Cơ chế dường như chưa đủ để cho người trí thức phát huy
hết năng lực của họ. Tôi tin chúng ta đủ khả năng giải quyết
nhiều vấn đề cấp thiết hiện nay nếu biết tổ chức, quản lý và
quan trọng hơn là cần tạo điều kiện bình đẳng cho mọi tiềm năng
được giải phóng.
LTS:
Giám đốc Nhà xuất bản (NXB) Tri
Thức Chu Hảo học phổ thông ở Trung Quốc, học đại học và làm
nghiên cứu sinh ở Liên Xô cũ. Sau đó ông tiếp tục nghiên cứu
khoa học và giảng dạy đại học ở Pháp. Con đường quan chức của
ông cũng dài không kém con đường học tập nghiên cứu: từng đảm
nhiệm các vị trí Viện trưởng Viện Công nghệ Vi điện tử (Viện
nghiên cứu Công nghệ Quốc gia), Chánh văn phòng Chương trình
quốc gia phát triển công nghệ thông tin, Thứ trưởng thường trực
Bộ Khoa học và Công nghệ, rồi Trưởng ban Quản lý Khu công nghệ
cao Hòa Lạc. Đến lúc đã có thể nghỉ ngơi, ông lại tiếp tục chọn
cho mình con đường mới nhiều thử thách: thành lập NXB Tri Thức
với tôn chỉ là góp phần phổ biến những kiến thức tinh hoa của
thế giới tại nước nhà. Người từng dành nhiều công sức để đưa
Internet vào Việt Nam này lại một lần nữa mong mỏi nguồn tri
thức mới mà mình góp phần mang về sẽ đúc nên những viên gạch đầu
tiên cho nền kinh tế tri thức của đất nước. Tháng 9/2009 cũng là
kỷ niệm bốn năm ngày thành lập NXB và nhân dịp họp mặt cộng tác
viên tại TP. Hồ Chí Minh, ông đã dành cho chúng tôi một cuộc trò
chuyện cởi mở.
- Được biết thời gian gần đây và sắp tới, NXB
Tri Thức có nhiều hoạt động văn hóa như tổ chức kỷ niệm và in kỷ
yếu về các danh nhân thế giới; phối hợp tổ chức những hoạt động
tọa đàm; thảo luận các chủ đề về thói quen đọc sách, giáo dục,
kinh tế; nói chuyện với sinh viên các trường đại học... Xem ra
hoạt động của NXB Tri Thức không chỉ là tổ chức dịch và xuất bản
sách?
Trong số những việc bạn vừa kể, có nhiều việc lẽ
ra thuộc trách nhiệm tổ chức của Nhà nước, nhưng do không thấy
ai làm nên chúng tôi xin tự nguyện làm thôi. Năm 2009 đã được
Liên Hiệp Quốc tuyên bố là "Năm Vũ trụ học", kỷ niệm 400 năm nhà
bác học Galileo Galilei người Ý phát minh ra kính viễn vọng,
cũng là kỷ niệm 200 năm sinh nhà khoa học Charles Darwin người
Anh. Các nước trên thế giới có nhiều hoạt động để tưởng nhớ hai
danh nhân đã có đóng góp rất lớn cho loài người này, còn tại
Việt Nam cho đến nay các cơ quan hữu quan hầu như chưa hề nhắc
tới.
Chúng tôi cũng đã từng làm như vậy đối với 100
năm Đông Kinh nghĩa thục (2007), 100 năm Khai sáng Thuyết Lượng
tử (2008); và đang chuẩn bị làm cuốn Lev Tolstoi nhà Văn hóa và
Tư tưởng để cùng thế giới kỷ niệm 100 năm ngày mất của ông
(2010). Cho đến nay, các cơ quan chức năng của Nhà nước vẫn chưa
đánh giá đúng mức tầm quan trọng của những hoạt động văn hóa như
thế. Tổ chức kỷ niệm, in kỷ yếu về các danh nhân là việc làm
thiết thực để truyền bá tri thức và nuôi dưỡng tình yêu đối với
nghiên cứu khoa học và tôn vinh các giá trị văn hóa.
Đối với chúng tôi, ngay cả dịch sách cũng không
đơn thuần là công việc kỹ thuật mà đó là hoạt động văn hóa. Dịch
thuật góp phần rất lớn trong việc làm nên tính đa dạng văn hóa
của xã hội tri thức. Đặc biệt, việc dịch những sách có hàm lượng
tri thức cao sẽ tạo ra những thuật ngữ mới, mang về nhiều khái
niệm mới. Nhờ đó, ngôn ngữ và vốn văn hóa nước nhà được làm giàu
thêm đáng kể. Dịch giả ngoài việc nắm vững ngoại ngữ phải tinh
thông ngôn ngữ Việt, phải có kiến thức văn hóa sâu rộng.
- Nhưng cũng vì mang về những khái niệm quá
mới đó mà thời gian gần đây, một số sách của NXB Tri Thức bị xem
là "có vấn đề"?
Bất cứ nhà xuất bản nào xuất bản những sách giới
thiệu tri thức cổ kim nước ngoài đều dễ bị xem là "có vấn đề"
chứ không riêng NXB Tri Thức. Sách của NXB Tri Thức (kể cả sách
liên kết) phần lớn là dịch từ tác phẩm nước ngoài nên có những
chỗ quan điểm của các tác giả không phù hợp với quan điểm chính
thống của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Tuy nhiên, tôi tin là
trong quá trình phát huy dân chủ theo đường lối của Đảng, cùng
với quá trình đổi mới thì phạm vi của "vùng nhạy cảm" đã và sẽ
ngày càng được thu hẹp.
Trước đây, cũng nhờ những nguồn tham khảo kiến
thức và lắng nghe, mà Đảng đã đi đầu trong việc thay đổi tư duy,
quyết định chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, hay cho đảng viên làm kinh tế tư nhân... Ngoài
ra, muốn hội nhập quốc tế thì phải biết thế giới quanh ta nghĩ
gì và phải chấp nhận sự đa dạng văn hóa. Hơn nữa, những sách
chúng tôi chọn đều là những kiến thức tinh hoa nhân loại, không
chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt mà còn cần thiết cho sự phát triển
toàn diện và bền vững của đất nước trong tương lai. Chừng nào xã
hội còn tồn tại, những sách này sẽ vẫn còn hữu ích.
- Ông thường dẫn lời của Karl Marx rằng trí
thức là người có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến về
những vấn đề trong xã hội. Vậy theo ông, thế nào gọi là đủ tri
thức và làm thế nào có đủ tri thức để có chính kiến về những vấn
đề trong xã hội?
Tùy từng giai đoạn lịch sử, xã hội càng phát
triển, càng phức tạp thì đòi hỏi trình độ của trí thức càng phải
cao hơn. Trước 1945, một thầy giáo tiểu học trường làng đã có
thể được coi là trí thức vì đã đủ trình độ để hiểu biết và có
thể thảo luận về những vấn đề xã hội thời đó. Bây giờ một người
tốt nghiệp đại học, thậm chí thạc sĩ, tiến sĩ cũng chỉ là người
lao động trí óc nếu không có nhận thức đúng đắn về thời cuộc.
Bằng cấp không phải là thước đo người trí thức.
Trong một nền giáo dục tốt, một người học hết
chương trình giáo dục phổ thông tiên tiến (chứ không phải như
của ta hiện nay!) cũng có thể trở thành trí thức nếu có sự quan
tâm và luôn tự đặt ra những câu hỏi về các vấn đề xã hội. Rồi đi
tìm câu trả lời qua sách vở kết hợp với chiêm nghiệm thực tế để
có thể phản biện và phân tích một cách khoa học và trung thực
những bất cập trên tinh thần xây dựng và thiện chí, có sức
thuyết phục.
Cao hơn nữa là đề xuất được phương án khắc phục
vấn đề. Chẳng hạn, đến năm 1945 một số trí thức nước ta như GS
Nguyễn Văn Chiển (mới từ trần tháng trước) vừa học xong bậc đại
học, GS Hoàng Tụy mới hết tú tài, còn nhà văn Nguyên Ngọc thì
chưa hết tú tài... Sau đấy, họ hoàn toàn tự học, tự trau dồi tri
thức và nhân cách của mình, với cái nền vững chắc có được từ
thời còn ngồi trên ghế nhà trường, họ trở thành những trí thức
có rất nhiều đóng góp giá trị cho đất nước.
- Vậy theo ông, đâu là tiêu chuẩn đánh giá
trí thức?
Tiêu chuẩn đánh giá người trí thức không phải là
trình độ chuyên môn mà là tầm nhìn của người đó có vượt lên hẳn
tầm nhìn chung của quần chúng hay không. Dựa trên tiêu chí đó,
theo tôi nước ta chỉ có một số cá nhân trí thức chứ chưa có tầng
lớp trí thức với lý tưởng, quan niệm riêng và có sự tranh luận,
thảo luận một cách công khai, thẳng thắn và dân chủ.
Những năm gần đây, một nhóm trí thức Nga đã có
những nghiên cứu, thảo luận rộng rãi và nghiêm túc về thực trạng
giới trí thức nước này trong gần một thế kỷ qua (xin xem quyển
Về trí thức Nga NXB Tri Thức 2009). Họ đã đi đến kết luận rằng
tầng lớp trí thức Xô viết thực chất chỉ là những người lao động
trí óc chứ chưa phải là tầng lớp trí thức theo đúng nghĩa là có
tầm nhìn và hiểu biết xã hội vượt trội. Chúng ta học hỏi Liên Xô
cũ rất nhiều về các mô hình giáo dục - đào tạo và tôi cảm thấy
tầng lớp "có học" của nước ta có nhiều điểm, nhiều vấn đề rất
giống họ.
Tuy nhiên, để biết tầng lớp có học của Việt Nam
có trình độ nhận thức, có tầm nhìn và hiểu biết xã hội ở mức nào
thì phải cần những nghiên cứu cụ thể. Liên Xô đã làm việc này,
Trung Quốc cũng bắt đầu làm còn ở Việt Nam thì vẫn chưa.
- Làm thế nào để hình thành tầng lớp trí thức
theo tiêu chí vừa nói, thưa ông?
Trong một xã hội bình thường, tầng lớp trí thức
được hình thành theo quy luật chọn lọc tự nhiên. Trong xã hội,
ngoài số đông học để làm giàu, học để làm quan, vẫn thường có
một tỷ lệ người nhất định có sự ham học hỏi và coi việc học để
nâng cao nhận thức là niềm vui tự thân. Ngoài cơ chế và tính dân
chủ để trí thức có môi trường thảo luận như đã nói ở trên, điều
quan trọng là cần có nền giáo dục lành mạnh để một người học hết
phổ thông là đã có thể tự đọc sách, tự nghiên cứu để trau dồi
kiến thức.
Nền giáo dục ở các nước tiên tiến dạy cho học
sinh thói quen đọc sách và thảo luận về sách. Ở cấp phổ thông,
học sinh đã biết phần nào những kiến thức nhập môn để lên đại
học sẽ nghiên cứu sâu. Còn ở nước ta, nhiều học sinh giỏi khi
thi đậu đại học rồi mà vẫn chưa hề nghe đến các sách nhập môn
của chính ngành mình sẽ học ở đại học.
- Theo ông thì phẩm chất và trình độ của tầng
lớp trí thức có vai trò thế nào trong việc tạo nên số phận của
một đất nước?
Chắc chắn là có vai trò rất lớn. Có thể làm một
ví dụ so sánh: cách đây hơn một trăm năm, trước sự phát triển
mạnh mẽ của phương Tây, nước Nhật thời Minh Trị đã thực hiện
canh tân, nỗ lực tiếp nhận những kiến thức tinh hoa của thế giới
tạo nên một tầng lớp trí thức có tiếng nói và có tầm nhìn bao
quát được thời cuộc, đưa nước Nhật trở thành quốc gia hùng mạnh
ở châu Á.
Sau năm 1945, Nhật Bản có thể vươn lên một cách
thần kỳ từ đống tro tàn là nhờ xã hội vẫn giữ được tầng lớp trí
thức có tầm nhìn xa và tâm huyết, đưa ra những chiến lược phục
hồi để hơn 30 năm sau đất nước họ trở thành cường quốc. Tại
Trung Quốc thế kỷ XIX, vì đóng cửa với thế giới nên việc truyền
bá tri thức diễn ra sau Nhật 50 năm và không tạo được tầng lớp
trí thức đủ mạnh để tồn tại qua những biến động thời cuộc.
Đó cũng là lý do xã hội Trung Quốc giai đoạn
tiếp theo xảy ra nhiều bi kịch như cách mạng văn hóa và kinh tế
kém phát triển hơn Nhật Bản nhiều. Tầng lớp trí thức là bộ phận
nhận thức, là bộ não của cơ thể xã hội. Não trạng ù lỳ thì mắc
sai lầm dẫn đến bi kịch là chuyện dễ xảy ra.
Đã có nhiều bài học cho thấy để đưa đất nước ra
khỏi khó khăn, tầng lớp trí thức phải có tầm nhìn xa và tính
quyết đoán cao. Ông Asher, Chủ tịch Degem - Tập đoàn điện tử
hàng đầu của Israel đã kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện thực
tế: Gần 60 năm trước, khi Nhà nước Israel mới được thành lập,
những người Do Thái lưu lạc khắp nơi trên thế giới trở về xây
dựng đất nước riêng của mình.
Một hôm, Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Israel, sau
khi tham khảo ý kiến của những người bạn trí thức đã xin được
gặp ngay Thủ tướng để trình bày đề án xây dựng 10 trường đại học
kỹ thuật đầu tiên của Israel, với lý do: Nhà nước Do Thái lúc
bấy giờ (năm l950) chỉ có người đi buôn chứ không có người làm
kỹ thuật và nhà nước ấy sẽ lại tiêu vong nếu không có khoa học -
kỹ thuật.
Thủ tướng Israel lúc đó là một người có tầm nhìn
xa và dám quyết. Ngay trên bàn ăn sáng hôm ấy với Bộ trưởng Bộ
Giáo dục, ông đã quyết định xây dựng năm trường đại học kỹ thuật
đầu tiên của Israel (vì chỉ đủ kinh phí xây dựng năm trường).
Ngày nay, Israel đã có nền khoa học kỹ thuật rất phát triển, thu
nhập bình quân hơn 33 ngàn USD/đầu người.
- Từng đảm trách cương vị Thứ trưởng Bộ Khoa
học và Công nghệ, ông băn khoăn điều gì nhất trong nền khoa học
nước nhà?
Đó là nghiên cứu khoa học tại nước ta hiện nay
chưa được chú ý đúng mức. Hẳn chúng ta còn nhớ việc ra quyết
định sai lầm trong cơn bão Chanchu năm 2008, và cũng có thể là
như vậy đối với cơn bão mới vừa đây đã dẫn đến tác hại nghiêm
trọng như thế nào. Đây chắc chắn là hậu quả của sự thiếu được
đầu tư nghiên cứu một cách nghiêm túc, bài bản về khoa học khí
quyển.
Chẳng những khoa học khí quyển, mà còn nhiều bộ
môn khoa học cơ bản khác của nước ta cũng không được chú trọng
đúng mức. Về việc này, các nhà khoa học, có uy tín ở trong và
ngoài nước đã nhiều lần cảnh báo, nhưng cũng ít được lắng
nghe... Tôi e rằng đất nước sẽ còn phải trả giá đắt trong nhiều
năm nữa!
Trên thực tế, chỉ những nghiên cứu ứng dụng vụn
vặt, nhưng có hiệu quả tính được ra bằng tiền là đang được
khuyến khích, còn những nghiên cứu cơ bản thì từ lâu đã dần dần
bị bỏ rơi.
Thái độ nhấn mạnh kỹ thuật (công nghệ), coi nhẹ
khoa học (đặc biệt là các nghiên cứu cơ bản) là tình trạng phổ
biến ở hầu hết các nước đang phát triển. Tâm lý sốt ruột muốn
nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, cùng
với nguồn lực eo hẹp và sự thúc bách của cơ chế thị trường đã
làm cho các nhà hoạch định chính sách phát triển ở những nước
này dễ có khuynh hướng ưu tiên cho những đầu tư sớm có hiệu quả
theo kiểu "mì ăn liền".
Đầu tư cho công nghệ dễ thấy hiệu quả hơn là đầu
tư cho khoa học nhưng nếu không có một trình độ khoa học vững
vàng thì không thể phát triển công nghệ một cách có hiệu quả bền
vững. Nước ta còn nghèo thì phải cân nhắc thật kỹ tỷ lệ đầu tư
cho nghiên cứu khoa học và cho phát triển công nghệ để vừa dần
dần xây dựng tiềm lực khoa học mạnh mẽ, vừa tiến hành đổi mới
công nghệ một cách có hiệu quả. Gần đây tôi vui mừng nhận thấy
Bộ Khoa học và Công nghệ đã quan tâm hơn nhiều đến khu vực
nghiên cứu khoa học cơ bản.
Một điều đáng buồn khác là Việt Nam với gần 90
triệu dân mà chưa có một tạp chí phổ biến khoa học nào kiểu như
La recherche (Pháp), New scientist (Mỹ) v.v... Các
cơ quan nghiên cứu và các đại học của Nhà nước không quan tâm và
không cấp kinh phí đã đành, khi chúng tôi đề nghị được liên
doanh với Tập đoàn IDG của Mỹ để xuất bản một tạp chí như vậy
thì lại không được vì luật không cho phép liên doanh với nước
ngoài để xuất bản báo chí. Trong khi tại Trung Quốc, có đến 30
đầu báo khoa học liên doanh với IDG đã ra đời.
- Vậy muốn thay đổi thực trạng này chúng ta
nên bắt đầu từ đâu, thưa ông?
Từ giáo dục và đào tạo! Ngày nay, không nền kinh
tế nào có thể phát triển bền vững nếu không dựa vào khoa học và
công nghệ của chính mình. Khi khoa học và công nghệ đã trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp đúng như lời tiên đoán của Karl
Marx từ giữa thế kỷ XIX thì bản thân các nhà khoa học - công
nghệ, trong một số lĩnh vực, cũng đồng thời là nhà sản xuất.
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là tiềm năng khoa
học và công nghệ bao giờ cũng là chỗ dựa vững chắc của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Nhìn lại lịch sử nhân loại, chúng ta có
thể thấy sự xuất hiện và suy vong của các nền văn minh thường
gắn liền với khả năng nắm bắt hoặc bỏ lỡ cơ hội đối với các kỹ
thuật mới. Ở thời đại ngày nay, điều ấy càng đúng. Khi thông tin
và tri thức là tài nguyên quan trọng nhất thì tài nguyên con
người với tiềm năng trí tuệ cao là quý giá nhất. Đó là ai?
Trước hết, đó là các nhà khoa học - công nghệ
giỏi. Muốn có các nhà khoa học - công nghệ giỏi thì ưu tiên hàng
đầu là phải tập trung mọi nỗ lực để xây dựng một nền giáo dục
quốc dân lành mạnh và hiệu quả. Không có một nền khoa học và
công nghệ nào có thể phát triển được trên cơ sở một nền giáo dục
như của nước ta hiện nay.
- Là người chủ trì tổ chức Hội thảo hè 2008,
một hội thảo để giới trí thức trong và ngoài nước có cơ hội gặp
gỡ, thảo luận về những vấn đề của đất nước, theo ông, trí thức
Việt Nam trong và ngoài nước có tầm nhìn và trình độ như thế
nào? Có đủ sức giúp đất nước giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết
hiện nay?
Số lượng trí thức trong và ngoài nước trên tổng
số dân nước ta còn ít so với các nước khác, nhưng tầm nhìn và
trình độ của nhiều người trong số ít ỏi đó có lẽ cũng không thua
kém. Vấn đề là cơ chế dường như chưa đủ để cho người trí thức
phát huy hết năng lực của họ. Tôi tin chúng ta đủ khả năng giải
quyết nhiều vấn đề cấp thiết hiện nay nếu biết tổ chức, quản lý
và quan trọng hơn là cần tạo điều kiện bình đẳng cho mọi tiềm
năng được giải phóng.
- Một câu hỏi cuối, ông nghĩ gì về doanh nhân
Việt Nam?
Tôi ngưỡng mộ sự năng động và ý chí làm giàu một
cách chân chính của đại đa số trong số họ.
Trong ba loại người tài giỏi mà xã hội ta cần
hiện nay là: 1) Những người lãnh đạo ở các cấp Đảng và chính
quyền. Thiếu những nhà lãnh đạo tài ba thì mọi hoạt động khác
của xã hội sẽ kém hiệu quả. Ước mong sao ở tất cả các cấp này
phải là những người có tầm, có tâm và hết sức chuyên nghiệp. 2)
Các nhà doanh nghiệp tầm cỡ. 3) Các nhà khoa học giỏi.
Tôi đã cố tình xếp các nhà doanh nghiệp lên
trước các bạn đồng nghiệp khoa học và công nghệ của mình mà
không lo không được sự đồng tình của họ. Đơn giản là bởi vì ngày
nay "sức kéo" của thị trường vẫn mạnh hơn "sức đẩy" của khoa học
- công nghệ. Ước mong sao cho đất nước ta sớm có một tầng lớp
doanh nhân tài ba và giàu lòng yêu nước như các nhà tư sản dân
tộc trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.
- Xin cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện thú vị
này.
- Theo Cẩm Tú (Doanh
nhân Sài Gòn Cuối tuần)
- Tranh Hoàng Tường