không tựa trên một truyền thống văn hóa Thăng Long vốn thấm đậm chất dân chủ qua nhiều thời đại?

Do sự phân hóa, tranh chấp quyền lực trong nội bộ các tập đoàn thống trị nhiều đời, mà bắt đầu là từ thời Lê - Trịnh, tầng lớp "sĩ phu Bắc Hà", với thân phận những bề tôi trực tiếp, gần gũi nhất, không khỏi phải t́m cách đối phó, và do đó cũng chịu nhiều hạn chế trong cung cách ứng xử. Bản tính gọi là cứng cỏi, thẳng thắn của họ đôi khi phải biểu hiện dưới h́nh thức nước đôi, tránh né, dưới sức ép của cả chúa lẫn vua. Lâu dần, thói quen này thấm sâu vào tính cách, tạo nên một h́nh ảnh mặt trái về họ: vừa mang cái vẻ ngoài rất "khuôn phép", lại vừa có cái ranh mănh ngầm, cái phản ứng thâm thúy của lớp người rất giỏi tṛ chơi chữ. Mặt khác, cái dân chủ dội từ trên xuống và cái dân chủ nẩy sinh từ trong ḷng xă hội trước sau cũng phải t́m thấy một mẫu số chung, phải nhượng bộ lẫn nhau để cùng tồn tại. Đó là một thực tế phức tạp, có sự đan chéo giữa mặt hay và mặt dở, mặt lưng chừng và mặt cấp tiến, mặt "khuôn phép hóa" và mặt "vùng ra khỏi khuôn phép", mà văn học Thăng Long - Hà Nội thời nào cũng không khó t́m ra dẫn chứng. Ở thế kỷ XVIII, giữa không khí sục sôi tinh thần nhân văn chủ nghĩa, đă có một tiếng cười làm mất mặt đấng chí tôn của Trạng Quỳnh, một cái lườm nguưt làm xiêu đổ "hiền nhân quân tử" của Hồ Xuân Hương, và cũng đă có không ít những tiếng chửi đổng làm ra vẻ "phản tỉnh" của kẻ mới được giữ địa vị "chăn dân", muốn đoạn tuyệt với cuộc sống được "cởi trói" bấy lâu để lại tự nguyện chui vào cái ṿng "kim cô" của giai cấp thống trị kiểu như Chiêu Hổ... Ngay đến thời đương đại, dân chủ từ trên và dân chủ bột phát từ xă hội công dân đi vào văn học vẫn là hai yếu tố song hành, nhiều lúc tưởng có ǵ "trái cựa", nhưng xét cho cùng, đấy cũng là sự thúc đẩy tất yếu lẫn nhau, có cái này mới có được cái kia. Và đó chính là kết quả khách quan của sự mở rộng cảm hứng dân chủ của đời sống văn chương diễn ra trong ṿng một thập niên đổi mới cho đến sát trước khi bước sang thế kỷ XXI - một vụ mùa chưa thể gọi là bội thu, cũng chưa hẳn đă như ư muốn của người này hay người kia, nhưng nó là sản phẩm không thể đ̣i hỏi khác hơn của một mô h́nh văn hóa trong đó quá khứ vẫn c̣n chi phối và ám ảnh đối với hiện tại - giữa một thời đại thông tin và mở cửa. Một hiện tượng truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, và truyện ngắn của nhiều cây bút trẻ khác, một Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, một Những thiên đường mù của Dương Thu Hương, hay một Cát bụi chân ai, một Chiều chiều của Tô Hoài, và gần đây hơn nữa là một Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (nếu ta trở lại với mấy chữ "sĩ phu Bắc Hà" trong nguyên nghĩa của nó)... thoạt kỳ thủy đều gây sửng sốt, tạo nên những "cú sốc", có cảm giác là những hiện tượng "không đi vào quy củ", nhưng rồi dần dần, thời gian đă phán xét, điều chỉnh, xác nhận lại sự hiện diện của chúng. Ở đây dường như là có sự tiếp nối cùng lúc vừa cái khôn ngoan, thâm thúy, tưng tửng nước đôi, lại vừa là cái dằn mặt sỗ sàng, táo tợn, của "sĩ phu Bắc Hà", của những truyền thống văn chương cổ xưa của con người Hà Nội.

Văn học Thăng Long c̣n giàu chất trí tuệ bởi Thăng Long trong nhiều thời kỳ lịch sử đă từng là nơi kết tinh những nhà văn hóa, tư tưởng có tầm vóc thời đại, mà họ đồng thời cũng là nhà thơ nhà văn. Chúng ta có một Hưng Đạo đại vương, nhà tư tưởng quân sự kiệt xuất, tài ba, và một Trần Quốc Tuấn viết những câu văn hịch hùng hồn, làm sục sôi tinh thần tướng sĩ. Có một Tuệ Trung thi sĩ tiêu dao, phóng khoáng và một Tuệ Trung Thượng sĩ đề xuất bản thể luận Phật giáo và tổng kết phép biện chứng trong cách nh́n sự vật ở thế kỷ XIII:
    Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh,
    Đông lưu phó hải khởi hồi ba.
                         (Thế thái hư huyễn)

      (Trăng lặn, bóng trăng khôn trở lại,
     Sông trôi, sóng nước măi trôi qua).
 

Có một Nguyễn Trăi văn hào "viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời"(5) và một Nguyễn Trăi phát ngôn tư tưởng "nhân nghĩa", một mệnh đề Nho giáo mà ông sáng tạo lại để chung đúc vào đấy tinh hoa của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam ở thế kỷ XV. Có một Lê Quư Đôn biên soạn những cuốn sách thông kim bác cổ và một Lê Quư Đôn là người bác bỏ xuất sắc "lư khí nhị nguyên" hay "lư gốc khí ngọn" của Chu - Tŕnh, ở thế kỷ XVIII: "Lư c̣n không có h́nh tích, nhờ có khí nó mới hiện ra được. Lư ở ngay trong khí"(6). Có một "Thánh Quát" văn chương "vô Tiền Hán", và một Cao Bá Quát lănh tụ nông dân khởi nghĩa, trong thơ lấp lóe cái chân lư: phải có cách mạng bạo liệt mới thật sự đưa đất nước đến một cuộc đổi đời, ở nửa đầu thế kỷ XIX:
    Tạc dạ xuân lai phá cựu hàn,
    Kim triêu hồng tử đấu thiên ban.
    Hà đương thế sự như hoa sư,ï
    Phong vũ, giang san tận cải quan.
            (Lập xuân hậu nhất nhật tân b́nh)

      (Hôm qua xuân đến rét tan,
Sáng nay hồng tía muôn ngàn khoe tươi.
     Việc hoa ước cũng việc đời,
Gió mưa, thoắt đă rạng ngời núi sông)

Có một Hồ Chí Minh làm thơ giữa cảnh tù ngục, đặt vấn đề tự do như một quyền sống thiêng liêng của từng con người cá thể :
                      Trên đời ngh́n vạn điều cay đắng,
                       Cay đắng chi bằng mất tự do.
                       Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
                       Để cho người dắt tựa trâu ḅ.
                                     (Cảnh binh khiêng lợn cùng đi, II)

và một Hồ Chí Minh nêu chân lư bất hủ cho cả dân tộc, khi đă là chủ tịch nước: "Không có ǵ quư hơn độc lập tự do", ở thế kỷ này. Ngoài ra, c̣n bao nhiêu gương mặt văn hóa khác, tầm vóc và diện mạo có khác nhau : một Lương Văn Can từng đề xướng phong trào chấn hưng doanh nghiệp của người Việt theo đầu óc thái Tây ngay từ đầu thế kỷ mà sau này Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà... sẽ là những nhà thực hành nổi tiếng, một Phạm Quỳnh từng nêu khẩu hiệu "Thổ nạp Âu Á" đầu những năm 20, một Cao Xuân Huy với phát kiến về phương pháp luận "chủ toàn và chủ biệt" giữa Đông và Tây, một Trần Huy Liệu "Thử xét lại hồ sơ của giai cấp địa chủ" sát ngay sau cải cách ruộng đất, một Nguyễn Mạnh Tường công khai đề xuất dân chủ pháp quyền từ năm 1956, một Nguyễn Khắc Viện dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế xă hội trầm trọng của chế độ bao cấp giữa những năm 80 từ 7, 8 năm về trước, và một Trần Độ tướng lĩnh trong kháng chiến chống Pháp chống Mỹ lại cũng là người chuẩn bị "bếp núc" cho Nghị quyết 5 của Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 6 chứa đựng tinh thần "cởi trói" cho văn nghệ sĩ... Thử làm một dấu nối giữa các các gương mặt tiêu biểu ấy. Thực hiếm có một vùng đất nào mà hiện tượng sóng đôi giữa các đỉnh cao nghệ thuật và trí tuệ lại xuất hiện liên tục, dồi dào như trong văn học Thăng Long. Cái đẹp của văn học Thăng Long - Hà Nội v́ thế có thể nói là cái đẹp của một tiềm năng tự phát sáng và tỏa lan ánh sáng đến nhiều lĩnh vực của đời sống tinh thần, kích thích những biến đổi mạnh mẽ về tư tưởng, văn hóa, văn học ở nhiều vùng đất nước, khơi nguồn cho các trào lưu, các ḍng phái, các hiện tượng văn học trong từng thời kỳ sinh sôi nảy nở.

Nhưng văn học Thăng Long rất trí tuệ mà lại không kém ư vị trữ t́nh. Cảm xúc trữ t́nh từng là thế mạnh của văn học nhiều vùng, như văn học Kinh Bắc, văn học Nghệ - Tĩnh... Tuy thế, sắc thái trữ t́nh của văn học Thăng Long vẫn có nét ưu mĩ của nó, ở chỗ phong cách biểu hiện của ḍng văn học này là sự tài hoa thanh lịch, là cái sang trọng của t́nh cảm kết tinh thành chữ nghĩa, và là cái sang trọng của chữ nghĩa cất lên thành tiếng nói thi ca.

Chỉ một giây phút trầm tư trong bức tranh giai nhân thêu gấm của nhà sư thi sĩ Huyền Quang (1254-1334), cũng đủ gợi lên tất cả chiều sâu tâm lư và dáng dấp phong tao, kiều diễm của những người đẹp kinh thành:
           Nhị bát giai nhân thích tú tŕ,
           Tử kinh hoa hạ, chuyển hoàng li.
           Khả liên vô hạn thương xuân y,ù
           Tận tại đ́nh châm bất ngữ th́.
                        (Xuân nhật tức sự)(7)

                              (Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều,
                                Hoa hợp, oanh vàng lảnh lót kêu.
                                Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy,
                                Là khi không nói, chợt dừng thêu).

Lại cũng dường như có một cái ǵ thật sang trọng, có phần khuê các nữa, ẩn sâu trong những vần thơ thanh nhă của nữ sĩ Ngô Chi Lan (?-?) khi bà từ trong môi trường cung cấm Thăng Long ở thế kỷ XV mà viết về hoa sen và các cô gái trẻ:
                                Liên hoa viễn cận hương,
                                 Thái thái tổng sơn trang.
                                 Mạc khiển phong xuy mấn,
                               Băng cơ nguyên tự lương.
                                              (Thái liên khúc, II)

                             (Sen ngát khắp gần xa,
                             Đầy thôn tiếng hái hoa.
                             Tóc đâu cần gió thổi,
                             Thơm mát tự trong da).

Trong một bài thi ở Thăng Long vào đầu thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh (?-?) đă bằng ng̣i bút hóm hỉnh, chỉ trong mấy nét lột tả được rất đắt cung cách ăn chơi hào hoa mà vẫn không kém vẻ nền nă của các chàng trai cô gái kinh kỳ:
              Chợ ḥe đầm ấm, phố ngọc tần vần,
              Trai lanh lẹ đá cầu vén áo;
              Gái éo le rủ yếm dôi quần.
              Khách Tràng An cưỡi ngựa xem hoa, rợp đường tử mạch;
              Chàng công tử ngự xe trương tán, rạng mực thanh vân.
                                             (Phụng thành xuân sắc phú)

Đến thế kỷ XVIII, văn học Thăng Long bước vào thời kỳ hoàng kim với trào lưu nhân đạo chủ nghĩa làm sinh sắc hẳn cả hai ḍng văn học chữ Nôm và  chữ Hán, thổi vào thơ văn cái xôn xao rạo rực của những trái tim khao khát yêu đương, và làm cho văn chương trở nên gân cốt, chuẩn mực bởi tính hiện thực đậm nét, lại cũng trau chuốt đến kỳ khu, mềm mại đến thần t́nh bởi sự bộc lộ tâm trạng cá thể cá nhân. Một Ngô Th́ Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, một Phạm Thái với Sơ kính tân trang, một Đoàn Thị Điểm với Chinh phụ ngâm khúc, một Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) với Cung oán ngâm khúc, một Lê Ngọc Hân (1770-1799) với Ai tư văn, một Nguyễn Khản với các khúc hát giáo phường thanh thú... đều là sự thể hiện tâm trạng cá nhân dằn vặt ấy, các t́nh cảm yêu đương bức xúc ấy, và thứ ngôn ngữ cao sang, tân kỳ, rất mực Hà thành ấy.

Văn học Thăng Long cận hiện đại cũng đậm đà không kém chất "trữ t́nh Tràng An". Chúng ta thường hay nhắc đến một Tản Đà mà giọng thơ tự nhiên, mềm mại như phong dao song lai không phải là phong dao; nhắc đến một Nguyễn Nhược Pháp (1914-1938) hồn nhiên, tinh nghịch như cái giọng của thế hệ thư sinh Hà thành một thuở; một Vũ Hoàng Chương (1916-1976) yêu đắm đuối, và câu thơ cũng rất giàu nhạc điệu, chứa chất âm hưởng của nhiều ḍng nhạc mới cũ xen phối: nhạc hát nói, nhạc vũ trường; một Quang Dũng (1921-1988) với chỉ một nét bút khắc họa các chàng trai Hà Nội "xông pha chinh chiến" rất ước lệ, thế mà sao cứ đọng lại trong ta những câu thơ cổ kính, đầy sức âm vang; một Nguyễn Đ́nh Thi với các bài thơ không vần, quyến người ta vào cái âm sắc mới lạ, chắc khỏe của chúng... Chúng ta cũng thường nhắc đến bước đột khởi của văn xuôi Việt Nam với câu văn tiếng Việt mới mẻ, trong sáng, nhiều gợi cảm của Khái Hưng (1896-1947), Nhất Linh (1905-1963)... trong Tự lực văn đoàn; rồi giọng văn ngọt ngào, đằm thắm của Thạch Lam (1910-1942), Vũ Bằng (1913-1983) viết về những cái ǵ rất riêng của Hà Nội: từ chiếc bánh cốm h́nh như chỉ riêng Hà Nội mới có, đến những món quà mang hương vị Hà Nội, hay một tiếng rao hàng văng vẳng giữa đêm khuya khiến người Hà Nội phải nhớ đến nao ḷng; hay giọng văn giàu h́nh ảnh của Tô Hoài, nghe như có cái lao xao của ánh nắng và mùi thơm của đồng lúa ngoại thành thấm vào từng câu từng chữ; giọng văn kiêu sa, đài các của Nguyễn Tuân (1910-1987) đưa người ta vào mê cung chữ nghĩa, theo đuổi những cảm giác chi li, tỉ mẩn, chẻ sợi tóc làm tư, nhưng cái nét tài hoa, cái phong cách riêng của một cây bút suốt đời gắn bó với Hà Nội vẫn hiện lên rất rơ; và giọng văn của Nam Cao (1917-1951), Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960), mỗi người một vẻ, khơi dậy một cách thấm thía tâm lư con người trí thức Hà Nội, từ lớp người sống "ṃn đi, rỉ ra" trong chế độ cũ, tự ư thức về tấn bi kịch làm mụ mị tận đáy tâm hồn họ, đến những con người trầm tư, dằn vặt giữa "đi hay ở", đến lớp người trẻ trung, hào hoa, đi vào cuộc kháng chiến với tất cả niềm kiêu hănh và chất men say người....

Có thể nói sự lấp lánh của trí tuệ và vang hưởng trữ t́nh đằm thắm đă làm nên giọng điệu đặc sắc khó lẫn của ngôn ngữ văn học Thăng Long - Hà Nội trong ṿng mười thế kỷ nay. Đây là một gợi ư giúp ta đi tới một sự suy luận xa hơn: trước khi Sài G̣n trở thành một trung tâm của sáu tỉnh phía Nam, trước khi Huế trở thành Kinh đô của nhà Nguyễn, th́ các giá trị của văn học dân tộc, muốn trở thành giá trị lớn, đều ít nhiều phải khúc xạ qua "môi trường văn học Thăng Long". Nói một cách h́nh ảnh hơn nữa th́ văn học Thăng Long đă tồn tại trong tiến tŕnh phát triển của văn học cả nước như nhánh lớn của một ḍng sông, vừa dồn nước cho con sông chính, vừa hút phù sa từ mọi chi lưu, và tuy không hẳn quyết định số phận của ḍng sông nhưng cũng làm đổi thay sức chảy của ḍng. Dù rằng ở thế kỷ XIX, Kinh đô được chuyển về Huế, Thăng Long trở thành "tỉnh Hà Nội", nhưng điều đó cũng chẳng cản trở ǵ nhiều sự phát triển của nó. Hà Nội vẫn là thủ đô muôn đời của sự phồn hoa, của văn hóa nghệ thuật, đúng như lời một học giả người Pháp, De la Liraye viết năm 1877: "Dù không phải là kinh thành nữa, Kẻ Chợ vẫn là một thành phố đứng đầu trong cả nước về nghệ thuật, về công nghiệp, về thương nghiệp, về sự phong phú, về dân số, về lịch thiệp và về văn hóa. Phải nói rằng trong khắp nước không đâu có công nghiệp bằng Kẻ Chợ và tất cả Bắc Kỳ, tất cả Nam Kỳ đều không thể vượt qua được Kẻ Chợ. Các văn nhân, các thợ giỏi, các đại thương đều tới đấy. Các đồ cần dùng hàng ngày và các đồ mĩ nghệ xa hoa cũng từ đấy mà ra. Tóm lại, đấy là trái tim của dân tộc"(8).
 
 

III



Để nhận diện văn học Thăng Long - Hà Nội c̣n phải nói đến một đặc điểm sau cùng: đây là vùng văn học có vận mệnh hết sức dài lâu, được tiếp nối bởi nhiều tiến tŕnh vận động, mỗi tiến tŕnh do lịch sử đặc thù chi phối nhưng cũng do lực đẩy nội tại của nó; có những giai đoạn trầm lắng tuy chưa bao giờ đứt đoạn, và cũng có những giai đoạn bột khởi thành cao trào; có sự khác biệt về xu hướng tư tưởng, thậm chí sự trái ngược về quan niệm và phương pháp sáng tác, sự thay đổi trong phương thức tư duy, và cả sự đa dạng về thành tựu nghệ thuật, về đóng góp thể loại.

Tựu trung, có thể h́nh dung con đường phát triển của văn học Thăng Long - Hà Nội mười thế kỷ (kể từ cái mốc định đô của Lư Công Uẩn (1010) cho đến hết thế kỷ XX) được phân chia một cách tổng thể với bảy lát cắt sau đây: 1. Văn học thời Lư - Trần (1010-hết thế kỷ XIV) : uyển chuyển dung ḥa tư tưởng thẩm mỹ Phật Nho Đạo; 2. Văn học thời Lê sơ (thế kỷ XV) : ca ngợi thiên nhiên, đất nước và con người theo mẫu mực lư tưởng Nho giáo; 3. Văn học thời Mạc - Lê trung hưng (thế kỷ XVI-XVII) : phê phán xă hội để bảo vệ nhà nước và đạo đức phong kiến đang trên đà rối loạn; 4. Văn học thời Lê mạt (thế kỷ XVIII) : đề cao tinh thần nhân văn chống phong kiến với những đ̣i hỏi bức thiết về quyền sống con người, hạnh phúc t́nh yêu và địa vị của người phụ nữ; 5. Văn học thời Nguyễn (thế kỷ XIX) : phục hưng truyền thống văn hóa Thăng Long và gửi gắm khát vọng giải phóng con người cá nhân làm vũ khí tinh thần chống chọi lại mọi khuôn phép cứng nhắc của luân lư nhà Nguyễn, mặt khác cũng phản ánh tấn bi hài kịch của nhà nho trong bước đường cùng đối mặt với làn sóng xâm lăng ồ ạt của chủ nghĩa thực dân; 6. Văn học nửa đầu thế kỷ XX (1900-1945) : hiện đại hóa theo tinh thần dân chủ thế kỷ XIX của văn học Âu Tây, các trào lưu, xu hướng, h́nh thức văn học khác nhau nở rộ và đạt đến những đỉnh cao rực rỡ; 7. Văn học nửa cuối thế kỷ XX : khởi đi từ ḍng văn học mới sau Cách mạng tháng Tám, tiếp thu phương pháp hiện thực xă hội chủ nghĩa và in đậm cảm hứng sử thi, với h́nh ảnh trung tâm là người anh hùng làm chủ tập thể, chuyển sang ḍng văn học đổi mới từ 1988 về sau với tinh thần phản tỉnh xă hội và với sự đa dạng trong phương pháp sáng tác mà thành công vang dội nhất là kư và truyện ngắn.

Bảy lát cắt của văn học Thăng Long - Hà Nội, thực ra cũng là bảy khúc quanh lịch sử, trên đó mảnh đất Thăng Long - Hà Nội đă từng bước chuyển ḿnh từ môi trường thời Trung cổ đến môi trường thời Hiện đại, đă trải qua gần hết một thiên niên kỷ đằng đẵng, từ tuổi sơ sinh nay sắp bước đến tuổi một ngh́n. Một ngh́n năm tuổi đời của một mảnh đất văn vật như Thăng Long là niềm tự hào chính đáng của mỗi người dân Hà Nội, của tất cả mọi người dân nước Việt. Nhưng một ngh́n năm, cũng không phải không đi kèm theo nó cái quy luật "bất khả kháng" là biểu hiện của sự... già nua. May thay, văn học Thăng Long một ngh́n năm tuổi lại có những tố chất giúp nó khắc phục những nguy cơ của sự "về già", mặc dù hành tŕnh hiện đại hóa ở nửa cuối thế kỷ XX vẫn c̣n khá trầy trật, chậm muộn, có lúc tưởng như thụt lùi so với nửa đầu thế kỷ. Ấy là sự bén nhạy với mọi ảnh hưởng lớn nhỏ của các nền văn học Đông và Tây mà nó đă tiếp nhận, giao lưu trong nhiều thế kỷ. Quan trọng hơn, ấy là cái tư chất cứng cỏi, không "đánh mất ḿnh" và cái khả năng cách tân trong bản thân nó - một cuộc đấu tranh ngấm ngầm nhưng không kém gian nan, vất vả để làm cho cái mới có thể nảy mầm.

Nguyễn Huệ Chi
9-2000
         Chú thích
(1) Chữ dùng của GS. Trần Đ́nh Sử trong Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987.
(2) Khái niệm "đội ngũ trí thức tự do" chúng tôi dùng ở đây không mang ư nghĩa chính xác của từ ngữ mà chỉ muốn nói dưới xă hội phong kiến cũng đă có một tầng lớp trí thức tụ hội ở Thăng Long, trong sinh hoạt và sáng tác không bị lệ thuộc quá chặt vào chính quyền thống trị.
(3) Xem Đại Việt sử kư toàn thư, Bản kỉ, Quyển III. Bản dịch của Cao Huy Giu. Tập I, Nxb. Khoa học xă hội, Hà Nội, 1972; tr. 235-236, và Lư Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hăn, Tập I, Nxb. Sông Nhị, Hà Nội, 1949; tr. 76-78.
(4) Lưu Trọng Lư, Giờ đây, khi cái nắp quan tài đă đậy lại, Tạp chí Tao đàn, số đặc biệt về Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Hà Nội, 1939.
(5) Lê Quư Đôn, Kiến văn tiểu lục. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm, Nxb. Sử học, Hà Nội 1962, tr. 265-266.
(6) Lê Quư Đôn, Vân đài loại ngữ, "Lư khí", 3.
(7) Theo ông Lâm Minh Hoa, Bí thư thứ nhất Đại sứ quán Trung Quốc, trong bài Hoa, Thiền và Thơ thiền trên tạp chí Tia sáng số 12-1999, th́ bài thơ này vốn có nguồn gốc từ bài Xuân nữ oán của Chu Giáng đời Đường, sau đó được Thiền sư Ảo Đường Trung Nhân đời Tống vay mượn để biến thành một bài thơ Thiền. Trước đây hơn 10 năm, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cũng đă có một ư kiến có phần tương tự. Chúng tôi nghĩ, cũng với thủ pháp vay mượn đó Thiền sư Huyền Quang đă sửa đổi câu chữ ít nhiều để biến cải thơ ảo Đường Trung Nhân thành bài Xuân nhật tức sự của ḿnh.
(8) Dẫn theo Trần Huy Liệu, Lịch sử Thủ đô Hà Nội, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960, tr. 85.