Cố
Bộ trưởng Tạ Quang Bửu
Giáo sư Tạ Quang Bửu
(23/7/1910 – 21/8/1986) là một nhà khoa học, nhà toán học người Việt; ông
cũng từng đảm nhận cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Đại học
và Trung học chuyên nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông được bầu làm
đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khóa VI (1946–1981).
Giáo sư Tạ Quang Bửu là một
nhà khoa học uyên bác trên nhiều lĩnh vực, không chỉ trong khoa học tự
nhiên mà cả trong các khoa học xã hội như lịch sử, cổ học. Về cổ học, ông
đọc được Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử, Đạo đức kinh, Nam Hoa
kinh... trong nguyên bản Hán ngữ. Về ngôn ngữ, ông thành thạo tiếng Anh,
tiếng Pháp, sử dụng được tiếng Đức, đọc hiểu tiếng Nga, tiếng Hán, tiếng
Hi Lạp cổ, tiếng Latinh. Khi còn đi học, ông chỉ cốt sao thu nhận được
nhiều kiến thức nhất chứ không quan tâm đến việc thi lấy bằng. Bên cạnh
việc nghe giảng tại giảng đường đại học, ông dành phần lớn thời gian tự
học, tự cập nhật kiến thức. Khi làm bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, ông đã góp phần to lớn
vào việc xây dựng nền đại học trong thời kỳ chiến tranh, đóng góp nhiều
công sức vào sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ
thuật ở miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ này.
Giáo sư Tạ Quang Bửu là người
tham gia sáng lập Hội Vật lý Việt Nam (năm 1966). Ông đã được Đảng Cộng
sản và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân
chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất, Huân
chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Nhất,
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba.
Năm 1996, Giáo sư Tạ Quang
Bửu được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1) về khoa học
công nghệ với tập hợp các công trình "Giới thiệu khoa học kĩ thuật hiện
đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ
cứu nước và những quan điểm xây dựng ngành Đại học và Trung học chuyên
nghiệp nước nhà". Các công trình của ông được đánh giá là đã định hướng
phát triển một số ngành khoa học cơ bản; chỉ đạo kỹ thuật việc rà phá bom
mìn phong tỏa Vịnh Bắc Bộ, Hải Phòng và chỉ đạo những nhiệm vụ kỹ thuật
quan trọng khác trong kháng chiến chống Mỹ.
Tiểu sử
Giáo sư Tạ Quang Bửu được
sinh ra trong một gia đình nhà giáo tại thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.Năm 1922, ông thi vào trường Quốc học Huế và
đỗ thứ 11, sau đó ông ra Hà Nội học trường Bưởi. Năm 1929, sau khi đỗ đầu
tú tài Việt và đỗ đầu tú tài Tây ban Toán, ông nhận được học bổng sang
Pháp học.
Tại Pháp, năm 1929 ông đăng
ký học lớp toán đặc biệt của trường Louis le Grand về toán học và vật lý
lý thuyết, đăng ký học cử nhân toán ở Viện Henri Poincaré. Ở đây có hai
giảng đường lớn: Hermite dành cho cử nhân và Darboux dành cho những người
học trên đại học. Ông đã đến nghe giảng ở Hermite và tham dự các buổi
xê-mi-na ở Darboux. Tại đây, ông đã tiếp xúc với nhiều nhà toán học trẻ
của nước Pháp, bí mật tham gia nhóm Nicolas Bourbaki. Mục đích của nhóm
này là tổng kết toàn bộ thành tựu toán học của loài người, mọi thành viên
khi in các công trình toán học dù dưới dạng báo hay sách đều kí một bút
danh là N.Bourbaki. Nhóm đã công bố hơn 40 công trình đồ sộ, được đánh giá
cao. Năm 1961, ông cho ra đời tác phẩm về "Cấu trúc của Bourbaki".
Ông thi đỗ vào trường
Centrale Paris năm 1930, theo học chương trình cử nhân khoa học ở Đại học
Sorbonne, học toán ở các Đại học Paris, Đại học Bordeaux (Pháp) từ 1930
đến 1934 và được trường Bordeaux trao đổi sang Đại học Oxford (Anh) trong
một thời gian ngắn. Tại đây ông học thêm vật lý lượng tử.
Trở về nước năm 1934, ông
không ra làm quan mà đi dạy toán và tiếng Anh tại trường tư, ban đầu là
trường Phú Xuân, sau là trường dòng Providence (Thiên Hựu) ở Huế. Ngoài
tiếng Anh và toán, lí, hóa ông còn dạy các môn khoa học tự nhiên khác theo
yêu cầu của nhà trường. Các môn này (động vật, thực vật, khoáng vật) ông
tự nghiên cứu trong sách chuyên ngành cao hơn nhiều so với chương trình
trung học rồi lên lớp với những mẫu hiện vật tự sưu tầm. Với thể thao, ông
cũng tỏ ra xuất sắc ở một số môn và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho
các học sinh như: đánh bóng bàn theo kiểu Barma (đương kim vô địch thế
giới về bóng bàn, người Hunggary), tập điền kinh theo phương pháp khoa học
nhất, bơi sải (crawl)...
|
Đại diện Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam
Tạ Quang Bửu ký Hiệp định đình chiến ở Đông Dương |
Từ 1942 đến 1945, ông đi làm
công cho hãng Điện-Nước SIPEA, được cử phụ trách nghiên cứu. Ông đã thiết
kế nhiều bộ phận cho các nhà máy điện, tái sinh dầu nhờn cho Qui Nhơn. Ông
đã khước từ Huân chương Bắc đẩu do Pháp trao vì thiết kế đường dây điện
cao thế cho nhà máy vôi Long Thọ. Ngoài ra ông vẫn tranh thủ học thêm và
nghiên cứu cơ học lượng tử và phương trình vi phân.
Ông là một trong những người
tiên phong của Việt Nam dự trại Tráng sĩ của tổ chức Hướng đạo Việt Nam.
Thi đỗ, ông được cấp bằng trại trưởng và là đại diện huấn luyện cho toàn
Đông Dương. Ông được bầu làm Huynh trưởng Hướng đạo sinh Trung Kỳ.
Tháng 8/1945, ông ra Hà Nội
tham gia cách mạng. Từ tháng 9/1945 đến 1/1946, ông đã đảm nhận chức vụ
Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Năm 1946 ông tham gia đoàn
đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Đà Lạt, rồi Hội
nghị Fontainebleau (Pháp) đàm phán với Pháp và nhân đó sang Zurich dự lễ
kỷ niệm 200 năm thành lập Hội các nhà khoa học tự nhiên Thụy Sĩ vào tháng
7 năm đó.
Tháng
7 năm 1947, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8 năm 1947, ông
làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, sau đó một năm trở lại cương vị Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu đã chỉ đạo và biên soạn
cuốn sách "Bắn máy bay bằng súng trường tập trung" phổ biến rộng rãi khắp
nơi và sau đó khiến máy bay Pháp phải dè chừng trên vùng trời Việt Nam.
Kinh nghiệm này cũng được áp dụng cho dân quân du kích Việt Nam dùng súng
trường bộ binh bắn rơi máy bay phản lực Mỹ trong Chiến tranh chống Mỹ.
Tháng 8 năm 1948 ông là ủy
viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa được thành lập, sau đó còn làm Chánh
văn phòng Quân ủy Trung ương.
Tuy kiêm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng khác nhau, ông vẫn dành thời gian truyền thụ kiến thức của mình
cho các thế hệ học trò. Ngay trong những ngày Cách mạng mới thành công,
ông vừa tham gia các công việc của chính phủ vừa giảng dạy môn vật lý tại
Đại học Hà Nội
Năm 1954, ông tham gia đoàn
đại biểu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Geneva về Việt
Nam trên cương vị Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và là người đại diện cho Tổng
tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam kí văn bản Hiệp nghị đình chỉ chiến sự
tại Việt Nam và Lào, thường được biết đến dưới cái tên Hiệp định Geneva về
Việt Nam.
Ngay sau khi miền Bắc được
giải phóng, ông được cử làm Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà Nội
(1956-1961) đồng thời là Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng Thư ký Uỷ ban Khoa học
Nhà nước. Là lãnh đạo Uỷ ban Khoa học Nhà nước, ông trực tiếp làm trưởng
ban Sinh vật - Địa học. Các bài giảng của ông về sinh học hiện đại có các
giáo sư đầu ngành đến dự.
Ông là Bộ trưởng đầu tiên của
Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp từ 1965 đến 1976 để đào tạo nguồn
nhân lực cho đất nước. Giáo sư Tạ Quang Bửu đã đề xuất cải tiến nội dung
giảng dạy những điều "cơ bản nhất, hiện đại nhất và sát hợp với điều kiện
Việt Nam nhất". Theo sự chỉ đạo của Giáo sư, hệ thống các ban thư kí các
bộ môn và các ngành đào tạo được thành lập để cải tiến chương trình đào
tạo đồng thời các cán bộ có trình độ cao và kinh nghiệm giảng dạy cũng
được tập hợp để biên soạn các giáo trình. Ông có lúc là Giám đốc, kiêm
tổng biên tập NXB để lo đủ sách học cho SV với giá rẻ. Những kinh nghiệm
quý báu của thế hệ trí thức cách mạng rất tiếc đã không được nghiên cứu
nghiêm túc và kế thừa, nên từ năm 1987 đến nay giáo dục đại học càng đổi
mới càng rối và lệ thuộc vào bên ngoài (sao chép và nhập khẩu).
Vấn nạn “đói sách học chay “ là căn bệnh trầm kha của cách làm tốn nhiều
tiền nhưng lại thiếu tư duy “học thuật”! Hơn 20 năm qua, không có bất cứ
Bộ trưởng nào phát biểu với Quốc hội và dân, mỗi môn học tại các trường ĐH
có đủ một giáo trình học, trong khi đó ở các nước tiên tiến, mỗi môn học
có ít nhất 10 giáo trình trở lên. Những năm đầu của thập niên 1970, ông đã
tổ chức một loạt các cuộc hội thảo về phương pháp giảng dạy đại học, đặc
biệt là tự học. Chủ trương mở rộng quy mô đào tạo bằng việc lập nhiều
trường chuyên ngành đã được phối hợp chặt chẽ với chính sách tuyển chọn
mỗi năm hàng trăm sinh viên, cán bộ ưu tú để gửi đi đào tạo tại các nước
xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ này, giáo sư Tạ Quang
Bửu vẫn tham gia giải quyết những vấn đề gay cấn nhất trong khoa học kỹ
thuật quân sự. Mùa hè năm 1972, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh thả
thuỷ lôi trên sông biển và phong toả cảng Hải Phòng. Ông đã trực tiếp chỉ
đạo một tổ nghiên cứu thiết kế, chế tạo khí tài phá thuỷ lôi (mật danh
GK1) để chống lại thủy lôi chiến lược MK 52 của Mỹ, khí tài phá bom từ
trường (mật danh GK2) do Tiến sĩ Vũ Đình Cự làm tổ trưởng.
Đêm 14 tháng 8 năm 1986, ông
đột ngột ngưng làm việc do rối loạn tuần hoàn não và một tuần sau, ông qua
đời. Trong sự nghiệp giành độc lập, thống nhất và xây dựng đất nước,
Giáo sư Tạ Quang Bửu đã hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó bằng
tấm lòng trong sáng, tận tuỵ, thuỷ chung và bằng tài năng, sức lực của một
nhà khoa học có tầm và có tâm.